Bản án số 373/2025/HC-PT ngày 08/04/2025 của TAND cấp cao tại TP.HCM

  • Thuộc tính
  • Nội dung
  • VB gốc
  • VB liên quan
  • Lược đồ
  • Đính chính
  • Án lệ
  • BA/QĐ cùng nội dung
  • Tải về
Tải văn bản
Báo lỗi
  • Gửi liên kết tới Email
  • Chia sẻ:
  • Chế độ xem: Sáng | Tối
  • Thay đổi cỡ chữ:
    17

Thuộc tính Bản án 373/2025/HC-PT

Tên Bản án: Bản án số 373/2025/HC-PT ngày 08/04/2025 của TAND cấp cao tại TP.HCM
Quan hệ pháp luật:
Cấp xét xử: Phúc thẩm
Tòa án xét xử: TAND cấp cao tại TP.HCM
Số hiệu: 373/2025/HC-PT
Loại văn bản: Bản án
Ngày ban hành: 08/04/2025
Lĩnh vực: Hành chính
Áp dụng án lệ:
Đã biết

Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để xem áp dụng án lệ. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!

Đính chính:
Đã biết

Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để xem đính chính. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!

Thông tin về vụ án: y án sơ thẩm
Tóm tắt Bản án

Nội dung tóm tắt đang được cập nhật, Quý khách vui lòng quay lại sau!

Tải văn bản

TÒA ÁN NHÂN DÂN CẤP CAO
TẠI THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH
Bản án số: 373/2025/HC-PT
Ngày 08 tháng 4 năm 2025
V/v Khiếu kiện hành vi hành chính
về quản đất đai của y ban nhân
dân và Chủ tịch y ban nhân dân
trong trường hợp không ban hành
Quyết định thu hồi và Quyết định bồi
thường về đất.
CỘNG HÒA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM
Độc lập – Tự do – Hạnh phúc
NHÂN DANH
NƯỚC CỘNG HÒA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM
TÒA ÁN NHÂN DÂN CẤP CAO TẠI THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH
- Thành phần Hội đồng xét xử phúc thẩm gồm có:
Thẩm phán Chủ tọa phiên tòa: Bà Hồ Thị Thanh Thúy
Các Thẩm phán: Ông Phan Tô Ngọc
Ông Phan Nhựt Bình
- Thư phiên tòa: Ông Phạm Phú Cường - Thư Tòa án nhân dân cấp
cao tại Thành phố Hồ Chí Minh.
- Đại diện Viện kiểm sát nhân dân cấp cao tại Thành phố Hồ Chí Minh
tham gia phiên tòa: Ông Hà Văn Hiến - Kiểm sát viên.
Ngày 08 tháng 4 năm 2025, tại trụ sTòa án nhân dân cấp cao tại Thành
phố Hồ Chí Minh, xét xử phúc thẩm công khai vụ án hành chính thụ số
1023/2024/TLPT-HC ngày 20 tháng 11 năm 2024 về việc “Khiếu kiện hành vi
hành chính về quản lý đất đai của Ủy ban nhân dân và Chủ tịch Ủy ban nhân dân
trong trường hợp không ban hành Quyết định thu hồi Quyết định bồi thường
về đất”.
Do Bản án hành chính thẩm số 16/2024/HC-ST ngày 17 tháng 5 năm
2024 của Tòa án nhân dân tỉnh Bạc Liêu bị kháng cáo.
Theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử phúc thẩm số 389/2025/QĐPT-HC
ngày 20 tháng 3 năm 2025, giữa các đương sự:
- Người khởi kiện: Ông Phương Ứng K, sinh năm 1964 (vắng mặt)
Địa chỉ: Ấp B, xã T, thành phố C, tỉnh Cà Mau.
Người đại diện theo ủy quyền: Bà Ngọc P, sinh năm 1970. Địa chỉ: Ấp
Đ, xã P, huyện C, tỉnh Cà Mau (văn bản uỷ quyền ngày 23/10/2023) (có mặt)
2. Người bị kiện:
2.1. Ủy ban nhân dân huyện Đ, tỉnh Bạc Liêu
2.2. Chủ tịch Ủy ban nhân dân huyện Đ, tỉnh Bạc Liêu
2
Trụ sở: Ấp Gò Cát, xã Điền Hải, huyện Đông Hải, tỉnh Bạc Liêu
Người đại diện theo pháp luật: Ông Trần Tuấn K1, chức vụ: Chủ tịch Ủy
ban nhân dân huyện Đ, tỉnh Bạc Liêu (có đơn xin xét xử vắng mặt)
3. Người quyền lợi, nghĩa vụ liên quan: Chủ tịch Ủy ban nhân dân
tỉnh B. Địa chỉ: Số E, đường N, Phường A, thành phố B, tỉnh Bạc Liêu.
Người đại diện theo pháp luật: Ông Phạm Văn T, chức vụ: Chủ tịch (có
đơn xin xét xử vắng mặt)
- Người kháng cáo: Người khởi kiện là ông Phương Ứng K.
NỘI DUNG VỤ ÁN:
Theo đơn khởi kiện, biên bản lấy lời khai tại phiên tòa, người đại din
theo y quyền của người khởi kiện ông Phương Ứng K Ngọc P trình
bày:
Về nguồn gốc đất của ông bên vợ của ông K khai phá trước năm
1975, sau đó cho lại mẹ vợ ông K Dương Thị T1. Đến năm 2001 thì mẹ vợ
cho lại vợ chồng ông K, vợ chồng ông K được cấp giấy chứng nhận quyền sử
dụng đất vào ngày 06/10/2010 tại thửa đất số 166, tờ bản đồ 25, diện tích
5.456,8m
2
.
Vào năm 1980, nhà nước bắt đầu thực hiện dự án đắp đê ngăn mặn đến
khi làm lộ nhựa vào năm 2017 thì mẹ vợ ông K vợ chồng ông K đều không
đồng ý hiến đất. Năm 2004 khi nhà nước tiến hành thi công lộ đất đen có họp dân
nhưng ông K vẫn không đồng ý. Tại thời điểm này đất của ông K đang nuôi tôm,
ngoài ra không công trình, kiến trúc khác. Thời điểm đó 02 hộ dân là
Thị B Ngô Kim C cũng bị ảnh hưởng bởi tuyến đường nêu trên nhưng
được bồi thường về đất, hoa màu trên đất các hỗ trợ khác. Thời điểm này ông
K có khiếu nại nhưng văn bản viết tay không còn lưu giữ.
Năm 2017, nhà nước làm lộ 3,5m ông K cũng không đồng ý. Tuy nhiên
trên tuyến đường từ Đình thần N đến Ủy ban nhân dân A các cây cầu
những hộ dân phần đất gần móng cầu bị thu hồi thì được bồi thường về đất
các hoa màu trên đất.
Ông K làm đơn khiếu nại đến Chủ tịch Ủy ban nhân dân huyện Đ
Chủ tịch Ủy ban nhân n tỉnh B. Chủ tịch y ban nhân dân huyện Đ Quyết
định số 4057/QĐ-UBND, ngày 28/10/2022 bác khiếu nại lần đầu của Phương
Ứng K Quyết định số 1212/ -UBND, ngày 26/6/2023 của Chủ tịch Ủy ban
nhân dân tỉnh B bác khiếu nại lần hai của ông Phương Ứng K.
Nay ông Phương Ứng K khởi kiện yêu cầu Tòa án buộc Ủy ban nhân dân
huyện Đ ra quyết định thu hồi đất và Chủ tịch Ủy ban nhân dân huyện Đ ra quyết
định chi trả tiền bồi thường giá trị đất khi thực hiện dự án xây dựng tuyến đường
3
từ Đình thần N đến trụ sở Ủy ban nhân dân A, huyện Đ theo quy định của
pháp luật.
Người bkiện Ủy ban nhân dân huyện Đ Chtịch Ủy ban nhân dân
huyện Đ, người đại diện theo pháp luật là ông Trần Tuấn K1 (chủ tịch) trình bày
ý kiến:
Tuyến đường từ Đình thần Nguyễn Trung T2 đến Ủy ban nhân dân A
được hình thành từ khoảng năm 1980. Khoảng năm 1980, Nhà nước chủ
trương đắp đê ngăn mặn nhằm phục vụ cho việc sản xuất nông nghiệp của người
dân. Hưởng ứng theo chủ trương của Nhà nước, các hộ dân trên tuyến đã hiến
đất, sức lao động để đắp đê ngăn mặn từ giáp với thị trấn H đến Ủy ban nhân dân
xã A (mặt đê khoảng 6m, chân đê mỗi bên 2m).
Đến khoảng năm 1997, do quá trình sản xuất nông nghiệp, đê ngăn mặn bị
xuống cấp, Nhà nước chủ trương thuê giới bồi đắp lại hiện trạng con đê đã
đào trước đây. Tất cả người dân trên tuyến đê thống nhất cao, không ai ngăn cản.
Nhằm phục vcho việc đi lại, lưu thông hàng hóa của người dân, khoảng
năm 2004, H chỉ đạo Ủy ban nhân dân A (chưa chia tách xã) các ngành
chức năng vận động người dân làm đường đất đen trên hiện trạng con đê đã đào,
đắp trước đây. Sau khi được người dân thống nhất, Ủy ban nhân dân huyện chỉ
đạo các ngành chức năng phối hợp với Ủy ban nhân dân xã A thực hiện dự án thi
công tuyến đường đất đen trên hiện trạng con đê đã đào đắp khoảng năm 1980,
mặt đường hoàn chỉnh có chiều rộng là 6,5m.
Khi triển khai thực hiện làm lđất đen các hộ dân trên tuyến đếu thống
nhất, không ai ngăn cản. Tuy nhiên, khi thực hiện công trình đến phần đất của hộ
Thị B, gia đình B không thống nhất, cương quyết ngăn cản đnghị
thu hồi, bồi thường về đất khi thực hiện làm lộ đất đen. Tại thời điểm này, nhằm
phục vụ lợi ích chung sự đi lại rất khó khăn, bức xúc của nhân dân trong khu
vực. Đồng thời, xét thấy chỉ một hộ duy nhất nên Ủy ban nhân dân huyện mới
thực hiện thu hồi, bồi thường phần đất của Lê Thị B. Diện tích thu hồi đất của
Thị B 12.240m
2
, mục đích s dụng đất nuôi trồng thủy sản. Ngoài
trường hợp của hộ bà Lê Thị B thì không còn trường hợp nào tương tự.
Đến khi thành lập bản đồ địa chính chính quy (2006) xác lập đường đất do
Nhà nước quản lý. Từ khi hình thành đê ngăn mặn đến trước khi thực hiện dự án
lộ nhựa từ Đình thần Nguyễn Trung T2 đến Ủy ban nhân dân A không hộ dân
nào yêu cầu, khiếu nại đối với tuyến lộ này.
Đến năm 2008, do nhu cầu bức xúc trong việc đi lại, vận chuyển hàng hóa
của người dân trên tuyến, H đã đầu tuyến lnhựa chiều rộng mặt đường nhựa
1,5m trên phần đường đất đen 6,5m. Các hộ dân trên toàn tuyến thống nhất,
không ai ngăn cản. Dự án xây dựng tuyến đường từ Đình thần N đến Ủy ban
nhân dân A triển khai thực hiện năm 2017, mặt đường nhựa 3,5m, lmỗi bên
01m trong phạm vi đường đất đen 6,5m người dân đã thống nhất cho Nnước
4
thực hiện vào năm 2004. Do đó, việc thi công công trình không ảnh hưởng đến
nhà đất của người dân. Ủy ban nhân dân tỉnh B thống nhất với chủ trương
không bồi thường về đất khi thi công gói thầu số 3 thuộc Dự án xây dựng đường
về trung tâm A (Công văn số 1486/UBND-KT ngày 12/4/2019 của Ủy ban
nhân dân tỉnh)
Từ các nội dung trên, Ủy ban nhân dân Chủ tịch Ủy ban nhân huyện Đ
đề nghị Tòa án xử bác toàn bộ yêu cầu khởi kiện của ông Phương Ứng K.
Người quyền lợi, nghĩa vụ liên quan Chủ tịch Ủy ban nhân dân tỉnh B
trình bày ý kiến: Đề nghị Toà án xét xử theo đúng quy định pháp luật.
Tại Bản án hành chính thẩm số 16/2024/HC-ST ngày 17 tháng 5 năm
2024 của Tòa án nhân dân tỉnh Bạc Liêu đã quyết định:
Bác toàn bộ yêu cầu khởi kiện của ông Phương Ứng K yêu cầu Ủy ban nhân
dân huyện Đ ban hành quyết định thu hồi đất Chủ tịch ủy ban nhân dân huyện
Đ ban hành Quyết định bồi thường giá trị đất khi thực hiện dự án xây dựng tuyến
đường từ Đình thần N đến trụ sở Ủy ban nhân dân xã A, huyện Đ, tỉnh Bạc Liêu.
Ngoài ra, bản án sơ thẩm còn quyết định về án phí và quyền kháng cáo.
Ngày 28/5/2024, người khởi kiện ông Phương Ứng K có đơn kháng cáo toàn
bộ bản án hành chính sơ thẩm.
Tại phiên tòa phúc thẩm:
Đại diện theo ủy quyền của người khởi kiện giữ nguyên yêu cầu khởi kiện
yêu cầu kháng cáo, đề nghị Tòa án cấp phúc thẩm sửa bản án thẩm, chấp
nhận toàn bộ yêu cầu khởi kiện của người khởi kiện.
Quan điểm của đại diện Viện kiểm sát tham gia phiên tòa:
Về tố tụng: Hội đồng xét xử và những người tham gia tố tụng tại phiên tòa
đã thực hiện đúng theo quy định pháp luật.
Về nội dung: Hồ sơ vụ án không tài liệu thể hiện việc người dân hiến đất
đắp đê ngăn mặn. Người b kiện ng không cung cấp được chứng cứ chứng
minh. Tòa án cấp thẩm không xem xét thẩm định tại chỗ, không thu thập bản
đồ địa chính chính quy, bản đồ 299 có như trình bày của người bị kiện hay không
để làm vụ án; không thu thập chứng cứ về việc ủy ban bồi thường cho
Thị B hay không, chỉ căn cứ vào trình bày của người bị kiện để giải quyết vụ
án không toàn diện. Vì vậy, đề nghị Hội đồng xét xử chấp nhận kháng cáo của
người khởi kiện, hủy bản án thẩm chuyển hồ sơ cho Tòa án cấp thẩm
giải quyết lại theo thủ tục chung.
NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN
5
Sau khi nghiên cứu các tài liệu, chứng cứ có trong hồ sơ vụ án được xem xét
tại phiên tòa và căn cứ vào kết quả tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận
định:
[1] Đơn kháng cáo của người khởi kiện được làm đúng thời hạn, hình thức
nội dung đảm bảo theo quy định pháp luật.
Tòa án đã triệu tập hợp lệ, người bị kiện người quyền lợi, nghĩa vụ
liên quan đơn xin xét xử vắng mặt. Căn cứ khoản 4 Điều 225 Luật Tố tụng
nh chính, Tòa án nhân dân Cấp Cao tại Thành phố Hồ Chí Minh xét xử vắng
mặt các đương sự này.
[2] Xét kháng cáo của người khởi kiện, Hội đồng xét xử nhận định:
[2.1] Theo người bị kiện xác định: Năm 2017, Ủy ban nhân dân huyện Đ
tiến hành thực hiện dự án xây dựng mở rộng tuyến lộ nhựa từ Đình thn
Nguyễn Trung T2 đến Ủy ban nhân dân A trong phạm vi nền lộ đất đen
được làm năm 2004 (trong phạm vi tuyến đê hình thành từ năm 1978) thuộc
phạm vi Nhà nước quản lý, không mở rộng vào đất người dân nên không ban
hành Quyết định thu hồi, bồi thường đất.
Trong khi đó, người khởi kiện xác định: Khi Ủy ban nhân dân huyện Đ làm
con lộ đất đen vào năm 2004 ảnh hưởng đến phần đất của người khởi kiện nhưng
không Quyết định thu hồi đất bồi thường về đất, từ trước đến nay ông K
không đồng ý hiến đất như y ban nhân dân huyện Đ trình bày, yêu cầu bồi
thường về đất nhưng không được giải quyết. Trong khi cũng trên tuyến đường
đắp lộ đất đen thì Ủy ban nhân dân huyện Đ ban hành quyết định thu hồi đất của
hộ bà Thị B với diện tích đất thu hồi của B 12.240m
2
chi trả tiền bồi
thường, hỗ trợ cho B với tổng số tiền là 143.926.000 đồng (thu hồi hết đất của
B) nhưng không xem xét bồi thường cho người khởi kiện không thoả đáng.
Đến năm 2008, Nhà nước tiếp tục làm lộ nhựa chiều ngang 1,5m trên lộ đất
đen. Năm 2017, tiếp tục làm lộ nhựa ngang mặt đường 3,5m, lề mỗi bên 01m.
Ông K xác định, những lần làm lộ ông đều không đồng ý Nhà nước không bồi
thường, có khiếu nại nhưng không được giải quyết.
[2.3] Xét thấy, các i liệu trong hồ vụ án theo Báo cáo số 52/BC-
UBND ngày 09/9/2022 của Ủy ban nhân dân xã A và Báo cáo số 01/BC-
TXMKN ngày 10/10/2022 của Tổ xác minh khiếu nại 746 (thành lập theo Quyết
định số 746/QĐ-UBND ngày 28/7/2022 của Chủ tịch Ủy ban nhân dân huyện Đ).
Phần đất hiện liên quan đến khiếu kiện của ông Phương Ứng K nguồn gốc
hình thành từ con đê được đào đắp vào năm 1978. Thời điểm này, người dân sinh
sống chủ yếu bằng nghề trồng lúa nước, để đảm bảo phục vụ tưới tiêu, ngăn
mặn sử dụng đi lại nên người dân khu vực này cùng tiến hành đào đắp hình
thành con đê vị trí song song với Kênh xáng Bạc Liêu Mau thuộc địa
phận từ ấp T, ấp T, A đến ấp T A, huyện Đ, tỉnh Bạc Liêu. Đến khoảng
năm 1980, để ngăn nước mặn từ Kênh X Bạc Liêu - Cà Mau cũng làm nơi lưu trữ
6
nước tưới tiêu thì Nhà nước chủ trương cùng với người dân tiến hành đào đắp
đất, hình thành con đê chạy dài từ Đình thần Nguyễn Trung T2 đến Ủy ban nhân
dân xã A, vị trí song song với Kênh X - Cà Mau (mặt đê khoảng 6m, chân đê mỗi
bên 2m).
Đến khoảng năm 1997, do quá trình sản xuất nông nghiệp, đê ngăn mặn bị
xuống cấp, Nhà nước chủ trương thuê giới bồi đắp lại hiện trạng con đê đã
đào trước đây. Nhằm phục vụ cho việc đi lại, lưu thông hàng hóa của người dân,
khoảng năm 2004, Ủy ban nhân dân huyện Đ thực hiện dự án thi công tuyến
đường đất đen cặp con đê, mặt đường hoàn chỉnh có chiều rộng 5,5 - 6,5m. Từ
khi hình thành đê ngăn mặn đến trước khi thực hiện dự án lộ nhựa từ Đình thần
Nguyễn Trung T2 đến Ủy ban nhân dân A không hộ dân nào yêu cầu, khiếu
nại đối với tuyến lộ này. Đến năm 2008, do nhu cầu trong việc đi lại, vận chuyển
hàng hóa của người dân trên tuyến, H đã đầu tuyến lộ nhựa chiều rộng mặt
đường nhựa 1,5m trên phần đường đất đen 6,5m. Các hộ dân trên toàn tuyến
thống nhất, không ai ngăn cản. Đến năm 2017, Ủy ban nhân dân huyện Đ thi
công mở rộng lộ 3,5m trên tuyến đường từ Đình thần N thuộc A A đến trụ sở
Ủy ban nhân dân xã A, huyện Đ. Khi thi công công trình lộ mới vào năm 2017 có
chiều ngang mặt lộ 3,5m, lề lộ mỗi bên 01 mét, con lộ hiện nay nằm trong phạm
vi lộ đất đen 6,5m.
Quá trình thực hiện việc đắp đê ngăn mặn vào năm 1978 cũng như làm
đường đất đen trên hiện trạng con đê đã đào, đắp trước đây vào năm 2004, các hộ
dân trên tuyến (trong đó ông K) đã hiến đất, sức lao động không ý kiến
phản đối hay khiếu nại gì. Người khởi kiện cho rằng khi đắp đê và làm con lộ đen
nêu trên, ông K không hiến đất khiếu nại yêu cầu bồi thường mà không
được giải quyết cũng như trên tuyến đường đắp lộ đất đen thì Ủy ban nhân n
huyện Đ ban hành quyết định thu hồi đất của hộ Lê Thị B với diện tích đất thu
hồi của B 12.240m
2
chi trả tiền bồi thường, hỗ trợ cho B với tổng số
tiền 143.926.000 đồng, nhưng không cung cấp được tài liệu, chứng cứ nào
chứng minh cho trình bày của mình.
Mặt khác, thời điểm trước năm 2008, Nhà nước đã quản tuyến đường này
thể hiện trên Bản đồ 299, theo đó trên bản đồ có thể hiện tuyến đê từ Đình thần
Nguyễn Trung T2 đến Ủy ban nhân dân A song song với Kênh X Bạc Liêu -
Mau đã hình thành. Hiện nay, tại Bản đồ chính quy được lập vào năm 2005
(Theo Quyết đinh số 750/QĐ-UBND ngày 27/7/2004 của Chtịch Ủy ban nhân
dân tỉnh B về việc phê duyệt dự án lập lưới địa chính, đo vẽ bản đồ địa chính
lập hồ địa chính của hai thị trấn huyện Đ) thể hiện thể hiện con lộ đất
đen hình thành năm 2004 Nhà nước không công nhận quyền sử dụng đất trên
toàn bộ tuyến lộ cho bất cứ cá nhân, tổ chức nào. Đồng thời, tại Giấy chứng nhận
quyền sử dụng đất được cấp cho các hộ dân từ thời điểm năm 2005, nhà nước chỉ
công nhận quyền sử dụng đất cho các hộ dân ngoài phạm vi tuyến lộ nhưng
không ai khiếu nại về việc cấp giấy chứng nhận này. Tức sau khi hoàn
7
thành việc làm lộ đất đen vào năm 2004, Nhà nước đã quản tuyến đường này
đến nay.
Như vậy, sở xác định trình bày của người bị kiện căn cứ. Đến
năm 2017, Ủy ban nhân dân huyện Đ tiếp tục thi công, xây dựng tuyến đường lộ
nhựa từ Đình thần Nguyễn Trung T2 đến Trụ sở Ủy ban nhân dân A (có bề
rộng 3,5m, lề mỗi bên 01m, tổng là 5,5m) nằm hoàn toàn trong phạm vi 6,5m lộ
đất đen mà người dân đã thống nhất cho Nhà nước xây dựng vào năm 2004 cũng
như quá trình thực hiện dự án, Nhà nước dựa trên mặt đường lộ (trong phạm
vi, diện tích đất của tuyến đê từ năm 1978). vậy, việc thi công không ảnh
hưởng đến nhà, đất của các hộ dân. Do đó, nhà nước không thu hồi, bồi thường
đất đối với các hộ dân đúng quy định. Tòa án cấp thẩm bác yêu cầu khởi
kiện của người khởi kiện là có căn cứ.
[3] Từ những nhận định trên, Hội đồng xét xử xét thấy, Tòa án cấp thẩm
bác yêu cầu khởi kiện của ông K sở, đúng quy định của pháp luật. Tại
phiên tòa phúc thẩm, ông K kháng cáo nhưng không cung cấp được chứng cứ nào
mới chứng minh nên Hội đồng xét xử bác kháng cáo của người khởi kiện giữ
nguyên bản án thẩm. Quan điểm của Kiểm sát viên không phù hợp với các
chứng cứ tài liệu trong hồ vụ án nhận định của Hội đồng xét xử nên
không được chấp nhận.
[4] Các quyết định khác của bản án thẩm không kháng cáo, kháng
nghị đã có hiệu lực pháp luật kể từ ngày hết thời hạn kháng cáo, kháng nghị.
[5] Về án phí hành chính phúc thẩm: Ông Phương Ứng K người cao tuổi
nên được miễn, theo quy định của pháp luật.
Vì các lẽ trên;
QUYẾT ĐỊNH:
Căn cứ khoản 1 Điều 241 Luật Tố tụng hành chính;
Bác yêu cầu kháng cáo của người khởi kiện ông Phương Ứng K. Giữ
nguyên Bản án hành chính sơ thẩm số 16/2024/HC-ST ngày 17 tháng 5 năm 2024
của Tòa án nhân dân tỉnh Bạc Liêu.
Áp dụng Luật đất đai năm 2013; Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14 ngày
30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội quy định về mc thu, miễn, giảm,
thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án;
Tuyên xử:
1. Bác toàn bộ yêu cầu khởi kiện của ông Phương Ứng K yêu cầu Ủy ban
nhân dân huyện Đ ban hành quyết định thu hồi đất Chủ tịch ủy ban nhân dân
huyện Đ ban hành Quyết định bồi thường giá trị đất khi thực hiện dự án xây dựng
tuyến đường từ Đình thần N đến trụ sở Ủy ban nhân dân xã A, huyện Đ, tỉnh Bạc
Liêu.
8
2. Về án phí hành chính thẩm: Ông Phương Ứng K phải chịu 300.000
đồng. Ông K đã nộp tạm ứng án phí số tiền 300.000 đồng (do Ngọc P nộp
thay) theo Biên lai thu tạm ứng án phí, lệ phí Tòa án số 0000064 ngày
26/10/2023 của Cục Thi hành án dân sự tỉnh Bạc Liêu được chuyển thu án phí.
3. Án phí hành chính phúc thẩm: Ông Phương Ứng K được miễn.
4. Các quyết định khác của bản án sơ thẩm không kháng cáo, kháng nghị
đã có hiệu lực pháp luật kể từ ngày hết thời hạn kháng cáo, kháng nghị.
Bản án phúc thẩm có hiệu lực pháp luật kể từ ngày tuyên án.
Nơi nhận: TM. HỘI ĐỒNG XÉT XỬ PHÚC THẨM
- Tòa án nhân dân tối cao; THẨM PHÁN - CHỦ TỌA PHIÊN TÒA
- VKSND cấp cao tại TP . HCM;
- TAND tỉnh Bạc Liêu;
- VKSND tỉnh Bạc Liêu;
- Cục THADS tỉnh Bạc Liêu;
- Các đương sự;
- Lưu.
Hồ Thị Thanh Thúy
Tải về
Bản án số 373/2025/HC-PT Bản án số 373/2025/HC-PT

Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để tải file. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!

Bản án số 373/2025/HC-PT Bản án số 373/2025/HC-PT

Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để tải file. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!

Bản án/ Quyết định cùng đối tượng

Bản án cùng lĩnh vực

Bản án mới nhất