Bản án số 372/2025/HC-PT ngày 08/04/2025 của TAND cấp cao tại TP.HCM
- Thuộc tính
- Nội dung
- VB gốc
- VB liên quan
- Lược đồ
- Đính chính
- Án lệ
- BA/QĐ cùng nội dung
- Tải về
Tải văn bản
-
Bản án số 372/2025/HC-PT
Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để tải file. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!
-
Bản án số 372/2025/HC-PT
Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để tải file. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!
Báo lỗi
Thuộc tính Bản án 372/2025/HC-PT
Tên Bản án: | Bản án số 372/2025/HC-PT ngày 08/04/2025 của TAND cấp cao tại TP.HCM |
---|---|
Quan hệ pháp luật: | |
Cấp xét xử: | Phúc thẩm |
Tòa án xét xử: | TAND cấp cao tại TP.HCM |
Số hiệu: | 372/2025/HC-PT |
Loại văn bản: | Bản án |
Ngày ban hành: | 08/04/2025 |
Lĩnh vực: | Hành chính |
Áp dụng án lệ: |
Đã biết
Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để xem áp dụng án lệ. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây! |
Đính chính: |
Đã biết
Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để xem đính chính. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây! |
Thông tin về vụ án: | y án sơ thẩm |
Tóm tắt Bản án
Nội dung tóm tắt đang được cập nhật, Quý khách vui lòng quay lại sau!
Tải văn bản

TÒA ÁN NHÂN DÂN CẤP CAO
TẠI THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH
Bản án số: 372/2025/HC-PT
Ngày 08 tháng 4 năm 2025
V/v Khiếu kiện hành vi hành chính
về quản lý đất đai của Ủy ban nhân
dân và Chủ tịch Ủy ban nhân dân
trong trường hợp không ban hành
Quyết định thu hồi và Quyết định bồi
thường về đất.
CỘNG HÒA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM
Độc lập – Tự do – Hạnh phúc
NHÂN DANH
NƯỚC CỘNG HÒA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM
TÒA ÁN NHÂN DÂN CẤP CAO TẠI THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH
- Thành phần Hội đồng xét xử phúc thẩm gồm có:
Thẩm phán – Chủ tọa phiên tòa: Bà Hồ Thị Thanh Thúy
Các Thẩm phán: Ông Phan Tô Ngọc
Ông Phan Nhựt Bình
- Thư ký phiên tòa: Ông Phạm Phú Cường - Thư ký Tòa án nhân dân cấp
cao tại Thành phố Hồ Chí Minh.
- Đại diện Viện kiểm sát nhân dân cấp cao tại Thành phố Hồ Chí Minh
tham gia phiên tòa: Ông Hà Văn Hiến - Kiểm sát viên.
Ngày 08 tháng 4 năm 2025, tại trụ sở Tòa án nhân dân cấp cao tại Thành
phố Hồ Chí Minh, xét xử phúc thẩm công khai vụ án hành chính thụ lý số
1082/2024/TLPT-HC ngày 20 tháng 11 năm 2024 về việc “Khiếu kiện hành vi
hành chính về quản lý đất đai của Ủy ban nhân dân và Chủ tịch Ủy ban nhân dân
trong trường hợp không ban hành Quyết định thu hồi và Quyết định bồi thường
về đất”.
Do Bản án hành chính sơ thẩm số 13/2024/HC-ST ngày 16 tháng 5 năm
2024 của Tòa án nhân dân tỉnh Bạc Liêu bị kháng cáo.
Theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử phúc thẩm số 387/2025/QĐPT-HC
ngày 20 tháng 3 năm 2025, giữa các đương sự:
- Người khởi kiện: Ông Nguyễn Văn T, sinh năm 1962 (vắng mặt)
Địa chỉ: Ấp T, xã A, huyện Đ, tỉnh Bạc Liêu.
Người đại diện theo ủy quyền của ông Nguyễn Văn T: Bà Lê Ngọc P, sinh
năm 1970. Địa chỉ: Ấp Đ, xã P, huyện C, tỉnh Cà Mau (văn bản uỷ quyền ngày
23/10/2023) (có mặt)
2. Người bị kiện:
2
2.1. Ủy ban nhân dân huyện Đ, tỉnh Bạc Liêu
2.2. Chủ tịch Ủy ban nhân dân huyện Đ, tỉnh Bạc Liêu
Trụ sở: Ấp Gò Cát, xã Điền Hải, huyện Đông Hải, tỉnh Bạc Liêu
Người đại diện theo pháp luật: Ông Trần Tuấn K, chức vụ: Chủ tịch Ủy
ban nhân dân huyện Đ, tỉnh Bạc Liêu (có đơn xin xét xử vắng mặt)
3. Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan: Chủ tịch Ủy ban nhân dân
tỉnh B. Địa chỉ: Số E, đường N, Phường A, thành phố B, tỉnh Bạc Liêu.
Người đại diện theo pháp luật: Ông Phạm Văn T1, chức vụ: Chủ tịch (có
đơn xin xét xử vắng mặt)
- Người kháng cáo: Người khởi kiện là ông Nguyễn Văn T.
NỘI DUNG VỤ ÁN:
Theo đơn khởi kiện, biên bản lấy lời khai và tại phiên tòa, người đại diện
theo ủy quyền của người khởi kiện ông Nguyễn Văn T là bà Lê Ngọc P trình bày:
Ông T được ông, bà cho lại diện tích đất vào năm 2000. Ông đã được cấp
Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất thời gian nào thì ông không nhớ, nhưng khi
nhà nước làm lộ đã cắt phần đất của ông ra thanh 02, ông được cấp đổi thành 02
giấy chứng nhận quyền sử dụng đất vào ngày 02/3/2007 và 02/3/2009. Khi Ủy
ban nhân dân huyện Đ làm con lộ đất đen vào năm 2004 ảnh hưởng đến phần đất
ông T nhưng không có Quyết định thu hồi đất và bồi thường về đất. Từ trước đến
nay, ông T không đồng ý hiến đất, có yêu cầu bồi thường về đất nhưng không
được giải quyết. Trong khi cũng trên tuyến đường đắp lộ đất đen thì Ủy ban nhân
dân huyện Đ ban hành quyết định thu hồi đất của hộ bà Lê Thị B với diện tích đất
thu hồi của bà B là 12.240m
2
, mục đích sử dụng đất nuôi trồng thủy sản và chi trả
tiền bồi thường, hỗ trợ cho bà B với tổng số tiền là 143.926.000 đồng (thu hồi hết
đất của bà B) nhưng không xem xét bồi thường cho ông là không thoả đáng. Đến
năm 2008, Nhà nước tiếp tục làm lộ nhựa có chiều ngang 1,5m trên lộ đất đen.
Đến năm 2017, Ủy ban nhân dân huyện Đ thi công mở rộng lộ 3,5m trên tuyến
đường từ Đình thần N thuộc xã A A đến trụ sở Ủy ban nhân dân xã A, huyện Đ.
Ông T xác định, những lần làm lộ ông đều không đồng ý vì Nhà nước không bồi
thường, ông cũng không có hiến đất, ông có khiếu nại nhưng không được giải
quyết. Nay, ông Nguyễn Văn T yêu cầu Ủy ban nhân dân huyện Đ và Chủ tịch
Ủy ban nhân dân huyện Đ ban hành Quyết định thu hồi và Quyết định bồi thường
về đất khi thực hiện dự án xây dựng tuyến đường từ Đình thần N đến trụ sở Ủy
ban nhân dân xã A, huyện Đ, tỉnh Bạc Liêu có ảnh hưởng đến phần đất thuộc
quyền sử dụng đất của ông nhưng không ra quyết định.
Người bị kiện Ủy ban nhân dân huyện Đ và Chủ tịch Ủy ban nhân dân
huyện Đ, người đại diện theo pháp luật là ông Trần Tuấn K (chủ tịch) trình bày ý
kiến (bút lục 109-110):
3
Tuyến đường từ Đình thần Nguyễn Trung T2 đến Ủy ban nhân dân xã A
được hình thành từ khoảng năm 1980. Khoảng năm 1980, Nhà nước có chủ
trương đắp đê ngăn mặn nhằm phục vụ cho việc sản xuất nông nghiệp của người
dân. Hưởng ứng theo chủ trương của Nhà nước, các hộ dân trên tuyến đã hiến
đất, sức lao động để đắp đê ngăn mặn từ giáp với thị trấn H đến Ủy ban nhân dân
xã A (mặt đê khoảng 6m, chân đê mỗi bên 2m).
Đến khoảng năm 1997, do quá trình sản xuất nông nghiệp, đê ngăn mặn bị
xuống cấp, Nhà nước có chủ trương thuê cơ giới bồi đắp lại hiện trạng con đê đã
đào trước đây. Tất cả người dân trên tuyến đê thống nhất cao, không ai ngăn cản.
Nhằm phục vụ cho việc đi lại, lưu thông hàng hóa của người dân, khoảng
năm 2004, H chỉ đạo Ủy ban nhân dân xã A (chưa chia tách xã) và các ngành
chức năng vận động người dân làm đường đất đen trên hiện trạng con đê đã đào,
đắp trước đây. Sau khi được người dân thống nhất, Ủy ban nhân dân huyện chỉ
đạo các ngành chức năng phối hợp với Ủy ban nhân dân xã A thực hiện dự án thi
công tuyến đường đất đen trên hiện trạng con đê đã đào đắp khoảng năm 1980,
mặt đường hoàn chỉnh có chiều rộng là 6,5m.
Đến năm 2008, do nhu cầu bức xúc trong việc đi lại, vận chuyển hàng hóa
của người dân trên tuyến, H đã đầu tư tuyến lộ nhựa chiều rộng mặt đường nhựa
1,5m trên phần đường đất đen 6,5m. Các hộ dân trên toàn tuyến thống nhất,
không ai ngăn cản. Dự án xây dựng tuyến đường từ Đình thần N đến Ủy ban
nhân dân xã A triển khai thực hiện năm 2017, mặt đường nhựa 3,5m, lề mỗi bên
01m trong phạm vi đường đất đen 6,5m người dân đã thống nhất cho Nhà nước
thực hiện vào năm 2004. Do đó, việc thi công công trình không ảnh hưởng đến
nhà và đất của người dân. Ủy ban nhân dân tỉnh B thống nhất với chủ trương
không bồi thường về đất khi thi công gói thầu số 3 thuộc Dự án xây dựng đường
về trung tâm xã A (Công văn số 1486/UBND-KT ngày 12/4/2019 của Ủy ban
nhân dân tỉnh)
Từ các nội dung trên, Ủy ban nhân dân và Chủ tịch Ủy ban nhân huyện Đ
đề nghị Tòa án xử bác toàn bộ yêu cầu khởi kiện của ông Nguyễn Văn T.
Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan Chủ tịch Ủy ban nhân dân tỉnh B
trình bày ý kiến: Đề nghị Tòa án xét xử theo đúng quy định pháp luật.
Tòa án đã tiến hành tổ chức phiên họp kiểm tra việc giao nộp, tiếp cận,
công khai chứng cứ và đối thoại để các đương sự thống nhất với nhau về việc giải
quyết vụ án, nhưng người khởi kiện và người bị kiện đều có đơn yêu cầu không
tiến hành đối thoại nên Tòa án không tiến hành đối thoại được. Tòa án nhân dân
tỉnh Bạc Liêu mở phiên tòa xét xử công khai vụ án hành chính để Hội đồng xét
xử xem xét quyết định.
4
Tại Bản án hành chính sơ thẩm số 13/2024/HC-ST ngày 16 tháng 5 năm
2024 của Tòa án nhân dân tỉnh Bạc Liêu đã quyết định:
Bác toàn bộ yêu cầu khởi kiện của ông Nguyễn Văn T yêu cầu Ủy ban nhân
dân huyện Đ và Chủ tịch Ủy ban nhân dân huyện Đ ban hành Quyết định thu hồi
đất và Quyết định bồi thường khi thực hiện dự án xây dựng tuyến đường từ Đình
thần N đến trụ sở Ủy ban nhân dân xã A, huyện Đ, tỉnh Bạc Liêu.
Ngoài ra, bản án sơ thẩm còn quyết định về án phí và quyền kháng cáo.
Ngày 28/5/2024, người khởi kiện ông Nguyễn Văn T có đơn kháng cáo toàn
bộ bản án hành chính sơ thẩm.
Tại phiên tòa phúc thẩm:
Đại diện theo ủy quyền của người khởi kiện giữ nguyên yêu cầu khởi kiện
và yêu cầu kháng cáo, đề nghị Tòa án cấp phúc thẩm sửa bản án sơ thẩm, chấp
nhận toàn bộ yêu cầu khởi kiện của người khởi kiện.
Quan điểm của đại diện Viện kiểm sát tham gia phiên tòa:
Về tố tụng: Hội đồng xét xử và những người tham gia tố tụng tại phiên tòa
đã thực hiện đúng theo quy định pháp luật.
Về nội dung: Hồ sơ vụ án không có tài liệu thể hiện việc người dân hiến đất
đắp đê ngăn mặn. Người bị kiện cũng không cung cấp được chứng cứ chứng
minh. Tòa án cấp sơ thẩm không xem xét thẩm định tại chỗ, không thu thập bản
đồ địa chính chính quy, bản đồ 299 có như trình bày của người bị kiện hay không
để làm rõ vụ án; không thu thập chứng cứ về việc ủy ban bồi thường cho bà Lê
Thị B hay không, mà chỉ căn cứ vào trình bày của người bị kiện để giải quyết vụ
án là không toàn diện. Vì vậy, đề nghị Hội đồng xét xử chấp nhận kháng cáo của
người khởi kiện, hủy bản án sơ thẩm và chuyển hồ sơ cho Tòa án cấp sơ thẩm
giải quyết lại theo thủ tục chung.
NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN
Sau khi nghiên cứu các tài liệu, chứng cứ có trong hồ sơ vụ án được xem xét
tại phiên tòa và căn cứ vào kết quả tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận
định:
[1] Đơn kháng cáo của người khởi kiện được làm đúng thời hạn, hình thức
nội dung đảm bảo theo quy định pháp luật.
Tòa án đã triệu tập hợp lệ, người bị kiện, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên
quan có đơn xin xét xử vắng mặt. Căn cứ khoản 4 Điều 225 Luật Tố tụng Hành
chính, Tòa án nhân dân Cấp Cao tại Thành phố Hồ Chí Minh xét xử vắng mặt các
đương sự này.
[2] Xét kháng cáo của người khởi kiện, Hội đồng xét xử nhận định:
5
[2.1] Theo người bị kiện xác định: Năm 2017, Ủy ban nhân dân huyện Đ
tiến hành thực hiện dự án xây dựng và mở rộng tuyến lộ nhựa từ Đình thần
Nguyễn Trung T2 đến Ủy ban nhân dân xã A trong phạm vi nền lộ cũ đất đen
được làm năm 2004 (trong phạm vi tuyến đê hình thành từ năm 1978) thuộc
phạm vi Nhà nước quản lý, không mở rộng vào đất người dân nên không ban
hành Quyết định thu hồi, bồi thường đất.
Trong khi đó, người khởi kiện xác định: Khi Ủy ban nhân dân huyện Đ làm
con lộ đất đen vào năm 2004 ảnh hưởng đến phần đất của người khởi kiện nhưng
không có Quyết định thu hồi đất và bồi thường về đất, từ trước đến nay ông T
không đồng ý hiến đất như Ủy ban nhân dân huyện Đ trình bày, có yêu cầu bồi
thường về đất nhưng không được giải quyết. Trong khi cũng trên tuyến đường
đắp lộ đất đen thì Ủy ban nhân dân huyện Đ ban hành quyết định thu hồi đất của
hộ bà Lê Thị B với diện tích đất thu hồi của bà B là 12.240m
2
và chi trả tiền bồi
thường, hỗ trợ cho bà B với tổng số tiền là 143.926.000 đồng (thu hồi hết đất của
bà B) nhưng không xem xét bồi thường cho người khởi kiện là không thoả đáng.
Đến năm 2008, Nhà nước tiếp tục làm lộ nhựa có chiều ngang 1,5m trên lộ đất
đen. Năm 2017, tiếp tục làm lộ nhựa ngang mặt đường 3,5m, lề mỗi bên 01m.
Ông T xác định, những lần làm lộ ông đều không đồng ý vì Nhà nước không bồi
thường, có khiếu nại nhưng không được giải quyết.
[2.3] Xét thấy, các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và theo Báo cáo số 52/BC-
UBND ngày 09/9/2022 của Ủy ban nhân dân xã A và Báo cáo số 01/BC-
TXMKN ngày 10/10/2022 của Tổ xác minh khiếu nại 746 (thành lập theo Quyết
định số 746/QĐ-UBND ngày 28/7/2022 của Chủ tịch Ủy ban nhân dân huyện Đ).
Phần đất hiện có liên quan đến khiếu kiện của ông Nguyễn Văn T có nguồn gốc
hình thành từ con đê được đào đắp vào năm 1978. Thời điểm này, người dân sinh
sống chủ yếu bằng nghề trồng lúa nước, vì để đảm bảo phục vụ tưới tiêu, ngăn
mặn và sử dụng đi lại nên người dân khu vực này cùng tiến hành đào đắp hình
thành con đê có vị trí song song với Kênh xáng Bạc Liêu – Cà Mau thuộc địa
phận từ ấp T, ấp T, xã A đến ấp T xã A, huyện Đ, tỉnh Bạc Liêu. Đến khoảng
năm 1980, để ngăn nước mặn từ Kênh X Bạc Liêu - Cà Mau cũng làm nơi lưu trữ
nước tưới tiêu thì Nhà nước có chủ trương cùng với người dân tiến hành đào đắp
đất, hình thành con đê chạy dài từ Đình thần Nguyễn Trung T2 đến Ủy ban nhân
dân xã A, vị trí song song với Kênh X - Cà Mau (mặt đê khoảng 6m, chân đê mỗi
bên 2m).
Đến khoảng năm 1997, do quá trình sản xuất nông nghiệp, đê ngăn mặn bị
xuống cấp, Nhà nước có chủ trương thuê cơ giới bồi đắp lại hiện trạng con đê đã
đào trước đây. Nhằm phục vụ cho việc đi lại, lưu thông hàng hóa của người dân,
khoảng năm 2004, Ủy ban nhân dân huyện Đ thực hiện dự án thi công tuyến
đường đất đen cặp con đê, mặt đường hoàn chỉnh có chiều rộng là 5,5 - 6,5m. Từ
6
khi hình thành đê ngăn mặn đến trước khi thực hiện dự án lộ nhựa từ Đình thần
Nguyễn Trung T2 đến Ủy ban nhân dân xã A không hộ dân nào yêu cầu, khiếu
nại đối với tuyến lộ này. Đến năm 2008, do nhu cầu trong việc đi lại, vận chuyển
hàng hóa của người dân trên tuyến, H đã đầu tư tuyến lộ nhựa chiều rộng mặt
đường nhựa 1,5m trên phần đường đất đen 6,5m. Các hộ dân trên toàn tuyến
thống nhất, không ai ngăn cản. Đến năm 2017, Ủy ban nhân dân huyện Đ thi
công mở rộng lộ 3,5m trên tuyến đường từ Đình thần N thuộc xã A A đến trụ sở
Ủy ban nhân dân xã A, huyện Đ. Khi thi công công trình lộ mới vào năm 2017 có
chiều ngang mặt lộ 3,5m, lề lộ mỗi bên 01 mét, con lộ hiện nay nằm trong phạm
vi lộ đất đen 6,5m
Quá trình thực hiện việc đắp đê ngăn mặn vào năm 1978 cũng như làm
đường đất đen trên hiện trạng con đê đã đào, đắp trước đây vào năm 2004, các hộ
dân trên tuyến (trong đó có ông T) đã hiến đất, sức lao động mà không có ý kiến
phản đối hay khiếu nại gì. Người khởi kiện cho rằng khi đắp đê và làm con lộ đen
nêu trên, ông T không hiến đất mà có khiếu nại yêu cầu bồi thường mà không
được giải quyết cũng như trên tuyến đường đắp lộ đất đen thì Ủy ban nhân dân
huyện Đ ban hành quyết định thu hồi đất của hộ bà Lê Thị B với diện tích đất thu
hồi của bà B là 12.240m
2
và chi trả tiền bồi thường, hỗ trợ cho bà B với tổng số
tiền là 143.926.000 đồng, nhưng không cung cấp được tài liệu, chứng cứ nào
chứng minh cho trình bày của mình.
Mặt khác, thời điểm trước năm 2008, Nhà nước đã quản lý tuyến đường này
thể hiện trên Bản đồ 299, theo đó trên bản đồ có thể hiện tuyến đê từ Đình thần
Nguyễn Trung T2 đến Ủy ban nhân dân xã A song song với Kênh X Bạc Liêu -
Cà Mau đã hình thành. Hiện nay, tại Bản đồ chính quy được lập vào năm 2005
(Theo Quyết đinh số 750/QĐ-UBND ngày 27/7/2004 của Chủ tịch Ủy ban nhân
dân tỉnh B về việc phê duyệt dự án lập lưới địa chính, đo vẽ bản đồ địa chính và
lập hồ sơ địa chính của hai thị trấn và huyện Đ) có thể hiện con lộ đất đen hình
thành năm 2004 và Nhà nước không công nhận quyền sử dụng đất trên toàn bộ
tuyến lộ cho bất cứ cá nhân, tổ chức nào. Đồng thời, tại Giấy chứng nhận quyền
sử dụng đất được cấp cho các hộ dân từ thời điểm năm 2005, nhà nước chỉ công
nhận quyền sử dụng đất cho các hộ dân ngoài phạm vi tuyến lộ nhưng không ai
có khiếu nại gì về việc cấp giấy chứng nhận này. Tức sau khi hoàn thành việc làm
lộ đất đen vào năm 2004, Nhà nước đã quản lý tuyến đường này đến nay.
Như vậy, có cơ sở xác định trình bày của người bị kiện là có căn cứ. Đến
năm 2017, Ủy ban nhân dân huyện Đ tiếp tục thi công, xây dựng tuyến đường lộ
nhựa từ Đình thần Nguyễn Trung T2 đến Trụ sở Ủy ban nhân dân xã A (có bề
rộng 3,5m, lề mỗi bên 01m, tổng là 5,5m) nằm hoàn toàn trong phạm vi 6,5m lộ
đất đen mà người dân đã thống nhất cho Nhà nước xây dựng vào năm 2004 cũng
như quá trình thực hiện dự án, Nhà nước dựa trên mặt đường lộ cũ (trong phạm
7
vi, diện tích đất của tuyến đê có từ năm 1978). Vì vậy, việc thi công không ảnh
hưởng đến nhà, đất của các hộ dân. Do đó, nhà nước không thu hồi, bồi thường
đất đối với các hộ dân là đúng quy định. Tòa án cấp sơ thẩm bác yêu cầu khởi
kiện của người khởi kiện là có căn cứ.
[3] Từ những nhận định trên, Hội đồng xét xử xét thấy, Tòa án cấp sơ thẩm
bác yêu cầu khởi kiện của ông T là có cơ sở, đúng quy định của pháp luật. Tại
phiên tòa phúc thẩm, ông T kháng cáo nhưng không cung cấp được chứng cứ nào
mới chứng minh nên Hội đồng xét xử bác kháng cáo của người khởi kiện và giữ
nguyên bản án sơ thẩm. Quan điểm của đại diện Viện kiểm sát không phù hợp
với các chứng cứ tài liệu có trong hồ sơ vụ án và nhận định của Hội đồng xét xử
nên không được chấp nhận.
[4] Các quyết định khác của bản án sơ thẩm không có kháng cáo, kháng
nghị đã có hiệu lực pháp luật kể từ ngày hết thời hạn kháng cáo, kháng nghị.
[5] Về án phí hành chính phúc thẩm: Ông Nguyễn Văn T là người cao tuổi
nên được miễn, theo quy định của pháp luật.
Vì các lẽ trên;
QUYẾT ĐỊNH:
Căn cứ khoản 1 Điều 241 Luật Tố tụng hành chính;
Bác yêu cầu kháng cáo của người khởi kiện ông Nguyễn Văn T. Giữ nguyên
Bản án hành chính sơ thẩm số 13/2024/HC-ST ngày 16 tháng 5 năm 2024 của
Tòa án nhân dân tỉnh Bạc Liêu.
Áp dụng Luật đất đai năm 2013; Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14 ngày
30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm,
thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án;
Tuyên xử:
1. Bác toàn bộ yêu cầu khởi kiện của ông Nguyễn Văn T yêu cầu Ủy ban
nhân dân huyện Đ và Chủ tịch Ủy ban nhân dân huyện Đ ban hành Quyết định
thu hồi đất và Quyết định bồi thường khi thực hiện dự án xây dựng tuyến đường
từ Đình thần N đến trụ sở Ủy ban nhân dân xã A, huyện Đ, tỉnh Bạc Liêu.
2. Án phí hành chính sơ thẩm: Ông Nguyễn Văn T phải chịu 300.000 đồng.
Ông T đã nộp tạm ứng án phí số tiền 300.000 đồng (do bà Lê Ngọc P nộp thay)
theo Biên lai thu tạm ứng án phí, lệ phí Tòa án số 0000060 ngày 26/10/2023 của
Cục Thi hành án dân sự tỉnh Bạc Liêu được chuyển thu án phí.
3. Án phí hành chính phúc thẩm: Ông Nguyễn Văn T được miễn.
8
4. Các quyết định khác của bản án sơ thẩm không có kháng cáo, kháng nghị
đã có hiệu lực pháp luật kể từ ngày hết thời hạn kháng cáo, kháng nghị.
Bản án phúc thẩm có hiệu lực pháp luật kể từ ngày tuyên án.
Nơi nhận: TM. HỘI ĐỒNG XÉT XỬ PHÚC THẨM
- Tòa án nhân dân tối cao; THẨM PHÁN - CHỦ TỌA PHIÊN TÒA
- VKSND cấp cao tại TP . HCM;
- TAND tỉnh Bạc Liêu;
- VKSND tỉnh Bạc Liêu;
- Cục THADS tỉnh Bạc Liêu;
- Các đương sự;
- Lưu.
Hồ Thị Thanh Thúy
Tải về
Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để tải file. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!
Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để tải file. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!
Bản án/ Quyết định cùng đối tượng
1
Ban hành: 05/05/2025
Cấp xét xử: Phúc thẩm
2
Ban hành: 05/05/2025
Cấp xét xử: Phúc thẩm
3
Ban hành: 29/04/2025
Cấp xét xử: Phúc thẩm
4
Ban hành: 28/04/2025
Cấp xét xử: Phúc thẩm
5
Ban hành: 28/04/2025
Cấp xét xử: Phúc thẩm
6
Ban hành: 26/04/2025
Cấp xét xử: Phúc thẩm
7
Ban hành: 26/04/2025
Cấp xét xử: Phúc thẩm
8
Ban hành: 25/04/2025
Cấp xét xử: Phúc thẩm
9
Ban hành: 25/04/2025
Cấp xét xử: Phúc thẩm
10
Ban hành: 25/04/2025
Cấp xét xử: Phúc thẩm
11
Ban hành: 24/04/2025
Cấp xét xử: Phúc thẩm
12
Ban hành: 24/04/2025
Cấp xét xử: Phúc thẩm
13
Ban hành: 24/04/2025
Cấp xét xử: Phúc thẩm
14
Ban hành: 24/04/2025
Cấp xét xử: Phúc thẩm
15
Ban hành: 24/04/2025
Cấp xét xử: Phúc thẩm
16
Ban hành: 23/04/2025
Cấp xét xử: Phúc thẩm
17
Ban hành: 23/04/2025
Cấp xét xử: Phúc thẩm
18
Ban hành: 23/04/2025
Cấp xét xử: Phúc thẩm
19
Ban hành: 23/04/2025
Cấp xét xử: Phúc thẩm
20
Ban hành: 22/04/2025
Cấp xét xử: Phúc thẩm