Bản án số 17/2025/DS-PT ngày 11/02/2025 của TAND tỉnh Bạc Liêu về tranh chấp quyền sử dụng đất

  • Thuộc tính
  • Nội dung
  • VB gốc
  • VB liên quan
  • Lược đồ
  • Đính chính
  • Án lệ
  • BA/QĐ cùng nội dung
  • Tải về
Tải văn bản
Báo lỗi
  • Gửi liên kết tới Email
  • Chia sẻ:
  • Chế độ xem: Sáng | Tối
  • Thay đổi cỡ chữ:
    17

Thuộc tính Bản án 17/2025/DS-PT

Tên Bản án: Bản án số 17/2025/DS-PT ngày 11/02/2025 của TAND tỉnh Bạc Liêu về tranh chấp quyền sử dụng đất
Quan hệ pháp luật: Tranh chấp quyền sử dụng đất
Cấp xét xử: Phúc thẩm
Tòa án xét xử: TAND tỉnh Bạc Liêu
Số hiệu: 17/2025/DS-PT
Loại văn bản: Bản án
Ngày ban hành: 11/02/2025
Lĩnh vực: Dân sự
Áp dụng án lệ:
Đã biết

Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để xem áp dụng án lệ. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!

Đính chính:
Đã biết

Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để xem đính chính. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!

Thông tin về vụ/việc: sữa 1 phần án sơ thẩm
Tóm tắt Bản án

Nội dung tóm tắt đang được cập nhật, Quý khách vui lòng quay lại sau!

Tải văn bản

TOÀ ÁN NHÂN DÂN
TỈNH BẠC LIÊU
CỘNG HOÀ XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM
Độc lập - Tự do - Hạnh phúc
Bản án số: 17/2025/DS-PT
Ngày 21 - 01 - 2025
V/v tranh chấp hợp đồng chuyển
nhượng quyền sử dụng đất; yêu
cầu tuyên bố hợp đồng chuyển
nhượng quyền sử dụng đất
hiệu hủy hợp đồng tặng cho
quyền sử dụng đất.
NHÂN DANH
NƯỚC CỘNG HÒA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM
TÒA ÁN NHÂN DÂN TỈNH BẠC LIÊU
- Thành phần Hội đồng xét xử phúc thẩm gồm có:
Thẩm phán - Chủ tọa phiên tòa: Ông Lê Thanh Hùng
Các Thẩm phán: Bà Lê Thị Thúy Linh
Bà Tăng Trần Quỳnh Phương
- Thư ký phiên tòa: Ông Nguyễn Anh Khoa - Thư Tòa án nhân dân tỉnh
Bạc Liêu.
- Đại diện Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Bạc Liêu tham gia phiên tòa:
Nguyễn Nguyệt Hân - Kiểm sát viên.
Trong các ngày 16 và 21 tháng 01 năm 2025 tại trsTòa án nhân dân tỉnh
Bạc Liêu xét xphúc thẩm công khai vụ án thụ số 171/2024/TLPT-DS ngày
15 tháng 11 năm 2024 về việc tranh chấp hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng
đất; yêu cầu tuyên bố hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất hiệu hủy
hợp đồng tặng cho quyền sử dụng đất.
Do Bản án dân sự sơ thẩm số 129/2024/DS-ST ngày 23 tháng 9 năm 2024
của Tòa án nhân dân thành phố Bạc Liêu, tỉnh Bạc Liêu bị kháng cáo.
Theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử phúc thẩm số 152/2024/QĐ-PT ngày
22 tháng 11 năm 2024, giữa các đương sự:
- Nguyên đơn: Ông Nguyễn Thanh T, sinh năm 1955. Địa chỉ: Số A, Đoàn
Thị Đ, khóm F, phường C, thành phố B, tỉnh Bạc Liêu. (có mặt)
- Bị đơn: Ông Hứa Thái Đ1, sinh năm 1989. (có mặt)
Châu Cảo P, sinh năm 2001. (vắng mặt)
Cùng địa chỉ: Số A Đ, khóm E, phường C, thành phố B, tỉnh Bạc Liêu.
- Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan:
2
1. Vương Mỹ H, sinh năm 1955. Địa chỉ: Số A, Đoàn Thị Đ, khóm F,
phường C, thành phố B, tỉnh Bạc Liêu.
Người đại diện theo ủy quyền của Vương MH: Ông Nguyễn Thanh T1,
sinh năm 1980. Địa chỉ: Khóm F, Phường C, thành phố B, tỉnh Bạc Liêu. (có mặt)
2. Ông Lữ Hoàng T2, sinh năm 1965. (có mặt)
3.Phạm Ánh H1, sinh năm 1968. (có mặt)
Cùng địa chỉ: Số 030A, khóm 7, phường 3, thành phố Bạc Liêu, tỉnh Bạc
Liêu
4. Văn phòng C1. Địa chỉ: Số D P, phường C, thành phố B, tỉnh Bạc Liêu.
(vắng mặt, có yêu cầu xét xử vắng mặt)
5. Sở Tài nguyên và Môi trường tỉnh B. Địa chỉ: Số G L, phường A, thành
phố B, tỉnh Bạc Liêu.
Người đại diện theo uỷ quyền: Nguyễn Thị Tuyết T3, Giám đốc Chi
nhánh Văn phòng đăng ký đất đai thành phố B (văn bản uỷ quyền số 2528/GUQ-
STNMT ngày 19/8/2024). (vắng mặt, có yêu cầu xét xử vắng mặt)
6.Phạm Ngọc L, sinh năm 1964. Địa chỉ: Số A Đ, khóm E, phường C,
thành phố B, tỉnh Bạc Liêu. (có mặt)
- Người kháng cáo: ông Nguyễn Thanh T là nguyên đơn.
NỘI DUNG VỤ ÁN:
*Theo đơn khởi kiện đề ngày 15/5/2024, các lời khai trong quá trình tố tụng
tại Tòa án, ông Nguyễn Thanh T là nguyên đơn trong vụ án trình bày:
Vào khoảng năm 2021, ông Hứa Thái Đ1 đến gặp ông T để hỏi vay tiền,
lúc này ông T hỏi có gì để tin tưởng hay không thì ông Đ1 nói có căn nhà và giấy
chứng nhận quyền sử dụng đất số CC 581715 đối với phần đất có diện tích 48m
2
thửa đất số 215, tờ bản đồ số 9cấu trúc căn nhà trên đất toạ lạc tại số C, hẻm
H, khóm G, phường C, thành phố B, tỉnh Bạc Liêu đã được Sở Tài nguyên Môi
trường tỉnh B cấp cho ông Hứa Thái Đ1 vào ngày 09/8/2021, Đ1 đưa ông T
xem giấy chứng nhận quyền sử dụng đất dẫn ông T đến xem nhà đất, khi
đến xem nhà thì ông T có hỏi là ai đang ở nhà này thì ông Đ1 nói đang cho người
khác thuê với giá 2.500.000 đồng/tháng, từ đó ông T tin tưởng nên không có gặp
những người đang trong nhà. Sau đó ông T đã giao cho ông Đ1 số tiền
200.000.000 đồng tại Văn phòng C1 tại đây đã kết Hợp đồng chuyển
nhượng quyền sử dụng đất ngày 26/10/2021 giữa vợ chồng ông T, bà Vương Mỹ
H và vợ chồng Đ1, bà Châu Cảo P đối với diện tích đất 48m
2
, thửa đất số 215, tờ
bản đồ s9 và cấu trúc căn nhà trên đất toạ lạc tại số C, hẻm H, khóm G, phường
C, thành phố B, tỉnh Bạc Liêu đã được Sở Tài nguyên và Môi trường tỉnh B cấp
cho ông Hứa Thái Đăng . Lúc này ông Đ1 nói chỉ cầm vài tháng thì Đ1 sẽ
chuộc lại và Đ1 đã giao bản chính sổ đỏ cho ông T giữ. Ngoài ra, Đăng tự hứa là
3
trả lãi cho ông T mỗi tháng 6.000.000 đồng. Sau đó Đ1 chỉ đóng lãi được 01
tháng sáu triệu đồng và nhiều lần với số tiền mỗi lần từ hai đến ba triệu đồng, có
lần mẹ Đ1 là bà Phạm Ngọc L trả thay Đ1 bốn triệu, tổng cộng khoảng hai mươi
bốn triệu đồng. Khi trả lãi thì ông Đ1 đến quán cà phê mà ông T hay uống cà phê
để đưa tiền nên không có làm biên nhận gì, Đăng nghỉ trả lãi cho ông T đến nay
đã quá lâu nên ông T không xác định thời gian ngưng trả lãi, chỉ nhớ đã trên
hai năm.
Khoảng giữa năm 2022, ông T không liên hệ được với Đ1 lúc này Đ1 đã
ngưng trả lãi cho ông T nên ông T mới làm thủ tục chuyển tên trên giấy chứng
nhận quyền sử dụng đất tuy nhiên tại Chi nhánh văn phòng đăng ký đất đai thông
báo là có người thưa kiện đối với đất này nên bị ngưng lại nên ông T không làm.
Khoảng 03 tháng sau thì ông T lại chi nhánh Văn phòng đất đai thành phố B thì
được cho biết việc hợp đồng chuyển nhượng công chứng là hợp pháp chỉ cần
để không quá 02 năm thì không bị phạt, quá 02 năm thì bị phạt năm triệu đồng.
Sau đó mấy tháng sau tông T tiếp tục nộp hồ để chuyển tên thì bên Chi nhánh
văn phòng đăng đất đai lại nói hiện tranh chấp tại Toà nên lại ngưng. Sau
đó ông đến Toà án thành phố B trình bày thì được thông báo Toà án thành
phố B đã trả đơn của Phạm Ánh H1, ông nộp thông báo trả đơn này cho Chi
nhánh từ đó ông đã làm hồ sơ chuyển tên và đã được cấp giấy chứng nhận quyền
sử dụng đất số DK 300843 được Sở tài nguyên Môi trường tỉnh B cấp ngày
09/2/2023 cho ông Nguyễn Thanh T và Vương Mỹ H. Từ khi nhận chuyển
nhượng nhà đất thì ông chưa được Đ1 giao nhà và đất nên nay ông yêu cầu ông
Hứa Thái Đ1 Châu Cảo P phải giao diện tích đất 48m
2
thửa đất số 215, tờ
bản đồ s9 và cấu trúc căn nhà trên đất toạ lạc tại số C, hẻm H, khóm G, phường
C, thành phố B, tỉnh Bạc Liêu theo hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất
đã cho vợ chồng ông. Đối với yêu cầu phản tố của Đ1 thì ông không đồng ý
do hợp đồng chuyển nhượng giữa vợ chồng ông với vợ chồng Đ1, P là hợp pháp.
Đối với yêu cầu của bà Phạm Ánh H1ông Lữ Hoàng T2 thì ông không đồng ý
gia đình Đăng tự sắp xếp vấn đề này để không giao nhà đất cho ông. Không
yêu cầu gì khác.
*Tại đơn khởi kiện (đơn phản tố) ngày 17/7/2024, bản tự khai, các lời khai
trong quá trình tố tụng tại Tòa án, ông Hứa Thái Đ1 bị đơn trong vụ án trình
bày: Vào ngày 26/10/2021 ông Đ1 và vợ Châu Cảo P vay số tiền
200.000.000 đồng của ông T, ông Đ1 làm biên nhận cho ông T với hình thức
là cầm cố giấy chứng nhận quyền sử dụng đất chứ không chuyển nhượng nhà và
đất cho ông T nên không việc vchồng ông bán nhà đất này cho ông T. Sau
khi vay tiền thì ông Đ1 có trả tiền lãi cho ông T được 11 tháng tính kể từ ngày
hợp đồng chuyển nhượng với số tiền mỗi tháng 6.000.000 đồng khi trả không
có làm biên nhận gì, không ai chứng kiến. Sau đó do gặp khó khăn về kinh tế nên
ông Đ1 xin ông T giảm lãi nhưng ông T không chấp nhận ông Đ1 ngưng trả
4
lãi cho đến nay. Nay ông xác định không việc chuyển nhượng nhà đất với
ông T bà H nên ông không đồng ý với yêu cầu khởi kiện của ông T. Đồng thời,
ông Đ1 yêu cầu Toà án tuyên bố Hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất
giữa ông Hứa Thái Đ1, Châu Cảo P với ông Nguyễn Thanh T, Vương Mỹ
H ngày 26/10/2021 tại Văn phòng C1 hiệu; Yêu cầu huỷ giấy chứng nhận
quyền sử dụng đất số DK 300843 được Sở tài nguyên Môi trường tỉnh B cấp
ngày 09/2/2023 cho ông Nguyễn Thanh T và bà Vương Mỹ H.
Đối với yêu cầu của bà Phạm Ánh H1 và ông Lữ Hoàng T2 thì ông Đ1
ý kiến: Nguồn gốc nhà đất trên là của bà H1 và chồng là ông T2 nhưng do
H1 và ông T2 không có con nên cũng nghĩ ông Đ1 sẽ người nuôi dưỡng ông
sau này nên vào năm 2019, bà H1 với ông T2 có tặng cho ông Đ1 diện tích 48m
2
thửa đất số 215, tờ bản đồ số 9cấu trúc căn nhà trên đất toạ lạc tại số C, hẻm
H, khóm G, phường C, thành phố B, tỉnh Bạc Liêu với điều kiện hàng tháng Đ1
phải chu cấp 1.000.000 đồng và có nghĩa vụ chăm sóc nuôi dưỡng bà H1 và ông
T2, không được sang bán cho đến khi bà H1 với ông T2 chết. Tuy nhiên khi làm
hợp đồng thì do không biết vì sao Văn phòng công chứng làm Hợp đồng chuyển
nhượng quyền sử dụng đất giữa vợ chồng H1, ông T2 với ông Đ1, với giá trị
chuyển nhượng 20.000.000 đồng. Sau khi làm hợp đồng tặng cho thì mẹ ông
Đ1 L người chu cấp cho H1 ông T2, ông Đ1 không chu cấp cũng
như chưa từng nhà đất này. Nay do ông L đã vi phạm thoả thuận với
H1 và ông T2 nên ông cũng đồng ý theo yêu cầu của bà H1 với ông T2 là huỷ
bỏ toàn bộ hợp đồng tặng cho đối với phần đất có diện tích 48m
2
thửa đất số 215,
tờ bản đồ số 9 cấu trúc căn nhà trên đất toạ lạc tại sC, hẻm H, khóm G,
phường C, thành phố B, tỉnh Bạc Liêu mà ông T2 và bà H1 đã tặng cho ông Hứa
Thái Đ1 vào năm 2019 (thể hiện là Hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất
(không có tài sản gắn liền với đất) đề ngày 18/4/2019) vì ông Đ1 đã vi phạm điều
kiện được nhận tặng cho tại tờ cam kết do ông Đ1 đã ký; đồng ý yêu cầu hutoàn
bộ giấy chứng nhận quyền sử dụng đất đối với phần đất diện tích 48m
2
thửa
đất số 215, tờ bản đồ số 9 cấu trúc căn nhà trên đất toạ lạc tại số C, hẻm H,
khóm G, phường C, thành phố B, tỉnh Bạc Liêu đã được cấp cho ông Hứa Thái
Đ1 theo giấy chứng nhận quyền sử dụng đất số CQ 713 448, số vào sổ CS 00762
vào ngày 10/5/2019 . Không có yêu cầu gì khác.
*Trong quá trình tố tụng tại Tòa án, bà Châu Cảo P bị đơn không có ý
kiến trình bày.
*Tại đơn khởi kiện đề ngày 24/6/2024 các lời khai trong quá trình tố
tụng tại người quyền lợi, nghĩa vụ liên quan Phạm Ánh H1 ông Lữ Hoàng
T2 ý kiến trình bày: Diện tích đất 48m
2
thửa đất số 215, tờ bản đồ số 9 và cấu
trúc căn nhà trên đất toạ lạc tại số C, hẻm H, khóm G, phường C, thành phố B,
tỉnh Bạc Liêu của vchồng H1 ông T2, đã được cấp giấy chứng nhận
quyền sử dụng đất đối với thửa đất này tnăm 1999, nguồn gốc là vợ chồng mua
5
đất của người khác và năm 1999 xây dựng nhà ở cho đến nay.
Do vợ chồng bà H1ông T2 không có con nên vào năm 2019, vợ chồng
H1 và ông T2 có tặng cho cháu là Hứa Thái Đ1 nhưng với điều kiện là Đ1
nhiệm vụ chăm sóc nuôi dưỡng hết đời, khi vợ chồng bà H1 và ông T2 còn sống
thì không được chuyển nhượng, sang bán phần đất này. Lúc thoả thuận này, Đ1
tờ cam kết không đề ngày bằng tờ giấy tập học sinh phía dưới có chữ tên
Đ1, Hứa Thái Đăng . Vợ chồng H1ông T2 đã tại nhà đất này tnăm 1999
cho đến nay. Sau đó bà L mẹ Đ1 chỉ chu cấp được cho vợ chồng H1, ông T2
được vài tháng thì ngưng không chu cấp nên lúc này H1 và ông T2 có yêu cầu
L Đ1 phải giấy cam kết đề ngày 04/02/2020 nhưng sau đó, L mẹ
Đ1 chỉ chu cấp được tổng cộng 12 tháng đã ngưng chu cấp. Nay Đăng đã vi
phạm thoả thuận như trên nên nay Vợ chồng H1 ông T2 yêu cầu huỷ bỏ
toàn bộ hợp đồng tặng cho đối với phần đất có diện tích 48m
2
thửa đất số 215, tờ
bản đồ s9 và cấu trúc căn nhà trên đất toạ lạc tại số C, hẻm H, khóm G, phường
C, thành phố B, tỉnh Bạc Liêu mà ông T2 và bà H1 đã tặng cho ông Hứa Thái Đ1
vào năm 2019 (thể hiện Hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất (không
tài sản gắn liền với đất) đngày 18/4/2019) ông Đ1 đã vi phạm điều kiện
được nhận tặng cho tại tờ cam kết do ông Đ1 đã ký; yêu cầu huỷ toàn bộ giấy
chứng nhận quyền sử dụng đất đối với phần đất diện tích 48m
2
thửa đất số 215,
tờ bản đồ số 9 cấu trúc căn nhà trên đất toạ lạc tại sC, hẻm H, khóm G,
phường C, thành phố B, tỉnh Bạc Liêu đã được cấp cho ông Hứa Thái Đ1 theo
giấy chứng nhận quyền sử dụng đất số CQ 713 448, số vào sổ CS 00762 vào ngày
10/5/2019. Vợ chồng không đồng ý với yêu cầu khởi kiện của ông T. Không
có bổ sung yêu cầu gì khác.
*Tại biên bản ghi lời khai ngày 17/7/2024 và các lời khai trong quá trình
tố tụng tại, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan là bà Phạm Ngọc L trình bày:
Nguồn gốc phần diện tích đất 48m
2
thửa đất s215, tờ bản đồ số 9 và cấu trúc căn
nhà trên đất toạ lạc tại số C, hẻm H, khóm G, phường C, thành phố B, tỉnh Bạc
Liêu của Phạm Ánh H1 ông Lữ Hoàng T2. L chị ruột của H1.
Năm 2019, L ông Đ1 ng gia đình H1 bàn bạc thoả thuận với nhau
làm thủ tục tặng cho phần đất diện tích 48m
2
thửa đất số 215, tờ bản đồ số 9
cấu trúc căn nhà trên đất toạ lạc tại số C, hẻm H, khóm G, phường C, thành phố
B, tỉnh Bạc Liêu cho ông Hứa Thái Đ1 đứng tên với điều kiện bà L và ông Đ1
trách nhiệm nuôi dưỡng vợ chồng H1, ông T2, đồng thời hàng tháng L
Đ1 phải cấp dưỡng cho vợ chồng bà H1, ông T2 1.000.000 đồng cho đến khi hai
ông bà qua đời, nếu trường hợpL qua đời trước thì ông Đ1 trách nhiệm cấp
dưỡng nuôi dưỡng vợ chồng H1, L ông Đ1 cam kết sẽ không
chuyển nhượng phần nhà đất nêu trên khi vchồng H1 còn sống, chừng nào
vợ chồng H1 qua đời thì mới được quyền chuyển nhượng phần nhà và đất nêu
trên. L đã cấp dưỡng cho vợ chồng H1 T2 số tiền 12.000.000 đồng thì ngưng
6
không chu cấp. Nay, đối với yêu cầu độc lập của H1 thì bà L đồng ý vì hiện tại
Đ1 và bà L đã vi phạm thoả thuận về việc tặng cho trong tờ cam kết, chúng tôi đã
vi phạm về việc cấp dưỡng cho vợ chồng bà H1 cũng như việc chăm sóc cho v
chồng bà H1. Bà không có yêu cầu nhận lại số tiền 12.000.000 đồng.
Đối với yêu cầu khởi kiện của ông T thì bà không đồng ý vì thực tế con trai
ông Đ1 vay tiền của ông T, số tiền 200.000.000 đồng; tuy nhiên khi
vay thì ông T yêu cầu hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất, ông Đ1 tin
tưởng ông T, chỉ nghĩ hợp đồng đó để làm tin, bảo đảm việc vay tiền chứ không
có việc chuyển nhượng phần đất và nhà trên cho ông T. Thực tế, phần nhà và đất
trên từ xưa đến chỉ do vợ chồng H1 quản lý, sử dụng, ông Đ1 không tại
phần đất này. Nay, bà không đồng ý với yêu cầu khởi kiện của ông T. Không có
yêu cầu gì khác.
*Tại các văn bản ngày 02/8/2024 Đơn xin xét xử vắng mặt đề ngày
16/8/2024, Cao Thị N Trưởng Văn phòng C1 người quyền lợi, nghĩa
vụ liên quan trong vụ án trình bày: Đối với Hợp đồng chuyển nhượng quyền s
dụng đất (không tài sản gắn liền với đất) đề ngày 18/4/2019 đối với phần đất
có diện tích 48m
2
thửa đất số 215, tờ bản đồ số 9 và cấu trúc căn nhà trên đất toạ
lạc tại số C, hẻm H, khóm G, phường C, thành phố B, tỉnh Bạc Liêu giữa ông T2
H1 với ông Hứa Thái Đ1 Hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất
giữa ông Hứa Thái Đ1, Châu Cảo P với ông Nguyễn Thanh T, Vương Mỹ
H ký ngày 26/10/2021 đều được thực hiện đúng pháp luật. Văn phòng C1 không
có ý kiến gì trong vụ án này, không có yêu cầu gì khác.
*Bà Vương Mỹ H người quyền lợi, nghĩa vụ liên quan trong vụ án
không có ý kiến trình bày.
*Sở Tài Nguyên và Môi trường tỉnh B là người có quyền lợi, nghĩa vụ liên
quan trong vụ án không có ý kiến trình bày.
Từ nội dung trên, tại Bản án dân sự thẩm số 129/2024/DS-ST ngày
23/9/2024 của Tòa án nhân dân thành phố Bạc Liêu, tỉnh Bạc Liêu đã quyết định:
1/ Không chấp nhận yêu cầu khởi kiện của ông Nguyễn Thanh T đối với
ông Hứa Thái Đ1 Châu Cảo P về việc yêu cầu giao quyền sử dụng diện ch
đất 48m
2
tại thửa đất số 215, tờ bản đồ số 9 và cấu trúc căn nhà trên đất tọa lạc tại
số C, hẻm H, khóm G, phường C, Thành phố B, tỉnh Bạc Liêu.
2/ Chấp nhận yêu cầu phản tố của ông Hứa Thái Đ1 đối với ông Nguyễn
Thanh T và bà Vương Mỹ H: Vô hiệu Hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng
đất được kết giữa ông Nguyễn Thanh T, Vương Mỹ H với ông Hứa Thái
Đ1, bà Châu Cảo P ký ngày 26/10/2021 tại Văn phòng C1.
7
- Đề nghị Sở Tài nguyên Môi trường tỉnh B thu hồi giấy chứng nhận
quyền sử dụng đất số DK 300843 do Sở Tài nguyên Môi trường tỉnh B cấp
ngày 09/8/2023 cho bà Vương Mỹ H và ông Nguyễn Thanh T.
3/ Chấp nhận yêu cầu độc lập của ông Lữ Hoàng T2, bà Phạm Ánh H1 đối
với ông Hứa Thái Đ1: Hủy hợp đồng tặng cho quyền sử dụng đất tài sản gắn
liền với đất có điều kiện đối với diện tích đất 48m
2
thửa đất số 215, tờ bản đồ số
9 đất tọa lạc tại khóm G, phường C, thành phố B thể hiện hợp đồng chuyển nhượng
quyền sử dụng đất được ký kết giữa ông Lữ Hoàng T2, bà Phạm Ánh H1 với ông
Hứa Thái Đ1 được công chứng tại Văn phòng C1 ngày 18/4/2019.
- Ông Lữ Hoàng T2 và Phạm Ánh H1 được quyền đi đăng ký kê khai để
được cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất và tài sản gắn liền trên đất đối với
diện tích đất 48m2 thửa đất số 215, tbản đồ số 9 đất tọa lạc tại khóm G, phường
C, thành phố B, tỉnh Bạc Liêu.
Ngoài ra, án thẩm còn tuyên về chi phí tố tụng, án phí, quy định về thi
hành án, quyền kháng cáo của các đương sự theo quy định của pháp luật.
Ngày 27 tháng 9 năm 2024, ông Nguyễn Thanh T kháng cáo yêu cầu Tòa
án cấp phúc thẩm xem xét, chấp nhận yêu cầu khởi kiện của ông T. Trong trường
hợp căn cứ xác định hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất giữa vợ chồng
ông Nguyễn Thanh T, Vương Mỹ H ông Hứa Hải Đ2, Châu Cảo P
hiệu thì xem xét giải quyết hậu quả của hợp đồng vô hiệu. Đồng thời, không chấp
nhận yêu cầu hủy hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất giữa ông Hứa Hải
Đ2 với ông Lữ Hoàng T2, Phạm Thị H2. Ngăn chặn ông T2, bà H2 thực hiện
thủ tục xác định quyền sử dụng đất tại thửa đất số 215, tờ bản đồ số 9, tọa lạc tại
Khóm G, Phường C, thành phố B, tỉnh Bạc Liêu. Tại phiên tòa phúc thẩm, ông T
giữ nguyên yêu cầu kháng cáo.
Phát biểu của đại diện Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Bạc Liêu tại phiên tòa:
- Về việc chấp hành pháp luật tố tụng: Từ khi thụ đến khi xét xphúc
thẩm, Thẩm phán, Hội đồng xét xử phúc thẩm, Thư các đương sđã thực
hiện đúng các quy định của Bộ luật Tố tụng dân sự.
- Về quan điểm giải quyết vụ án: Căn cứ khoản 2 Điều 308 của Bộ luật Tố
tụng dân sự, đề nghị Hội đồng xét xử chấp nhận một phần kháng cáo của ông
Nguyễn Thanh T. Sửa một phần Bản án dân sự thẩm số: 129/2024/DS-ST ngày
23/9/2024 của Tòa án nhân dân thành phố Bạc Liêu, tỉnh Bạc Liêu theo hướng
không chấp nhận yêu cầu độc lập của vợ chồng ông T2, H2 vviệc hủy bỏ hợp
đồng tặng cho đối với diện tích đất 48m
2
căn nhà trên đất (thể hiên tại Hợp
đồng chuyển nhượng quyền sdụng đất, không tài sản gắn liền với đất ngày
18/4/2019).
NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN:
8
Sau khi nghiên cứu toàn bộ các tài liệu, chứng cứ có lưu trong hồ sơ vụ án
đã được thẩm tra tại phiên tòa, nghe ý kiến trình bày của các đương sự và ý kiến
phát biểu của đại diện Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Bạc Liêu, sau khi thảo luận,
nghị án, Hội đồng xét xử nhận định:
[1] Đơn kháng cáo của ông Nguyễn Thanh T nộp trong thời hạn luật định.
Ông T được miễn nộp tiền tạm ứng án phí phúc thẩm. Căn cứ Điều 273 Điều
276 Bộ luật Tố tụng dân sự được chấp nhận xét xử theo thủ tục phúc thẩm.
[2] Về tố tụng quan hệ tranh chấp đã được cấp thẩm nhận định phù
hợp với quy định của pháp luật.
[3] Bị đơn bà Châu Cảo P được triệu tập tham gia phiên tòa hợp lệ đến lần
thứ hai vắng mặt không sự kiện bất khả kháng hoặc trở ngại khách quan.
Người quyền lợi, nghĩa vụ liên quan Văn phòng C1, Sở Tài nguyên Môi
trường tỉnh B vắng mặt, có yêu cầu xét xử vắng mặt. Hội đồng xét xcăn cứ Điều
296 Bộ luật Tố tụng dân sự, tiến hành xét xử vắng mặt những người tham gia tố
tụng này.
[4] Xét kháng cáo của ông Nguyễn Thanh T yêu cầu ông Hứa Thái Đ1, bà
Châu Cảo P giao quyền sử dụng đất diện tích 48m
2
cấu trúc căn nhà trên đất.
Hội đồng xét xử xét thấy:
[4.1] Căn cứ Biên bản xem xét, thẩm định tại chỗ ngày 17/7/2024, biên bản
xác minh ngày 17/7/2024 đối với trưởng khóm G, phường C, thành phố B cung
cấp, hồ của chi nhánh Văn phòng đăng đất đai thành phố B Văn phòng
C1 cung cấp là phù hợp với các ý kiến của các đương sự trong vụ án nên căn cứ
Điều 92 Bộ luật tố tụng dân sự, Hội đồng xét xử sở chấp nhận các vấn đề
sau:
Diện tích đất 48m
2
thửa đất số 215, tờ bản đồ số 9 và cấu trúc căn nhà trên
đất toạ lạc tại số C, hẻm H, khóm G, phường C, thành phố B, tỉnh Bạc Liêu
hiện trạng:
Hướng bắc giáp thửa số 214 (nhà bà Nguyễn Thị H3) có số đo 12,00m
Hướng Nam giáp thửa số 216(nhà bà Nguyễn Thị C) có số đo 12,00m
Hướng Tây giáp thửa số 240 (nhà ông Lê Văn L1) có số đo 4,00m
Hướng Đông giáp hẻm công cộng có số đo 3,90m + 0,10m
Vị trí và số đo phần đất không sthay đổi so với giấy chứng nhận quyền
sử dụng đất quyền sở hữu nhà tài sản khác gắn liền với đất số 300843 cấp
ngày 09/02/2023 được Sở Tài nguyên và Môi trường tỉnh B cấp cho Vương
Mỹ H và ông Nguyễn Thanh T.
Hiện trạng trên đất có tài sản gồm:
9
- Nhà ở loại IV có kết cấu khung cột tông cốt thép, vách tường xây gạch
bao quanh, nền gạch men + xi măng, mái lợp tole thiếc (có đóng la phông trần
phẳng), mặt tiền trước và mặt sau xây tường, diện tích 4m x 9,8m.
- Mái che cột sắt rào lưới B40, tổng chiều dài 6,2m
- Cổng rào khung sắt lưới B40, diện tích ngang 1,4m x cao 1,4m
- Bàn thờ ông thiên xây gạch
Các tài sản này do bà Phạm Ánh H1ông Lữ Hoàng T2 xây dựng và do
H1 và ông T2 quản lý sử dụng từ xưa đến nay, không có ai khác ở tại đây.
[4.2] Xét hình thức hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất giữa ông
Hứa Thái Đ1, Châu Cảo P với ông Nguyễn Thanh T: Hợp đồng lập thành
văn bản được công chứng tại Văn phòng C1 ngày 09/02/2023 nội dung, ông
Đ1, P đồng ý chuyển nhượng cho ông T Vương Mỹ H quyền sử dụng đất
diện tích 48m
2
, thửa đất số 215, tờ bản đồ số 9 đất toạ lạc tại số C, hẻm H, khóm
G, phường C, thành phố B, tỉnh Bạc Liêu theo giấy chứng nhận quyền sdụng
đất quyền sở hữu nhà ở và tài sản khác găn liền với đất số CC 581715 do Sở Tài
nguyên Môi trường tỉnh B cấp cho ông Hứa Thái Đ1 ngày 09/8/2021. Giá
chuyển nhượng là 200.000.000 đồng.
Ông T và ông Đ1 xác định ông T, bà H, ông Đ1 và bà P có đến Văn phòng
C1 tên vào hợp đồng chuyển nhượng trên nên việc các đương sự tên vào
hợp đồng chuyển nhượng này không bị ép buộc. Đồng thời tại thời điểm hợp
đồng chuyển nhượng ông Đ1 đã được cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất và
Hợp đồng đã được Văn phòng C1 chứng thực nên về hình thức của hợp đồng
đúng quy định pháp luật.
Về nội dung của hợp đồng: Ông Đ1 trình bày việc ký kết hợp đồng này chỉ
hợp đồng chuyển nhượng chỉ để làm tin, bảo đảm việc vay tiền chứ không việc
chuyển nhượng phần đất nhà cho ông T, còn ông T xác định đã chuyển nhượng
nhà và đất hợp pháp tuy nhiên chính ông T thừa nhận là Đ1 đến hỏi vay tiền
ông T, việc khi Đ1 nhận tiền từ ông thì viết biên nhận, đồng thời sau khi ký
hợp đồng chuyển nhượng thì Đ1 trả tiền lãi cho ông nhiều lần hứa
khoảng vài tháng sau sẽ chuộc lại. Đồng thời sau khi ký hợp đồng thì ông T cũng
không chuyển tên trên giấy chứng nhận quyền sử dụng đất ngay cũng không
yêu cầu giao nhà đất cho đến khi Đ1 ngưng trả lãi và không liên hệ được với Đ1
thì mới thực hiện việc chuyển tên cũng như mới yêu cầu giao nhà nên sự trình bày
này của ông T đã thể hiện lời khai của phía bị đơn là có cơ sở.
vậy, Hội đồng xét xử sxác định Hợp đồng chuyển nhượng quyền
sử dụng đất được ký kết giữa ông T, H với ông Đ1, P ngày 26/10/2021 tại
Văn phòng C1 hợp đồng giả tạo nhằm che giấu giao dịch vay số tiền
200.000.000 đồng. vậy, căn cứ khoản 1 Điều 124 Bộ luật dân sự năm 2015,
10
Hội đồng xét xử tuyên bố Hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất được ký
kết giữa ông T, bà H với ông Đ1, bà P ngày 26/10/2021 vô hiệu.
Mặc dù, trong vụ án này ông Đ1 đồng ý trả lại cho ông T số tiền vay
200.000.000 đồng tại đơn kháng cáo bổ sung đề ngày 20/12/2024 của ông T
yêu cầu ông Đ1 trả số tiền vay lãi. Tuy nhiên, trong quá trình xét xử phúc
thẩm, ông T ông Đ1 không đơn khởi kiện yêu cầu giải quyết vụ án tranh
chấp vay tài sản nên Hội đồng xét xkhông xem xét giải quyết đối với số tiền vay
200.000.000 đồng. Ông T, H được quyền yêu cầu tranh chấp vay tài sản với
ông Đ1 vụ án khác nếu có yêu cầu.
[5] Do Hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất được ký kết giữa ông
T, bà H với ông Đ1, bà P ngày 26/10/2021 tại Văn phòng C1 bị vô hiệu nên theo
quy định tại khoản 5 Điều 152 Luật đất đai đề nghị Sở Tài nguyên và Môi trường
tỉnh B thu hồi giấy chứng nhận quyền sử dụng đất số DK 300843 do Sở Tài
nguyên Môi trường tỉnh B cấp ngày 09/8/2023 cho Vương Mỹ H ông
Nguyễn Thanh T.
[6] Xét kháng cáo của ông Nguyễn Thanh T không chấp nhận yêu cầu hủy
hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất giữa ông Lữ Hoàng T2, Phạm Thị
H2 với ông Hứa Thái Đ1, nhận thấy:
Ngày 18/4/2019, vợ chồng ông Lữ Hoàng T2, bà Phạm Ánh H1 có ký hợp
đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất cho ông Hứa Thái Đăng P1 đất diện tích
48m
2
thửa đất số 215, tờ bản đồ số 9 đất tọa lạc tại khóm G phường C thành phố
B theo giấy chứng nhận quyền sử dụng đất số BC 604092 do Ủy ban nhân dân thị
B cấp ngày 25/8/2010 cho ông Lữ Hoàng T2, Phạm Ánh H1 với giá
20.000.000 đồng, hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất đã được công
chứng tại Văn phòng C1.
Tòa án cấp thẩm nhận định hợp đồng chuyển nhượng giữa ông T2,
H1 với ông Đ1 là hợp đồng tặng cho điều kiện do số tiền chuyển nhượng không
tương xứng với giá trị tài sản chuyển nhượng và do các bên trong hợp đồng thống
nhất mỗi tháng ông Đ1 nghĩa vđưa bà H1, ông T2 1.000.000 đồng. Từ đó,
Tòa án cấp sơ thẩm tuyên huỷ hợp đồng chuyển nhượng giữa ông T2, bà H1 với
ông Đ1 không phù hợp. Bởi lẽ, ông T2, bà H1 không thực hiện hợp đồng tặng
cho thực hiên hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất cho ông Đ1. Nội
dung hợp đồng đúng ý chí của hai bên được thể hiện bằng việc có ký tên, có Văn
phòng C1 công chứng.
Việc ông T2, bà H1, ông Đ1 thống nhất mỗi tháng ông Đ1 nghĩa vụ đưa
H1, ông T2 1.000.000 đồng được thể hiện bằng tờ cam kết do ông Đ1 ghi. Tuy
nhiên, các giấy cam kết này đều không có xác nhận của chính quyền địa phương,
không được công chứng, chứng thực. Các bên trong hợp đồng ng xác định hợp
đồng là hợp đồng tặng cho nhưng không cung cấp được tài liệu, chứng cứ chứng
11
minh. Trong khi Hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất giữa ông T2, H1
với ông Đ1 tại Văn phòng C1 ngày 18/4/2019 đúng theo quy định của pháp
luật.
Do có, không có căn cứ chấp nhận yêu cầu độc lập của ông Lữ Hoàng T2,
Phạm Ánh H1 về việc yêu cầu hủy hợp đồng tặng cho quyền sử dụng đất
tài sản gắn liền với đất có điều kiện đối với diện tích đất 48m
2
thửa đất số 215, tờ
bản đồ số 9 đất tọa lạc tại khóm G, phường C, thành phố B thể hiện hợp đồng
chuyển nhượng quyền sử dụng đất được ký kết giữa ông Lữ Hoàng T2, bà Phạm
Ánh H1 với ông Hứa Thái Đ1 được công chứng tại Văn phòng C1 ngày 18/4/2019.
[7] Từ những phân tích nêu trên, Hội đồng xét xử có căn cứ chấp nhận một
phần kháng cáo của ông Nguyễn Thanh T. Sửa một phần bản án dân sự thẩm
số 129/2024/DS-ST ngày 23/9/2024 của Tòa án nhân dân thành phố Bạc Liêu,
tỉnh Bạc Liêu theo hướng đã phân tích tại mục [6].
[8] Về chi phí xem xét thẩm định thu hồ sơ là 1.020.000 đồng, do ông T
nguyên đơn trong vụ án yêu cầu khởi kiện không được chấp nhận nên ông
phải chịu chi phí này theo quy định của pháp luật và ông T đã nộp xong.
[9] Về án phí dân sự sơ thẩm:
Ông Nguyễn Thanh T và ông Lữ Hoàng T2, bà Phạm Ánh H1 phải chịu án
phí do yêu cầu không được chấp nhận. Tuy nhiên, ông T và ông T2, bà H1
người cao tuổi, đơn xin miễn án phí nên ông T, ông T2, bà H1 được miễn án phí
theo quy định.
Ông Hứa Thái Đ1 yêu cầu phản tố được chấp nhận nên không phải chịu
án phí. Ông Hứa Thái Đ1 đã nộp tạm ứng án phí số tiền 300.000 đồng theo Biên
lai thu số 0002949 ngày 22/7/2024 của Chi cục thi hành án dân sự thành phố Bạc
Liêu được hoàn lại toàn bộ.
[10] Về án phí dân sự phúc thẩm: căn cứ chấp nhận một phần kháng cáo
của ông Nguyễn Thanh T nên ông T không phải chịu.
[11] Xét đề xuất của kiểm sát viên tại phiên toà phù hợp nên Hội đồng
xét xử ghi nhận.
Vì các lẽ trên,
QUYẾT ĐỊNH:
Căn cứ khoản 2 Điều 308 của Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2015.
Chấp nhận một phần yêu cầu kháng cáo của ông Nguyễn Thanh T. Sửa một
phần Bản án dân sự thẩm số 129/2024/DS-ST ngày 23/9/2024 của Tòa án nhân
dân thành phố Bạc Liêu, tỉnh Bạc Liêu.
- Căn cứ khoản 3 Điều 26, điểm b khoản 1 Điều 35; điểm a khoản 1 Điều
39; Điều 147; Điều 218; điểm b khoản 2 Điều 227 Bộ luật tố tụng dân sự 2015;
12
- Điều 124; Điều 423 và Điều 462 của Bộ luật Dân sự;
- Căn cứ Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH 14 ngày 30/12/2016 của Ủy
ban Thường vụ Quốc hội khóa 14 về án phí và lệ phí tòa án.
Tuyên xử:
1. Không chấp nhận yêu cầu khởi kiện của ông Nguyễn Thanh T đối với
ông Hứa Thái Đ1 Châu Cảo P về việc yêu cầu giao quyền sử dụng diện ch
đất 48m
2
tại thửa đất số 215, tờ bản đồ số 9 và cấu trúc căn nhà trên đất tọa lạc tại
số C, hẻm H, khóm G, phường C, Thành phố B, tỉnh Bạc Liêu.
2. Chấp nhận yêu cầu phản tố của ông Hứa Thái Đ1 đối với ông Nguyễn
Thanh T và bà Vương Mỹ H: Vô hiệu Hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng
đất được kết giữa ông Nguyễn Thanh T, Vương Mỹ H với ông Hứa Thái
Đ1, bà Châu Cảo P ký ngày 26/10/2021 tại Văn phòng C1.
- Đề nghị Sở Tài nguyên Môi trường tỉnh B thu hồi giấy chứng nhận
quyền sử dụng đất số DK 300843 do Sở Tài nguyên Môi trường tỉnh B cấp
ngày 09/8/2023 cho bà Vương Mỹ H và ông Nguyễn Thanh T.
3. Không chấp nhận yêu cầu độc lập của ông Lữ Hoàng T2, bà Phạm Ánh
H1 đối với ông Hứa Thái Đ1 về việc Hủy hợp đồng tặng cho quyền sử dụng đất
và tài sản gắn liền với đất điều kiện đối với diện tích đất 48m
2
thửa đất số 215,
tờ bản đồ số 9 đất tọa lạc tại khóm G, phường C, thành phố B thể hiện hợp đồng
chuyển nhượng quyền sử dụng đất được ký kết giữa ông Lữ Hoàng T2, bà Phạm
Ánh H1 với ông Hứa Thái Đ1 được công chứng tại Văn phòng C1 ngày 18/4/2019.
4. Về chi phí xem xét thẩm định tại chỗ và thu hồ sơ là 1.020.000 đồng, do
ông T phải chịu chi phí này và ông T đã nộp xong.
5. Về án phí dân sự sơ thẩm:
- Ông Nguyễn Thanh T được miễn án phí dân sự sơ thẩm.
- Bà Phạm Ánh H1, ông Lữ Hoàng T2 được miễn án phí dân sự sơ thẩm.
- Ông Hứa Thái Đ1 không phải chịu án phí. Ông Hứa Thái Đ1 đã nộp tạm
ứng án psố tiền 300.000 đồng theo Biên lai thu số 0002949 ngày 22/7/2024 của
Chi cục thi hành án dân sự thành phố Bạc Liêu được hoàn lại toàn bộ.
6. Về án phí dân sự phúc thẩm: Ông Nguyễn Thanh T không phải chịu.
7. Trong trường hợp Bản án được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật
Thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân
sự quyền thỏa thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành
án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các Điều 6, 7, 7a, 7b và 9 Luật
Thi hành án dân sự sửa đổi, bổ sung năm 2014; thời hiệu thi hành án được thực
hiện theo quy định tại Điều 30 Luật thi hành án dân sự.
13
Bản án phúc thẩm có hiệu lực pháp luật kể từ ngày tuyên án.
Nơi nhận:
- TANDCC tại Tp. Hồ Chí Minh;
- VKSND tỉnh Bạc Liêu;
- TAND thành phố Bạc Liêu;
- CCTHADS thành phố Bạc Liêu;
- Đương sự;
- Lưu Tổ HCTP, hồ sơ vụ án.
TM. HỘI ĐỒNG XÉT XỬ PHÚC THẨM
THẨM PHÁN - CHỦ TỌA PHIÊN TÒA
Lê Thanh Hùng
Tải về
Bản án số 17/2025/DS-PT Bản án số 17/2025/DS-PT

Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để tải file. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!

Bản án số 17/2025/DS-PT Bản án số 17/2025/DS-PT

Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để tải file. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!

Bản án/ Quyết định cùng đối tượng

Bản án cùng lĩnh vực

Bản án mới nhất