Bản án số 04/2025/DS-ST ngày 15/01/2025 của TAND tỉnh Bình Dương về tranh chấp về thừa kế tài sản
- Thuộc tính
- Nội dung
- VB gốc
- VB liên quan
- Lược đồ
- Đính chính
- Án lệ
- BA/QĐ cùng nội dung
- Tải về
Tải văn bản
-
Bản án số 04/2025/DS-ST
Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để tải file. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!
-
Bản án số 04/2025/DS-ST
Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để tải file. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!
Báo lỗi
Thuộc tính Bản án 04/2025/DS-ST
Tên Bản án: | Bản án số 04/2025/DS-ST ngày 15/01/2025 của TAND tỉnh Bình Dương về tranh chấp về thừa kế tài sản |
---|---|
Quan hệ pháp luật: | Tranh chấp về thừa kế tài sản |
Cấp xét xử: | Sơ thẩm |
Tòa án xét xử: | TAND tỉnh Bình Dương |
Số hiệu: | 04/2025/DS-ST |
Loại văn bản: | Bản án |
Ngày ban hành: | 15/01/2025 |
Lĩnh vực: | Dân sự |
Áp dụng án lệ: |
Đã biết
Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để xem áp dụng án lệ. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây! |
Đính chính: |
Đã biết
Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để xem đính chính. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây! |
Thông tin về vụ/việc: | Đình chì xét xử một phần yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn Chấp nhận một phần yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn và chấp nhận một phần yêu cầu độc lập của người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan bà Nguyễn Thị Thanh Thủy với bị đơn bà Nguyễn Minh Mẫn |
Tóm tắt Bản án
Nội dung tóm tắt đang được cập nhật, Quý khách vui lòng quay lại sau!
Tải văn bản

NHÂN DANH
NƯỚC CỘNG HÒA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM
TÒA ÁN NHÂN DÂN TỈNH BÌNH DƯƠNG
- Thành phần Hội đồng xét xử sơ thẩm gồm có:
Thẩm phán – Chủ tọa phiên tòa: Bà Huỳnh Thị Thanh Tuyền.
Các Hội thẩm nhân dân: Ông Nguyễn Đình Tiếp;
Bà Trương Thị Thu Hà.
- Thư ký phiên tòa: Bà Lê Thị Thanh – Thư ký Tòa án nhân dân tỉnh
Bình Dương.
- Đại diện Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Bình Dương tham gia phiên
tòa: Ông Trần Đức Thoại - Kiểm sát viên.
Trong các ngày 08 và 15 tháng 01 năm 2024, tại trụ sở Toà án nhân dân
tỉnh Bình Dương xét xử sơ thẩm công khai vụ án dân sự thụ lý số
43/2024/TLST-DS ngày 20 tháng 3 năm 2023 về việc "Tranh chấp về thừa kế tài
sản" theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 128/2024/QĐ-ST ngày 18 tháng 11
năm 2024; Quyết định hoãn phiên tòa số 122/2024/QĐST-DS ngày 29 tháng 11
năm 2024 và Quyết định hoãn phiên tòa số 127/2024/QĐST-DS ngày 20 tháng
12 năm 2024, giữa các đương sự:
- Nguyên đơn: Ông Nguyễn Minh T, sinh năm 1964; địa chỉ: số A,
Trumpet DR F, Texas, 76131, USA.
Người đại diện hợp pháp của nguyên đơn: Ông Nguyễn Duy T1, sinh năm
1991; địa chỉ: số A, Khu phố A, phường H, thành phố B, tỉnh Đồng Nai; chỗ ở:
số A N, phường H, thành phố T, Thành phố Hồ Chí Minh, là người đại diện theo
ủy quyền (Văn bản ủy quyền ngày 28/3/2024); có mặt.
Người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của nguyên đơn: Ông Nguyễn
Thành T2, Luật sư của Công ty L2, thuộc Đoàn luật sư Thành phố H; có mặt.
- Bị đơn: Ông Nguyễn Minh M, sinh năm 1978; địa chỉ: số A, Tổ C, khu
phố T, phường A, thành phố T, tỉnh Bình Dương; có mặt.
- Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan:
1. Bà Nguyễn Thị Thanh T3, sinh năm 1960; địa chỉ: số A, khu phố T,
phường A, thành phố T, tỉnh Bình Dương; có đơn yêu cầu giải quyết vắng mặt.
TÒA ÁN NHÂN DÂN
TỈNH BÌNH DƯƠNG
Bản án số: 04/2025/DS-ST
Ngày 15-01-2025
V/v Tranh chấp về thừa kế tài sản
CỘNG HÒA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM
Độc lập - Tự do - Hạnh phúc
2
2. Ông Nguyễn Minh T4, sinh năm 1967; địa chỉ: số A, khu phố T,
phường A, thành phố T, tỉnh Bình Dương; có đơn yêu cầu giải quyết vắng mặt.
3. Ông Nguyễn Minh S, sinh năm 1969; địa chỉ: số A, khu phố T, phường
A, thành phố T, tỉnh Bình Dương; có đơn yêu cầu giải quyết vắng mặt.
4. Bà Nguyễn Thị Thu T5, sinh năm 1970; địa chỉ: số H, khu B, phường
Đ, thành phố T, tỉnh Bình Dương; có đơn yêu cầu giải quyết vắng mặt.
5. Ông Nguyễn Minh Q, sinh năm 1976; địa chỉ: số A, khu phố T, phường
A, thành phố T, tỉnh Bình Dương; có mặt.
6. Ông Lê Trọng T6, sinh năm 1980 và bà Nguyễn Thị B, sinh năm 1983;
cùng địa chỉ: số C, đường B, phường B, quận B, Thành phố Hồ Chí Minh; ông
T6 và bà B có mặt.
7. Bà Ngô Thị Yến N, sinh năm 1984; có mặt.
8. Cháu Nguyễn Minh N1, sinh năm 2001; có đơn yêu cầu giải quyết vắng
mặt.
Cùng địa chỉ: số A, Tổ C, khu phố T, phường A, thành phố T, tỉnh Bình
Dương.
9. Cháu Nguyễn Bảo N2, sinh năm 2017.
Người đại diện theo pháp luật của cháu Nguyễn Bảo N2: Ông Nguyễn
Minh M và bà Ngô Thị Yến N, sinh năm 1984; cùng địa chỉ: số A, Tổ C, khu
phố T, phường A, thành phố T, tỉnh Bình Dương; ông M và bà N có mặt.
10. Bà Mạc Thị H, sinh năm 1976; ông Nguyễn Quang V, sinh năm 1999;
ông Nguyễn Quang T7, sinh năm 2007; cùng địa chỉ: số A, khu phố T, phường
A, thành phố T, tỉnh Bình Dương; có đơn yêu cầu giải quyết vắng mặt.
11. Bà Nguyễn Thị Mỹ H1, sinh năm 1972; ông Nguyễn Minh T8, sinh
năm 1990; ông Nguyễn Minh T9, sinh năm 2006; cùng địa chỉ: số A, khu phố T,
phường A, thành phố T, tỉnh Bình Dương; có đơn yêu cầu giải quyết vắng mặt.
12. Ông Nguyễn Tấn T10, sinh năm 1970; bà Nguyễn Thị Đ, sinh năm
1970; bà Nguyễn An N3, sinh năm 2002; bà Nguyễn Ngọc Song T11, sinh năm
2007; cùng địa chỉ: số nhà A, khu phố T, phường A, thành phố T, tỉnh Bình
Dương; có đơn yêu cầu giải quyết vắng mặt.
13. Bà Lý Thanh H2, sinh năm 1973; ông Lý Huỳnh Thanh V1, sinh năm
2005; cùng địa chỉ: số A, khu phố T, phường A, thành phố T, tỉnh Bình Dương;
có đơn yêu cầu giải quyết vắng mặt.
14. Văn phòng C2; địa chỉ: số F, L, phường P, thành phố T, tỉnh Bình
Dương. Người đại diện hợp pháp: Ông Đặng Lương G; có đơn yêu cầu giải
quyết vắng mặt.
15. Trung tâm Phát triển quỹ đất thành phố T, tỉnh Bình Dương. Người
đại diện hợp pháp: Ông Nguyễn Văn Đ1 – Chức vụ: Giám đốc; có đơn yêu cầu
giải quyết vắng mặt.
3
16. Ủy ban nhân thành phố T, tỉnh Bình Dương. Người đại diện hợp pháp:
Ông Nguyễn Thanh T12 – chức vụ: Chủ tịch; có đơn yêu cầu giải quyết vắng
mặt.
NỘI DUNG VỤ ÁN:
1. Theo đơn khởi kiện ngày 21/02/2023, đơn khởi kiện bổ sung ngày
01/4/2024, quá trình giải quyết vụ án và tại phiên tòa, nguyên đơn ông Nguyễn
Minh T do ông Nguyễn Duy T1 đại diện trình bày:
Nguồn gốc phần đất tranh chấp có diện tích là 3.190m
2
thuộc thửa số 747,
4080 tờ bản đồ số 54(B2), tọa lạc tại khu phố T, phường A trước đây của cha mẹ
ông T là cụ Nguyễn Văn C và cụ Lê Thị L khai phá, quản lý và sử dụng. Năm
2013, cụ C chết, theo Giấy chứng tử số 19/2013, quyển số 01/2013 do Ủy ban
nhân dân phường A cấp, cụ L chết ngày 25/11/2013, theo Giấy chứng tử số
139/2013, quyển số 02/2013 do Ủy ban nhân dân phường A cấp ngày 01/3/2013.
Trước khi chết, cha mẹ ông T có để lại khối tài sản là quyền sử dụng đất theo
Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất số BH 764990 (vào sổ số CH 02534/AT) do
Ủy ban nhân dân thị xã (nay l2 thành phố) T cấp ngày 12/11/2012, do cụ
Nguyễn Văn C và cụ Lê Thị L đứng tên. Tài sản này là tài sản chung của cha mẹ
ông T, sau khi cha mẹ ông T chết các anh chị em của ông T đã làm văn bản thỏa
thuận phân chia di sản tại Văn phòng Công chứng Nguyễn Thị G1 nhưng đã bỏ
sót hàng thừa kế là ông T. Ông T thấy quyền và lợi ích của ông T bị ảnh hưởng
nên nay ông T khởi kiện yêu cầu Tòa án giải quyết những vấn đề sau:
+ Hủy văn bản thỏa thuận phân chia thừa kế số công chứng: 10851, quyển
số 07 được ký ngày 18/7/2018 tại Văn phòng C2.
+ Yêu cầu phân chia tài sản thừa kế của cụ Nguyên Văn C1 và cụ Lê Thị
L có diện tích là 3.190m
2
thuộc thửa số 747, 4080 tờ bản đồ số 54(B2), tọa lạc
tại khu phố T, phường A, thị xã (nay là thành phố ), tỉnh Bình Dương, theo Giấy
chứng nhận quyền sử dụng đất số BH 764990 (vào sổ số: CH02534/AT) do Ủy
ban nhân dân thị xã (nay là thành phố) T, tỉnh Bình Dương cấp ngày 12/11/2012
chia làm 07 phần bằng nhau, tương đương mỗi kỷ phần được hưởng là 455,7m
2
.
Ông T có yêu cầu được nhận số tiền tương đương giá trị tài sản của ông T được
hưởng từ thừa kế của cha mẹ ông T.
+ Chia di sản thừa kế theo pháp luật của cụ Nguyễn Văn C và cụ Nguyễn
Thị L1 đối với tài sản gắn liền với đất là một căn nhà cấp 4 lớn có diện tích
khoảng 169,3m
2
; 02 căn nhà cấp 4 nhỏ, một căn có diện tích 78,8m
2
và một căn
nhà có diện tích 51,3m
2
; căn phòng trọ có diện tích khoảng 68,6m
2
và 01 căn
phòng trọ có diện tích 65,7m
2
. Ông T đề nghị được nhận 01/7 di sản này bằng
giá trị.
2. Tại Đơn yêu cầu độc lập ngày 27/5/2024, người có quyền lợi, nghĩa vụ
liên quan bà Nguyễn Thị Thanh T3 trình bày:
Cha mẹ bà T3 là cụ Nguyễn Văn C và cụ Nguyễn Thị L1. Cụ C mất ngày
11/01/2013 và cụ L1 mất ngày 25/11/2013. Khi còn sống, cụ C và cụ L1 tạo lập
4
được khối tài sản là nhà và đất thuộc thửa đất số 747, 4080 tờ bản đồ số 54 (B2),
tọa lạc tại phường A, thành phố T, tỉnh Bình Dương. Quyền sử dụng đất trên đã
được Ủy ban nhân dân thị xã (nay là thành phố) T cấp Giấy chứng nhận quyền
sử dụng đất số BH764990 ngày 12/11/2012, do cụ C và cụ L1 đứng tên. Trên
quyền sử dụng đất này, cụ C và cụ L1 đã xây dựng một căn nhà cấp 4 lớn có
diện tích khoảng 169,3m
2
; 02 căn nhà cấp 4 nhỏ, một căn có diện tích 78,8m
2
và
một căn nhà có diện tích 51,3m
2
; căn nhà phòng trọ có diện tích khoảng 68,6 m
2
và 01 căn phòng trọ có diện tích 65,7m
2
. Tài sản này là tài sản chung của cha mẹ
bà T3. Sau khi cha mẹ bà T3 mất, anh chị em đã làm văn bản thỏa thuận phân
chia di sản thừa kế nhưng lại không cho ông Nguyễn Minh T được hưởng di sản.
Do quyền lợi của ông Nguyễn Minh T bị ảnh hưởng nên bà T3 đề nghị Tòa án
phân chia lại di sản thừa kế theo pháp luật, cụ thể:
- Chia di sản thừa kế theo pháp luật của cụ Nguyễn Văn C và cụ Nguyễn
Thị L1 đối với quyền sử dụng đất thuộc thửa đất số 747, 4080 tờ bản đồ số
54(B2) có diện tích 3.190m
2
tọa lạc tại phường A, thành phố T, tỉnh Bình Dương
theo Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất số BH 764990 do Ủy ban nhân dân
thành phố T cấp ngày 12/11/2012. Bà T3 đề nghị được nhận 01/7 di sản bằng
hiện vật.
- Chia di sản thừa kế theo pháp luật của cụ Nguyễn Văn C và cụ Nguyễn
Thị L1 đối với tài sản gắn liền với đất là một căn nhà cấp 4 lớn có diện tích
khoảng 169,3m
2
; 02 căn nhà cấp 4 nhỏ, một căn có diện tích 78,8m
2
và một căn
nhà có diện tích 51,3m
2
; căn phòng trọ có diện tích khoảng 68,6m
2
và 01 căn
phòng trọ có diện tích 65,7m
2
. Bà T3 đề nghị được nhận 01/7 di sản này bằng
giá trị.
- Hủy văn bản phân thỏa thuận chia di sản thừa kế theo số công chứng
10851, quyển số 07 được ký ngày 18/7/2018 tại Văn phòng C2.
3. Tại Bản tự khai, Văn bản ý kiến ngày 02/10/2024, quá trình giải quyết
vụ án và tại phiên tòa, bị đơn ông Nguyễn Minh M trình bày:
Ông Nguyễn Minh M là con út của cụ Nguyễn Văn C và cụ Lê Thị L. Cha
ông M là cụ C chết ngày 11/01/2013, Giấy chứng tử số 19/2013, quyển số
01/2013 do Ủy ban nhân dân phường A cấp ngày 01/3/2013. Mẹ ông M là cụ Lê
Thị L chết ngày 25/11/2013, Giấy chứng tử số 139/2013, quyển sổ số 02/2013
do Ủy ban nhân dân phường A cấp. Cha mẹ ông M có 07 người con. Di sản của
cha mẹ ông M chết để lại là phần đất theo Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất,
quyền sở hữu nhà ở và tài sản gắn liền với đất số BH 764990 (vào sổ số
CH02534/AT) do Ủy ban nhân dân thị xã (nay là thành phố) T cấp ngày
12/11/2012 do cụ Nguyễn Văn C và cụ Lê Thị L đứng tên sử dụng thửa đất số
747 và 4080, tờ bản đồ số 54(B2) với diện tích 3.190m
2
tọa lạc tại khu phố T,
phường A, thị xã (nay là thành phố ), tỉnh Bình Dương.
Trên Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất ghi diện tích là 3.190m
2
nhưng
thực tế khi cha mẹ ông M còn sống, cha mẹ ông M đã chuyển nhượng giấy tay
cho 03 người với tổng diện tích đã chuyển nhượng là 306m
2
gồm: bà Võ Thị
5
T13 diện tích 66m
2
; ông Nguyễn Tấn P diện tích 120m
2
và bà Nguyễn Thị
Thanh T3 (chị thứ hai của ông M), do diện tích nhỏ nên không thể tách thửa để
sang tên được và khi cấp Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất Nhà nước không
trừ đường mương nước khoảng 30m
2
nên có sự chênh lệch về diện tích giữa giấy
tờ và trên thực tế.
Sau khi cha mẹ ông M mất thì ông Nguyễn Minh T về nước được 02 - 03
lần, mỗi khi về thì anh chị em cũng có bàn bạc với nhau về việc phân chia đất
cha mẹ ông M để lại nhưng ông T bảo rằng: “anh không nhận đất vì anh ở Mỹ
làm ăn nên các em trừ anh ra cho đỡ phiền phức về thủ tục và trước đây cha mẹ
còn sống có cho anh rồi nên anh không nhận thêm gì”. Xuất phát từ việc ông
Nguyễn Minh T từ chối nhận di sản (bằng miệng) nên các anh chị em mới bàn
nhau để phân chia cụ thể và ra Văn phòng C2 ký tên, lăn tay vào Văn bản thỏa
thuận phân chia di sản ngày 18/7/2018 (cách thời gian cha mẹ chết 05 năm).
Phần đất chuyển nhượng giấy tay nằm trong phần diện tích phân chia cho anh
chị em ông M. Ông M không hiểu vì sao đến nay đã 11 năm kể từ khi cha mẹ
chết thì anh ông T lại quay về khởi kiện tranh chấp thừa kế tài sản yêu cầu được
chia làm 07 phần bằng nhau, yêu cầu nhận giá trị tương đương phần đất được
hưởng có diện tích 455,7m
2
là không hợp tình vì đa số anh chị em đã chuyển
nhượng cho người khác sau khi được phân chia và diện tích thực tế chỉ còn
2.854m
2
(sau khi đã trừ phần cha mẹ chuyển nhượng bằng giấy tay 360m
2
+
đường mương nước 30m
2
), đồng thời từ trước đến nay ông Nguyễn Minh T
cũng không có công sức gì trong việc gìn giữ di sản của cha mẹ để lại.
Các anh chị em khác đồng ý theo Văn bản thỏa thuận phân chia di sản
ngày 18/7/2018, ông M được nhận phần nhiều hơn vì từ trước đến khi cha mẹ
mất, ông M chưa được chia phần đất nào và vì ông M ở chung nhà có công
chăm sóc, phụng dưỡng cha mẹ đến cuối đời. Hiện ông M là người thờ tự và lo
đầy đủ các lễ giỗ ông bà cha mẹ kể cả người con ông Nguyễn Minh T đã mất.
Nay vì một lý do nào đó ông Nguyễn Minh T yêu cầu nhận trị giá căn nhà cấp
04 của cha mẹ để lại theo dự án quy hoạch công trình đường V Thành phố Hồ
Chí Minh thì ông M sẽ phân chia khi ông M lĩnh tiền giá trị căn nhà (không bao
gồm đất).
Ý kiến đối với đơn khởi kiện của nguyên đơn về yêu cầu hủy văn bản
công chứng theo Văn bản thỏa thuận phân chia di sản thừa kế theo công chứng
số 1085, quyển số 07 được ký ngày 18/7/2018 tại Văn phòng C2; phân chia tài
sản thừa kế theo pháp luật đối với phần đất tài sản của cha mẹ là cụ Nguyễn Văn
C và cụ Lê Thị L chết (cả 02 cùng chết năm 2013) để lại và cha mẹ để lại là nhà
cấp 04 và quyền sử dụng đất diện tích 3.190m
2
thuộc thửa số 747, 4080 tờ bản
đồ số 54 (B2) tọa lạc tại khu phố T, phường A cho 07 người thưa kế theo pháp
luật, ông Nguyễn Minh T yêu cầu được chia 1/7 tài sản trên là 455,7m
2
và nhận
giá trị tương đương tài sản. Ông M có ý kiến như sau: Ông M không đồng ý hủy
Văn bản thỏa thuận phân chia di sản thừa kế được ký ngày 18/7/2018 tại Văn
phòng C2 vì: Đó là do lỗi của ông Nguyễn Minh T đã từ chối nhận di sản (bằng
miệng) trước khi anh chị ông M thỏa thuận phân chia di sản. Diện tích thực tế
6
không đúng với giấy tờ khi còn sống mẹ ông M đã chuyển nhượng bằng giấy tay
cho ba người với diện tích là 306m
2
(Võ Thị T13 diện tích 66m
2
, Nguyễn Thị
Thanh T3 diện tích 120m
2
và Nguyễn Tấn P 120m
2
) nhưng không tách thửa
được và đường mương nước khoảng 30m
2
chưa trừ khi Nhà nước cấp giấy
chứng nhận quyền sử dụng đất cho cha mẹ ông M. Các anh chị đã nhận đất
không yêu cầu phân chia lại và đa số anh chị em đã chuyển nhượng cho người
khác sau khi được phân chia. Trên đất còn có căn nhà cấp 04 cha mẹ chết để lại,
anh chị đã đồng ý để làm nhà thờ giao cho ông M giữ gìn đến nay đã bị quy
hoạch thuộc dự án Vành đai C Thành phố Hồ Chí Minh, sắp tới khi nhận tiền
bồi thường thì ông M sẽ chi cho ông Minh T 1/7 số tiền của căn nhà (không tính
tiền đất). Từ trước đến nay ông M ở chung với cha mẹ nên cha mẹ không tách
riêng đất cho ông M vì nghỉ rằng ông M là con út nên thừa hưởng hết (theo
phong tục người Việt Nam) những gì cha mẹ để lại nhưng đến nay ông M1 T
yêu cầu chia thừa kế theo pháp luật thì ông M chỉ đồng ý chia cho ông T giá trị
tương đương diện tích 250m
2
diện tích đất theo giá Nhà nước quy định.
4. Tại Bản tự khai ngày 14/10/2024, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên
quan ông Nguyễn Minh Q, ông Nguyễn Quang V, ông Nguyễn Quang T7 cùng
thống nhất trình bày:
Ông Nguyễn Minh Q là con của cụ Nguyễn Văn C và cụ Lê Thị L. Cha
ông Q là cụ C chết ngày 11/01/2013 và cụ L chết ngày 25/11/2013. Di sản của
cha mẹ ông Q chết để lại là phần đất theo Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất,
quyền sở hữu nhà ở và tài sản gắn liền với đất số BH 764990 (vào sổ số
CH02534/AT) do Ủy ban nhân dân thị xã (nay là thành phố) T cấp ngày
12/11/2012 do cụ Nguyễn Văn C và cụ Lê Thị L đứng tên sử dụng thửa đất số
747 và 4080, tờ bản đồ số 54(B2) với diện tích 3.190m
2
tọa lạc tại khu phố T,
phường A, thị xã (nay là thành phố ), tỉnh Bình Dương.
Trên Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất diện tích là 3.190m
2
nhưng thực
tế khi mẹ ông Q còn sống cha mẹ ông Q đã chuyển nhượng giấy tay cho 03
người với tổng diện tích đã chuyển nhượng là 306m
2
gồm: bà Võ Thị T13 diện
tích 66m
2
ông Nguyễn Tấn P diện tích 120m
2
do diện tích nhỏ nên không thể
tách thửa để sang tên được nên có sự chênh lệch về diện tích trên giấy tờ và thực
tế, phần chuyển nhượng giấy tay cho bà Võ Thị T13 và ông Nguyễn Thị Thanh
T3 là 186m
2
nằm trong diện tích phân chia cho ông Nguyễn Minh Q, còn phần
chuyển nhượng giấy tay 120m
2
cho ông Nguyễn Tấn P nằm trong diện tích đất
chia cho ông Nguyễn Minh S. Sau này, cha mẹ chết chị của ông Q (bà Nguyễn
Thị Thanh T3) chuyển nhượng diện tích đất trên cho người khác nhưng sau đó
người ta không xây dựng nhà được nên chuyển nhượng lại cho ông Q và ông đã
cho con là Nguyễn Quang V diện tích khoảng 150m
2
(hiện giấy tờ mua chuyển
nhượng đất với chị ông Q bị thất lạc); phần đất còn lại ông Q sử dụng cho đến
nay.
Sau khi cha mẹ ông Q mất, ông Nguyễn Minh T về nước được 02 - 03 lần,
mỗi lần về thì anh chị em cũng có bàn bạc với nhau về việc phân chia đất cha
mẹ ông Q để lại nhưng ông T bảo rằng: “anh không nhận đất vì anh ở Mỹ làm
7
ăn nên các em trừ anh ra cho đỡ phiền phức về thủ tục và trước đây cha mẹ còn
sống có cho anh rồi nên anh không nhận thêm làm gì”. Xuất phát từ việc ông
Nguyễn Minh T từ chối nhận di sản (bằng miệng) nên các anh chị em mới bàn
nhau để phân chia cụ thể và ra Văn phòng C2 ký tên lăn tay vào Văn bản thỏa
thuận phân chia di sản ngày 18/7/2018 (cách thời gian cha mẹ chết 05 năm).
Ông Q không hiểu vì sao đến nay đã 11 năm kể từ khi cha mẹ chết thì ông M lại
quay về khởi kiện tranh chấp thừa kế tài sản yêu cầu được chia làm 07 phần
bằng nhau, yêu cầu nhận giá trị tương đương phần đất được hưởng là 455,7m
2
là
không hợp tình vì đa số anh chị em đã chuyển nhượng cho người khác, đồng
thời từ trước đến nay ông Nguyễn Minh T cũng không có công sức gì trong việc
gìn giữ di sản của cha mẹ để lại. Ông Q không yêu cầu hủy Văn bản thỏa thuận
phân chia di sản ngày 18/7/2018, ông Q vẫn chấp nhận diện tích 337,5m
2
đã
phân chia cho ông Q. Do đó, ông Q yêu cầu Tòa án không chấp nhận yêu cầu
khởi kiện của ông Nguyễn Minh T.
5. Tại biên bản làm việc ngày 14/10/2024, người có quyền lợi, nghĩa vụ
liên quan ông Nguyễn Minh S, bà Nguyễn Thị Mỹ H1, ông Nguyễn Minh T9 và
ông Nguyễn Minh T8 cùng thống nhất trình bày:
Ông Nguyễn Minh S là con của cụ Nguyễn Văn C và cụ Lê Thị L, cụ C
chết ngày 11/01/2013, cụ L chết ngày 25/11/2013. Di sản của cha mẹ ông S chết
để lại là phần đất theo Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, quyền sở hữu nhà ở
và tài sản gắn liền với đất số BH 764990 (vào sổ số CH02534/AT) do Ủy ban
nhân dân thị xã (nay là thành phố) T cấp ngày 12/11/2012 do cụ Nguyễn Văn C
và cụ Lê Thị L đứng tên sử dụng, thửa đất số 747 và số 4080, tờ bản đồ số
54(B2) với diện tích 3.190m
2
tọa lạc tại khu phố T, phường A, thị xã (nay là
thành phố ), tỉnh Bình Dương. Trên Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất ghi
diện tích là 3.190m
2
nhưng thực tế khi cha mẹ còn sống đã chuyển nhượng giấy
tay cho 03 người là bà Võ Thị T13 diện tích 66m
2
, Nguyễn Thanh P1 diện tích
120m
2
và bà Nguyễn Thị Thanh T3 (chị thứ hai của ông S) diện tích 120m
2
; do
diện tích nhỏ không thể tách thửa để sang tên được nên có sự chênh lệch về diện
tích trên giấy tờ và thực tế, phần chuyển nhượng giấy tay 66m
2
+ 120m
2
cho bà
Võ Thị T13 và bà Nguyễn Thị Thanh T3 nằm trong số diện tích phân chia cho
ông Nguyễn Minh Q, còn phần chuyển nhượng giấy tay 120m
2
cho ông Nguyễn
Tấn P nằm trong diện tích đất chia cho ông Nguyễn Minh S.
Sau khi cha mẹ ông S mất, ông Nguyễn Minh T về nước được 02 - 03 lần,
mỗi lần về thì anh chị em cũng có bàn bạc với nhau về việc phân chia đất cha
mẹ để lại nhưng ông T bảo rằng: “anh không nhận đất vì anh ở Mỹ làm ăn nên
các em trừ anh ra cho đỡ phiền phức về thủ tục và trước đây cha mẹ còn sống
có cho anh rồi nên anh không nhận thêm làm gì”. Xuất phát từ việc ông Nguyễn
Minh T từ chối nhận di sản (bằng miệng) nên các anh chị em mới bàn nhau để
phân chia cụ thể và ra Văn phòng C2 ký tên lăn tay vào Văn bản thỏa thuận
phân chia di sản ngày 18/7/2018 (cách thời gian cha mẹ chết 05 năm). Anh chị
em phân chia người nhiều người ít đất (không bằng nhau) dựa trên việc trước
đây cha mẹ đã cho đất và nhận phần đất của mình rồi. Riêng ông S chỉ nhận
8
316,6m
2
đất nhưng ông S vẫn không yêu cầu phân chia thêm. Ông S không hiểu
vì sao đến nay đã 11 năm kể từ khi cha mẹ chết thì ông T lại quay về khởi kiện
tranh chấp thừa kế tài sản yêu cầu được chia làm 07 phần bằng nhau nhận giá trị
tương đương phần đất được hưởng là 455,7m
2
là không hợp tình vì anh chị em
đã chuyển nhượng phần đất của mình sau khi đã phân chia, riêng ông S vẫn giữ
gìn đến nay. Diện tích còn lại thực tế chỉ còn khoảng 2.854m
2
(sau khi đã trừ
phần cha mẹ đã chuyển nhượng bằng giấy tay 306m
2
+ đường nước khoảng
30m
2
). Do đó, ông S yêu cầu Tòa án không chấp nhận yêu cầu khởi kiện của ông
Nguyễn Minh T.
6. Tại Bản tự khai ngày 21/10/2024, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên
quan bà Nguyễn Thị Thu T5 trình bày:
Bà Nguyễn Thị Thu T5 là con của cụ Nguyễn Văn C và cụ Lê Thị L, cụ
C chết ngày 11/01/2013, cụ L chết ngày 25/11/2013. Di sản của cha mẹ bà T5
chết để lại là phần đất theo Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, quyền sở hữu
nhà ở và tài sản gắn liền với đất số BH 764990 (vào sổ số CH02534/AT) do Ủy
ban nhân dân thị xã (nay là thành phố) T cấp ngày 12/11/2012 do cụ Nguyễn
Văn C và cụ Lê Thị L đứng tên sử dụng thửa đất số 747 và 4080, tờ bản đồ số
54(B2) với diện tích 3.190m
2
tọa lạc tại khu phố T, phường A, thị xã (nay là
thành phố ), tỉnh Bình Dương. Trên Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất ghi
diện tích là 3.190m
2
nhưng thực tế khi cha mẹ còn sống đã chuyển nhượng giấy
tay cho 03 người là bà Võ Thị T13 diện tích 66m
2
, Nguyễn Thanh P1 diện tích
120m
2
và bà Nguyễn Thị Thanh T3 (chị thứ hai của bà T13) diện tích 120m
2
; do
diện tích nhỏ không thể tách thửa để sang tên được nên có sự chênh lệch về diện
tích trên giấy tờ và thực tế.
Sau khi cha mẹ bà T13 mất thì ông Nguyễn Minh T về nước được 02 - 03
lần (trước khi anh chị em phân chia di sản), mỗi lần ông T về anh chị em cũng
có bàn bạc với nhau về việc phân chia đất cha mẹ bà T13 để lại nhưng ông T
bảo rằng: “anh không nhận đất vì anh ở Mỹ làm ăn nên các em trừ anh ra cho
đỡ phiền phức về thủ tục và trước đây cha mẹ còn sống có cho anh rồi nên anh
không nhận thêm làm gì”. Xuất phát từ việc ông Nguyễn Minh T từ chối nhận di
sản (bằng miệng) nên các anh chị em mới bàn nhau để phân chia cụ thể (người
diện tích nhiều, người diện tích ít chứ không bằng nhau, nhưng anh chị em đồng
ý với nhau để tiến hành làm thủ tục đo đạc) và ra Văn phòng C2 ký tên lăn tay
vào Văn bản thỏa thuận phân chia di sản ngày 18/7/2018 (cách thời gian cha mẹ
chết 05 năm). Anh chị em phân chia người nhiều người ít đất (không bằng nhau)
dựa trên việc trước đây cha mẹ đã cho đất và nhận phần đất của mình rồi. Riêng
bà T13 chỉ nhận 223m
2
đất nhưng bà T13 vẫn không yêu cầu phân chia thêm gì.
Bà T13 không hiểu vì sao đến nay đã 11 năm kể từ khi cha mẹ chết thì ông M lại
quay về khởi kiện tranh chấp thừa kế tài sản yêu cầu được chia làm 07 phần
bằng nhau và nhận giá trị tương đương phần đất được hưởng là 455,7m
2
là
không hợp tình vì anh chị em đã chuyển nhượng phần đất của mình sau khi đã
phân chia, riêng bà T13 vẫn giữ gìn đến nay, ông Nguyễn Minh T cũng không
có công sức gì trong việc gìn giữ di sản của cha mẹ để lại. Bà T13 đồng ý nhận
9
đúng diện tích đã thỏa thuận trong văn bản thỏa thuận phân chia di sản ngày
18/7/2018 chứ không yêu cầu chia bằng nhau như yêu cầu của ông Nguyễn
Minh T vì diện tích còn lại thực tế chỉ còn khoảng 2.854m
2
(sau khi đã trừ phần
cha mẹ đã chuyển nhượng bằng giấy tay 306m
2
+ đường nước khoảng 30m
2
). Do
đó, bà T13 yêu cầu Tòa án không chấp nhận yêu cầu khởi kiện của ông Nguyễn
Minh T.
7. Tại đơn xin giải quyết vắng mặt ngày 22 tháng 5 năm 2024, người có
quyền lợi, nghĩa vụ liên quan ông Nguyễn Minh T4 trình bày:
Ông Nguyễn Minh T4 không tranh chấp và yêu cầu gì, đề nghị giải quyết
theo quy định của pháp luật.
8. Tại Bản tự khai ngày 16/10/2024, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên
quan ông Nguyễn Tấn T10, bà Nguyễn Thị Đ, cháu Nguyễn Nguyễn An N3 và
cháu Nguyễn Ngọc Song T11 trình bày:
Do có nhu cầu mua đất để có nhà ở nên vào ngày 01/02/2017 ông T10 có
nhận chuyển nhượng miếng đất diện tích khoảng 100m
2
(ngang 10m, dài 12m)
của ông Nguyễn Tấn P bằng giấy tay, miếng đất ông Nguyễn Tấn P mua của cụ
Nguyễn Văn C (cha) và ông Nguyễn Minh S (con) vào ngày 18/4/2012 cũng
bằng giấy tay. Sau đó, chuyển nhượng lại cho ông T10 bằng giấy tay để ông T10
cất nhà ở và sinh sống đến nay.
9. Tại Bản tự khai ngày 14/10/2024, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên
quan bà Lý Thanh H2 và cháu Lý Huỳnh Thanh V1 cùng thống nhất trình bày:
Vào ngày 18/4/2011, bà Võ Thị T13 có nhận chuyển nhượng của cụ
Nguyễn Văn C và cụ Lê Thị L một thửa đất chiều ngang 5m x chiều dài 12m,
tổng diện tích là 66m
2
. Đến ngày 02/5/2015, dì bà H2 là bà Võ Thị T13 cho lại
bà H2 và không có ai tranh chấp cho đến nay.
10. Tại Văn bản trình bày ý kiến ngày 18/11/2024, Văn phòng C2 do ông
Đặng Lương G đại diện trình bày:
Ngày 18/7/2018, Văn phòng C2 đã chứng nhận Văn bản thỏa thuận phân
chia di sản số công chứng số 10851, quyển số 07TP/CC-SCC/HĐGD của người
để lại di sản là cụ Nguyễn Văn C và cụ Lê Thị L. Di sản thừa kế là quyền sử
dụng đất tọa lạc tại phường A, thành phố T, tỉnh Bình Dương, diện tích 3.190m
2
,
thửa đất số 747, 4080, tờ bản đồ số 54(B2) theo Giấy chứng nhận quyền sử dụng
đất quyền sở hữu nhà ở và tài sản khác gắn liền với đất BH 764990 (số vào sổ
cấp GCN: CH02534/AT) do Ủy ban nhân dân thị xã (nay là thành phố ), tỉnh
Bình Dương cấp ngày 12/11/2012. Quá trình thực hiện công chứng Văn bản
thỏa thuận phân chia di sản nêu trên được thực hiện theo đúng thủ tục quy định
của pháp luật về công chứng. Tại thời điểm ký văn bản thỏa thuận phân chia di
sản này, những người thực hiện thỏa thuận phân chia di sản gồm: bà Nguyễn Thị
Thanh T3, ông Nguyễn Minh T4, ông Nguyễn Minh S, bà Nguyễn Thị Thu T5,
ông Nguyễn Minh Q, ông Nguyễn Minh M cùng có mặt tại trụ sở Văn phòng
C2, tỉnh Bình Dương để cùng tham gia, thỏa thuận, đọc lại và tự nguyện ký kết
10
vào văn bản thỏa thuận phân chia di sản trước sự chứng kiến của Công chứng
viên. Công chứng viên đã kiểm tra bản chính giấy tờ tùy thân của các bên tham
gia hợp đồng, xác định các bên có đủ năng lực hành vi dân sự theo quy định của
pháp luật. Việc giao kết, thỏa thuận trong văn bản giữa các bên là hoàn toàn tự
nguyện. Mục đích và nội dung thỏa thuận phân chia di sản không vi phạm pháp
luật, không trái đạo đức xã hội. Công chứng viên cũng đã giải thích rõ quyền và
nghĩa vụ của các bên và hậu quả pháp lý của việc thỏa thuận nêu trên, những
người thỏa thuận đã nghe và hiểu rõ, đồng thời cam kết tự chịu trách nhiệm
trước pháp luật về việc thực hiện văn bản thỏa thuận phân chia di sản. Những
người tham gia thỏa thuận phân chia di sản đã đọc lại toàn bộ dự thảo của văn
bản thỏa thuận phân chia di sản, đã đồng ý với toàn bộ tài sản nội dung dự thảo.
Sau đó, các bên đã ký tên, điểm chỉ trước mặt Công chứng viên. Văn bản thỏa
thuận phân chia di sản đã được nhận theo quy định của pháp luật và có số công
chứng là 10851, quyển số 07TP/CC-SCC/HĐGD, ngày chứng nhận 18/7/2018.
Tại phiên tòa, nguyên đơn ông Nguyễn Minh T do ông Nguyễn Duy T14
đại diện xin rút một phần yêu cầu khởi kiện đối với diện tích cụ C và cụ L khi
còn sống đã chuyển nhượng là 186m
2
(bao gồm 66m
2
đã chuyển nhượng cho bà
Vũ Thị T15 và 120m
2
đã chuyển nhượng cho ông Nguyễn Minh S); diện tích
còn lại 3.004m
2
nguyên đơn yêu cầu chia đều cho 07 kỷ phần, phần ông T được
nhận có diện tích 429,1m
2
; nếu ông T không đủ điều kiện để được nhận bằng
hiện vật thì ông T yêu cầu được nhận bằng giá trị. Đồng thời, nguyên đơn yêu
cầu chia 1/7 giá trị các căn nhà ký hiệu 3, 7, 8, 9, 10, 11 trên sơ đồ bản vẽ do cụ
C và cụ L để lại theo giá Hội đồng định giá đã xác định, đồng ý giao toàn bộ nhà
và đất cho ông M quản lý, sử dụng, ông M có trách nhiệm thanh toán lại 1/7 giá
trị kỷ phần cho nguyên đơn. Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan bà Nguyễn
Thị Thanh T3 có đơn xin vắng mặt và vẫn giữ nguyên yêu cầu độc lập. Bị đơn
ông Nguyễn Minh M xác định cụ C và cụ L khi còn sống đã chuyển nhượng
bằng giấy tay cho 03 người với diện tích là 306m
2
và diện tích mương thoát
nước là 30m
2
nên diện tích thực tế chỉ còn 2.854m
2
nay bị đơn chỉ đồng ý chia
cho nguyên đơn diện tích 250m
2
và 1/7 giá trị căn nhà ký hiệu số 8 trên bản vẽ
theo giá Hội đồng định giá đã xác định, các công trình xây dựng còn lại là của
vợ chồng bị đơn đầu tư xây dựng nên bị đơn không đồng ý phân chia giá trị cho
nguyên đơn. Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan ông Nguyễn Minh Q và bà
Ngô Thị Yến N thống nhất với lời trình bày của bị đơn. Các đương sự không
thỏa thuận được với nhau về việc giải quyết vụ án.
Người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của nguyên đơn, Luật sư Nguyễn
Thành T2 phát biểu quan điểm:
Quyền sử dụng đất theo Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất số BH
764990 (vào sổ số CH 02534/AT) do Ủy ban nhân dân thị xã (nay là thành phố)
Thuận An cấp ngày 12/11/2012 do cha mẹ ông T là cụ Nguyễn Văn C và cụ Lê
Thị L chết để lại, cụ C và cụ L chết không để lại di chúc. Sau khi cha mẹ ông T
chết, các anh chị em của ông T đã làm Văn bản thỏa thuận phân chia di sản tại
Văn phòng C2 nhưng đã bỏ sót hàng thừa kế là ông T nên văn bản này bị vô
11
hiệu theo quy định tại Điều 123 của Bộ luật Dân sự. Do đó, đề nghị Hội đồng
xét xử chấp nhận toàn bộ yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn.
Quan điểm của đại diện Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Bình Dương:
- Về thủ tục tố tụng: Thẩm phán, những người tiến hành Tố tụng và những
người tham gia tố tụng đã thực hiện đúng quy định của Bộ luật Tố tụng dân sự.
- Về nội dung: Vợ chồng cụ Nguyễn Văn C chết năm 2013 và cụ Lê Thị L
chết năm 2013, sinh được 07 người con gồm: bà Nguyễn Thị Thanh T3, ông
Nguyễn Minh T, ông Nguyễn Minh T4, ông Nguyễn Minh S, bà Nguyễn Thị
Thu T5, ông Nguyễn Minh Q và ông Nguyễn Minh M. Khi còn sống cụ C và cụ
L có tạo dựng được phần đất có diện tích 3.190m
2
, thuộc thửa đất số 747, 4080,
tờ bản đồ số 54(B2) theo giấy chứng nhận quyền sử dụng đất quyền sở hữu nhà
ở và tài sản khác gắn liền với đất BH 764990 (số vào sổ cấp GCN:
CH02534/AT) do Ủy ban nhân dân thị xã (nay là thành phố ), tỉnh Bình Dương
cấp ngày 12/11/2012, đất tọa lạc tại phường A, thành phố T, tỉnh Bình Dương
cho cụ Nguyễn Văn C và cụ Lê Thị L. Ngày 18/7/2018, Văn phòng C2 đã chứng
nhận Văn bản thỏa thuận phân chia di sản, Số công chứng số 10851, quyển số
07TP/CC-SCC/HĐGD của người để lại di sản là cụ ông Nguyễn Văn C và cụ bà
Lê Thị L. Di sản thừa kế là quyền sử dụng đất đối với phần đất có tổng diện tích
là 3.190m
2
, thuộc thửa đất số 747, 4080 tờ bản đồ số 54(B2), tọa lạc tại phường
A, thành phố T, tỉnh Bình Dương, theo Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất
quyền sở hữu nhà ở và tài sản khác gắn liền với đất BH 764990 (số vào sổ cấp
GCN: CH02534/AT) do Ủy ban nhân dân thị xã (nay là thành phố) T, tỉnh Bình
Dương cấp ngày 12/11/2012 cho cụ Nguyễn Văn C và cụ Lê Thị L đứng tên chủ
sở hữu. Tuy nhiên, Văn bản thỏa thuận phần chia di sản thừa kế này còn thiếu
ông Nguyễn Minh T là nguyên đơn trong vụ án là vi phạm quy định về hàng
thừa kế nên văn bản phân chia di sản thừa kế được Văn phòng C2 công chứng bị
vô hiệu. Do vậy, Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Bình Dương đề nghị Hội đồng xét
xử tuyên theo hướng: Chấp nhận 01 phần yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn ông
Nguyễn Minh T và 01 phần yêu cầu độc lập của người có quyền lợi nghĩa vụ
liên quan bà Nguyễn Thị Thanh T3; tuyên Văn bản phân thỏa thuận chia di sản
thừa kế theo số công chứng 10851, quyển số 07 được ký ngày 18/7/2018 tại Văn
phòng C2 vô hiệu; chia di sản thừa kế theo pháp luật của cụ Nguyễn Văn C và
cụ Nguyễn Thị L1 đối với quyền sử dụng đất tọa lạc trên thửa đất số 747, 4080
tờ bản đồ số 54(B2) có diện tích 3.190m
2
thành 07 phần sau khi đã trừ đi các
phần đất mà khi còn sống cụ C đã đồng ý chuyển nhượng cho ông Nguyễn Tấn
P 120m
2
(ông P đã chuyển nhượng lại cho ông Nguyễn Tấn T10); bà Võ Thu
T16 66m
2
(đã cho bà Lý Thanh H2 phần đất này) và 30m
2
đất mương nước,
trong đó phải tính đến công sức đóng góp gìn giữ cải tạo đất cho bị đơn ông
Nguyễn Minh M. Bị đơn ông Nguyễn Minh M tự nguyện trả tiền cho nguyên
đơn ông Nguyễn Minh T đối với kỷ phần mà nguyên đơn ông T được nhận.
Người có quyền lợi và nghĩa vụ liên quan có yêu cầu độc lập bà Nguyễn
Thị Thanh T3 yêu cầu được nhận hiện vật, đề nghị chia di sản thừa kế theo pháp
luật của cụ Nguyễn Văn C và cụ Nguyễn Thị L1 đối với quyền sử dụng đất tọa
12
lạc trên thửa đất số 747, 4080 tờ bản đồ số 54(B2) có diện tích 3.190m
2
thành 07
phần là có căn cứ chấp nhận một phần sau khi đã trừ đi các phần đất mà khi còn
sống cụ C đã đồng ý chuyển nhượng và trừ đi diện tích đất bà T3 đã được phân
chia, trừ đi diện tích tính công sức đóng góp gìn giữ cải tạo đất cho bị đơn ông
Nguyễn Minh M.
Người có quyền lợi và nghĩa vụ liên quan ông Lê Trọng T6 là người nhận
chuyển nhượng đất của bà Nguyễn Thị Thanh T3 và đã được cấp Giấy chứng
nhận quyền sử dụng đất, ông T6 đề nghị công nhận hợp đồng mua chuyển
nhượng giữa ông T6 và bà T3 là hợp pháp và không có yêu cầu gì trong vụ án.
Những người có quyền lợi và nghĩa vụ liên quan ông Nguyễn Tấn T10 và bà Lý
Thanh H2 không có yêu cầu độc lập trong vụ án, nên không đề nghị xem xét giải
quyết.
Sau khi nghiên cứu các tài liệu, chứng cứ có trong hồ sơ vụ án đã được thẩm tra
tại phiên tòa, căn cứ vào kết quả tranh tụng tại phiên tòa, ý kiến phát biểu của
Luật sư và quan điểm giải quyết vụ án của Kiểm sát viên,
NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN:
[1] Về tố tụng:
[1.1] Về thẩm quyền giải quyết: Đất tranh chấp tọa lạc tại phường A,
thành phố T, tỉnh Bình Dương và người tham gia tố tụng có người nước ngoài là
ông Nguyễn Minh T hiện đang định cư tại Hoa Kỳ. Do đó, vụ án thuộc thẩm
quyền giải quyết của Tòa án nhân dân tỉnh Bình Dương theo quy định tại điểm c
khoản 1 Điều 37 của Bộ luật Tố tụng dân sự.
[1.2] Về sự vắng mặt của các đương sự: Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên
quan bà Nguyễn Thị Thanh T3, ông Nguyễn Minh T4, ông Nguyễn Minh S, bà
Nguyễn Thị Thu T5, ông Nguyễn Minh N1, bà Mạc Thị H, ông Nguyễn Quang
V, ông Nguyễn Quang T7, bà Nguyễn Thị Mỹ H1, ông Nguyễn Minh T8, ông
Nguyễn Minh T9, ông Nguyễn Tấn T10, bà Nguyễn An N3, bà Nguyễn Ngọc
Song T11, bà Lý Thanh H2, bà Lý Huỳnh Thanh V1; đại diện hợp pháp của Văn
phòng C2, đại diện hợp pháp của Trung tâm phát triển quỹ đất thành phố T và
đại diện hợp pháp của Ủy ban nhân dân thành phố T tất cả đều có đơn yêu cầu
giải quyết vắng mặt. Do vậy, Hội đồng xét xử tiến hành xét xử vắng mặt đương
sự có tên nếu trên theo quy định tại Điều 227 và Điều 228 của Bộ luật Tố tụng
dân sự.
[1.3] Tại phiên tòa, nguyên đơn ông Nguyễn Minh T do ông Nguyễn Duy
T14 đại diện xin rút một phần yêu cầu khởi kiện đối với diện tích đất do cụ C và
cụ L1 khi còn sống đã chuyển nhượng là 186m
2
(bao gồm 66m
2
đã chuyển
nhượng cho bà Vũ Thị T15 và 120m
2
đã chuyển nhượng cho ông Nguyễn Minh
S). Xét thấy, việc rút một phần yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn là hoàn toàn
tự nguyện và phù hợp với quy định tại khoản 2 Điều 244 của Bộ luật Tố tụng
dân sự nên có căn cứ để Hội đồng xét xử chấp nhận đình chỉ một phần yêu cầu
khởi kiện trên của nguyên đơn.
13
[2] Về hàng thừa kế: Quá trình giải quyết vụ án, các đương sự đều trình
bày thống nhất: Cụ Nguyễn Văn C chết năm 2013 và cụ Lê Thị L chết năm
2013, sinh được 07 người con gồm: bà Nguyễn Thị Thanh T3, ông Nguyễn
Minh T, ông Nguyễn Minh T4, ông Nguyễn Minh S, bà Nguyễn Thị Thu T5,
ông Nguyễn Minh Q và ông Nguyễn Minh M. Căn cứ theo quy định tại Điều
651 của Bộ luật Dân sự thì hàng thừa kế thứ nhất theo pháp luật của cụ C và cụ
L gồm: bà Nguyễn Thị Thanh T3, ông Nguyễn Minh T, ông Nguyễn Minh T4,
ông Nguyễn Minh S, bà Nguyễn Thị Thu T5, ông Nguyễn Minh Q và ông
Nguyễn Minh M.
[3] Về di sản thừa kế:
[3.1] Các đương sự đều trình bày thống nhất khi còn sống, cụ C và cụ L
có tạo lập được phần đất có diện tích 3.190m
2
, thuộc thửa đất số 747, 4080, tờ
bản đồ số 54(B2) theo Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất quyền sở hữu nhà ở
và tài sản khác gắn liền với đất BH 764990 (số vào sổ cấp Giấy chứng nhận
CH02534/AT) do Ủy ban nhân nhan65thi5 xã (nay là thành phố) T, tỉnh Bình
Dương cấp ngày 12/11/2012, đất tọa lạc tại phường A, thành phố T, tỉnh Bình
Dương cho cụ Nguyễn Văn C và cụ Lê Thị L.
[3.2] Ngày 18/4/2012, cụ C lập giấy tay mua đất (bút lục 110) đồng ý cho
ông Nguyễn Văn S1 được quyền chuyển nhượng phần đất có chiều ngang 10m x
chiều sâu 12m = 120m
2
với giá 100.000.000 đồng cho ông Nguyễn Tấn P và lối
đi chung có chiều ngang 1,5m x chiều sâu 12m = 18m
2
. Đến ngày 01/02/2017,
ông Nguyễn Tấn P lập giấy tay chuyển nhượng hết phần đất này cho ông
Nguyễn Tấn T10 với giá 300.000.000 đồng. Ông T10 đã làm nhà và ở trên đất từ
đó đến nay, hiện chưa được cấp Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất. Ông T10
đề nghị Tòa án giải quyết theo quy định của pháp luật, không có yêu cầu độc lập
trong vụ án này.
[3.3] Ngày 18/4/2011, cụ Nguyễn Văn C lập hợp đồng chuyển nhượng đất
bằng giấy tay (bút lục 108) đồng ý cho ông Nguyễn Minh Q được quyền chuyển
nhượng phần đất có chiều ngang 5,5m x chiều dài 12m = 66m
2
cho bà Võ Thị
T13 với số tiền là 90.000.000 đồng. Ngày 02/5/2015, bà Võ Thị T13 lập giấy tay
cho cháu là bà Lý Thanh H2 phần đất này. Hiện nay, phần đất này bà H2 đã làm
nhà ở nhưng chưa được cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất. Bà H2 đề nghị
Tòa án giải quyết theo quy định của pháp luật và không có yêu cầu độc lập trong
vụ án.
[3.4] Bà Nguyễn Thị Thanh T3 nhận thừa kế diện tích đất 184,1m
2
, trong
đó có 50m
2
ODT và 134,1m
2
CLN thuộc thửa số 4210, tờ bản đồ số 54 theo Văn
bản thỏa thuận phân chia di sản được Văn phòng C2 chứng nhận số công chứng
10851, bà T3 đã được cấp Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất sau đó chuyển
nhượng lại cho ông Phạm Minh Q1 và ông Nguyễn Tài X. Sau khi được cấp
Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, ông Q1 và ông X chuyển nhượng lại cho
ông Lê Trọng T6 theo hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất được Văn
phòng C3 chứng nhận số công chứng 5886, quyển số 08/2022 TP/CC-
14
SCC/HĐGD và ông T6 đã được cấp Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, quyền
sở hữu nhà ở và tài sản khác gắn liền với đất số DG 609498, số vào sổ cấp Giấy
chứng nhận CS11169 ngày 16/9/2022.
[3.5] Ngày 18/7/2018, Văn phòng C2 đã chứng nhận Văn bản thỏa thuận
phân chia di sản, số công chứng số 10851, quyển số 07TP/CC-SCC/HĐGD của
người để lại di sản là cụ Nguyễn Văn C và cụ Lê Thị L. Di sản thừa kế là quyền
sử dụng đất đối với phần đất có tổng diện tích là 3.190m
2
, thuộc thửa đất số 747,
4080, tờ bản đồ số 54(B2) tọa lạc tại phường A, thành phố T, tỉnh Bình Dương,
theo Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất quyền sở hữu nhà ở và tài sản khác
gắn liền với đất BH 764990 (số vào sổ cấp giấy chứng nhận CH02534/AT) do
Ủy ban nhân dân thị xã (nay là thành phố) T, tỉnh Bình Dương cấp ngày
12/11/2012 cho cụ Nguyễn Văn C và cụ Lê Thị L. Nội dung thỏa thuận phân
chia như sau: bà T3 được chia diện tích 184,1m
2
(đất cây lâu năm); ông T4 được
chia diện tích 164,6m
2
(đất cây lâu năm); ông S1 được chia diện tích 316,6m
2
(đất cây lâu năm 225,9m
2
, đất ở đô thị 90,7m
2
); bà T13 được chia diện tích
223m
2
(đất cây lâu năm); ông M được chia diện tích 1.964,2m
2
(đất cây lâu năm
1.689,2m
2
, đất ở đô thị 275m
2
). Xét thấy, Văn bản thỏa thuận phân chia di sản
thừa kế này bỏ sót ông Nguyễn Minh T là một trong những người thuộc hàng
thừa kế thứ nhất của cụ C và cụ L như đã phân tích tại mục [2] trên là nguyên
đơn trong vụ án nên Văn bản thỏa thuận phân chia di sản thừa kế bị vô hiệu theo
quy định tại các Điều 123, 610, 650, 651 của Bộ Luật Dân sự. Tuy nhiên, sau
khi lập Văn bản thỏa thuận phân chia di sản thừa kế ngày 18/7/2018 thì các ông
bà Nguyễn Thị Thanh T3, Nguyễn Minh T4, Nguyễn Minh S, Nguyễn Thị Thu
T5, Nguyễn Minh Q và Nguyễn Minh M đều đã được cấp giấy chứng nhận
quyền sử dụng đất, đã quản lý, sử dụng ổn định và đồng ý với diện tích đất đã
phân chia, không yêu cầu bị đơn phải phân chia thêm diện tích nào trong tổng
diện tích đất trên nên không nhất thiết phải tuyên Văn bản thỏa thuận phân chia
di sản vô hiệu và tuyên hủy giấy chứng nhận quyền sử dụng đất đã cấp cho các
ông bà có tên trên. Do bị đơn ông M được nhận diện tích nhiều hơn các đồng
thừa kế khác nên bị đơn có trách nhiệm thanh toán lại bằng giá trị cho nguyên
đơn ông T theo giá Hội đồng định giá đã xác định. Trước khi phân chia di sản
phải trừ đi các phần đất mà khi còn sống cụ C và cụ L đã đồng ý chuyển nhượng
cho ông Nguyễn Tấn P 120m
2
cùng với diện tích lối di là 18m
2
(ông P đã chuyển
nhượng lại cho ông Nguyễn Tấn T10); diện tích chuyển nhượng cho bà Võ Thu
T16 66m
2
(bà T16 đã cho cháu là bà Lý Thanh H2 phần đất này) và 30m
2
đất
làm mương thoát nước, đồng thời, phải trích công sức nuôi dưỡng cụ C từ lúc
bệnh cho đến lúc qua đời cùng với công sức gìn giữ tôn tạo đất cho bị đơn ông
Nguyễn Minh M tương đương với 20% giá trị di sản.
[3.6] Đối với căn nhà trên đất có ký hiệu số 8 trên sơ đồ bản vẽ có diện
tích 175,9m
2
: Tại phiên tòa, bị đơn thống nhất căn nhà do cụ C và cụ L để lại và
đồng ý phân chia giá trị căn nhà theo quy định của pháp luật nên Hội đồng xét
xử giao cho bị đơn được hưởng toàn bộ giá trị căn nhà theo giá định giá, bị đơn
có trách nhiệm bồi hoàn giá trị cho các đồng thừa kế khác.
15
[3.7] Đối với các căn nhà trọ có ký hiệu 3 – 7 – 9 - 10 – 11 trên sơ đồ bản
vẽ có tổng diện tích xây dựng 264,4m
2
và mái che ký hiệu số 10 trên bản vẽ có
diện tích 80,6m
2
bị đơn xác định toàn bộ các công trình này do bị đơn xây dựng
sau khi cụ C và cụ L chết, nguyên đơn xác định do cụ C và cụ L để lại nhưng
không xuất trình được chứng cứ chứng minh. Căn cứ hồ sơ cấp Giấy chứng
nhận quyền sử dụng đất do Chi nhánh Văn phòng đăng ký đất đai thành phố T
cung cấp thì tại sơ đồ vị trí nhà đất (bút lục 131) ghi vị trí căn nhà có diện tích
114,79m
2
tương ứng với vị trí căn nhà số 8 trên bản vẽ mà bị đơn đã thừa nhận
trên. Do vậy, chỉ có căn cứ để Hội đồng xét xử chấp nhận một phần yêu cầu
khởi kiện của nguyên đơn chia cho nguyên đơn 1/7 giá trị diện tích căn nhà
175,9m
2
, không có căn cứ chấp nhận yêu cầu của nguyên đơn về việc chia 1/7
giá trị đối với các căn nhà trọ có ký hiệu 3 – 7 – 9 - 10 – 11 trên sơ đồ bản vẽ có
tổng diện tích xây dựng 264,4m
2
và mái che ký hiệu số 10 trên sơ đồ bản vẽ có
diện tích 80,6m
2
.
[3.8] Căn cứ hồ sơ cấp Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất do Chi nhánh
Văn phòng Đăng ký đất đai thành phố T cung cấp thì Giấy chứng nhận quyền sử
dụng đất số BH 764990 (vào sổ số CH 02534/AT) do Ủy ban nhân dân thị xã T
cấp ngày 12/11/2012 cho cụ Nguyễn Văn C và cụ Lê Thị L đứng tên có tổng
diện tích 3.190,0m
2
, trong đó 2.721m
2
đất trồng cây lâu năm; 469m
2
đất ở đô thị
nhưng đang nợ tiền sử dụng đất diện tích 309m
2
thể hiện tại thông báo nộp tiền
sử dụng đất (bút lục 148) và trang 3 Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất (bút lục
143). Sau khi cụ C và cụ L chết thì bị đơn ông M đã nộp tiền sử dụng đất theo
giấy nộp tiền vào ngân sách Nhà nước ngày 21/11/2017 (bút lục 140). Do đó,
sau khi trừ đi diện tích đất cụ C, cụ L đã chuyển nhượng (186m
2
), diện tích lối đi
(18m
2
), diện tích mương thoát nước chung 30m
2
và diện tích đất ở đô thị do bị
đơn trả nợ tiền thuế chuyển mục đích sử dụng đất (309m
2
) thì di sản cụ C và cụ
L để lại có diện tích là 2.956m
2
(trong đó có 160m
2
đất ở đô thị và 2.796m
2
đất
cây lâu năm. Theo biên bản định giá tài sản ngày 22/6/2024 (bút lục 254 -255),
Hội đồng định giá xác định:
- Giá đất ở đô thị 14.700.000đồng/m
2
x 160m
2
= 2.352.000.000 đồng.
- Giá đất cây lâu năm (đất nông nghiệp) 8.000.000đồng/m
2
x 2.796m
2
=
22.368.000.000 đồng.
- Nhà cấp 4 do cụ C và cụ L xây dựng có diện tích 175,9m
2
trị giá
3.908.000 đồng/m
2
x 40% giá trị sử dụng x 175,9m
2
= 274.966.880 đồng.
Như vậy, tổng giá trị nhà và đất là 24.994.966.880 đồng, sau khi trích
20% công sức đóng góp cho ông M được hưởng tương đương với số tiền
4.998.993.376 đồng thì tổng giá trị di sản còn lại là 19.995.973.504 đồng, được
chia cho 07 đồng thừa kế mỗi kỷ phần được hưởng tương với số tiền
2.856.567.643 đồng. Do ông T hiện đang định cư tại Hoa Kỳ nên ông T không
được hưởng bằng hiện vật mà chỉ được hưởng bằng giá trị. Bị đơn ông M có
trách nhiệm thanh toán cho nguyên đơn ông T số tiền 2.856.567.643 đồng.
16
[3.9] Ghi nhận sự tự nguyện của các ông bà Nguyễn Minh T4, Nguyễn
Minh S, Nguyễn Thị Thu T5, Nguyễn Minh Q đồng ý với diện tích đất đã được
phân chia theo Văn bản thỏa thuận phân chia thừa kế ngày 18/7/2018, tự nguyện
tặng cho ông M kỷ phần thừa kế được hưởng vượt quá và không yêu cầu ông M
bồi hoàn giá trị chênh lệch. Các ông bà Nguyễn Minh T4, Nguyễn Minh S,
Nguyễn Thị Thu T5, Nguyễn Minh Q tiếp tục được quyền quản lý, sử dụng diện
tích đất đã được phân chia và đã được cấp Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất
theo Văn bản thỏa thuận phân chia thừa kế ngày 18/7/2018. Đồng thời, các ông
bà này được quyền tự liên hệ Trung tâm phát triển quỹ đất thành phố T để nhận
tiền bồi thường liên quan đến diện tích đất và tài sản gắn liền diện tích đất theo
Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất các ông bà đã được cấp khi cơ quan có
thẩm quyền tiến hành thu hồi, giải tỏa để thực hiện dự án đường V - Thành phố
Hồ Chí Minh.
[3.10] Theo Văn bản thỏa thuận phân chia thừa kế ngày 18/7/2018, bà T3
đã được chia diện tích 184,1m
2
đất cây lâu năm tương đương với số tiền
1.472.800.000 đồng, so với kỷ phần thừa kế được hưởng là 2.856.567.643 đồng
thì bị đơn ông M có trách nhiệm bồi hoàn cho bà T3 giá trị chênh lệch là
1.383.767.643 đồng.
[3.11] Ông M được quyền tiếp tục quản lý, sử dụng và sở hữu căn nhà
cùng toàn bộ tài sản, cây trồng, công trình xây dựng gắn liền với phần đất có
diện tích đo đạc thực tế là 1.964,2m
2
(trong đó có 275m đất
ở đô thị, 1.689,2m
2
đất trồng cây lâu năm, thuộc thửa đất số 4208, tờ bản đồ số 54, tọa lạc tại khu
phố T, phường A, thành phố T, tỉnh Bình Dương theo Giấy chứng nhận quyền
sử dụng đất vào sổ cấp GCN số CS08016 do Sở Tài nguyên và Môi trường tỉnh
B cấp cho ông Nguyễn Minh M ngày 15/9/2018. Đồng thời, ông M được quyền
liên hệ Trung tâm phát triển quỹ đất thành phố T để nhận tiền bồi thường liên
quan đến diện tích đất và tài sản gắn liền diện tích đất theo Giấy chứng nhận
quyền sử dụng đất trên khi cơ quan có thẩm quyền tiến hành thu hồi, giải tỏa để
thực hiện dự án đường V - Thành phố Hồ Chí Minh.
[4] Người có quyền lợi và nghĩa vụ liên quan ông Lê Trọng T6 là người
nhận chuyển nhượng đất của bà Nguyễn Thị Thanh T3 và đã được cấp Giấy
chứng nhận quyền sử dụng đất, ông T6 không có yêu cầu gì trong vụ án nên
không đặt ra xem xét. Ông Nguyễn Tấn T10 và bà Lý Thanh H2 đã nhận chuyển
nhượng đất từ cụ C bằng giấy tay (hiện diện tích đất này nằm trong Giấy chứng
nhận quyền sử dụng đất cấp cho ông Nguyễn Minh Q) không có yêu cầu độc lập
trong vụ án, nên không xem xét giải quyết. Trường hợp các ông bà có phát sinh
tranh chấp sẽ được giải quyết bằng một vụ án khác.
Từ những phân tích như trên, có căn cứ để Hội đồng xét xử chấp nhận một
phần yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn ông Nguyễn Minh T và chấp nhận một
phần yêu cầu độc lập của người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan bà Nguyễn Thị
Thanh T3.
17
[5] Quan điểm của Luật sư bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp cho nguyên
đơn là có căn cứ chấp nhận một phần.
[6] Quan điểm của đại diện Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Bình Dương là có
căn cứ chấp nhận một phần.
[7] Về chi phí tố tụng: Tổng cộng số tiền là 14.813.966 đồng, do yêu cầu
khởi kiện của ông T, bà T3 được chấp nhận một phần nên ông T, ông M và bà
T3 mỗi người phải chịu số tiền 4.937.988 đồng, do nguyên đơn ông T đã nộp
tạm ứng nên ông M và bà T3 mỗi người phải nộp số tiền 4.937.988 đồng để
hoàn trả cho ông T.
[8] Về án phí dân sự sơ thẩm: Bị đơn phải chịu theo quy định của pháp
luật. Ông Nguyễn Minh T và bà Nguyễn Thị Thanh T3 là người cao tuổi và có
đơn xin miễn án phí, căn cứ theo quy định tại điểm đ khoản 1 Điều 12 Nghị
quyết 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội
khóa 14 quy định về mức thu, miễn giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và
lệ phí Tòa án thì các ông bà này được miễn án phí sơ thẩm.
Vì các lẽ trên,
QUYẾT ĐỊNH:
- Căn cứ khoản 5 Điều 26, các Điều 35, 37, 38, 39, 147, 157, 165, 227,
228, 244, 264, 266, 271, 273 và Điều 479 của Bộ luật Tố tụng dân sự;
- Căn cứ các Điều 123, 610, 612, 613; 649, 650, 651 và Điều 660 của Bộ
luật Dân sự;
- Căn cứ Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy
ban Thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và
sử dụng án phí và lệ phí Tòa án;
1. Đình chỉ xét xử một phần yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn ông
Nguyễn Minh T đối với bị đơn ông Nguyễn Minh M về việc yêu cầu chia thừa
kế tài sản đối với diện tích đất 186m
2
.
2. Chấp nhận một phần yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn ông Nguyễn
Minh T và chấp nhận một phần yêu cầu độc lập của người có quyền lợi nghĩa vụ
liên quan bà Nguyễn Thị Thanh T3 đối với bị đơn ông Nguyễn Minh M về việc
“Tranh chấp về thừa kế tài sản”.
- Giao cho ông Nguyễn Minh M được quyền tiếp tục quản lý, sử dụng và
sở hữu căn nhà cùng toàn bộ tài sản, cây trồng, công trình xây dựng gắn liền với
phần đất có diện tích đo đạc thực tế là 1.964,2m
2
(trong đó có 275m đất
ở đô thị,
1.689,2m
2
đất trồng cây lâu năm, thuộc thửa đất số 4208, tờ bản đồ số 54, tọa
lạc tại khu phố T, phường A, thành phố T, tỉnh Bình Dương theo Giấy chứng
nhận quyền sử dụng đất vào sổ cấp GCN số CS08016 do Sở Tài nguyên và Môi
trường tỉnh B cấp cho ông Nguyễn Minh M ngày 15/9/2018 (có sơ đồ bản vẽ
kèm theo).
18
- Ông Nguyễn Minh M được quyền liên hệ Trung tâm Phát triển quỹ đất
thành phố T để nhận tiền bồi thường liên quan đến diện tích đất và tài sản gắn
liền diện tích đất theo Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất vào sổ cấp GCN số
CS08016 do Sở Tài nguyên và Môi trường tỉnh B cấp cho ông Nguyễn Minh M
ngày 15/9/2018 khi cơ quan có thẩm quyền tiến hành thu hồi, giải tỏa để thực
hiện dự án đường V - Thành phố Hồ Chí Minh.
- Ông Nguyễn Minh M có trách nhiệm thanh toán kỷ phần thừa kế cho
ông Nguyễn Minh T với số tiền là 2.856.567.643 đồng (hai tỷ tám trăm năm
mươi sáu nghìn sáu trăm bốn mươi ba đồng); thanh toán cho bà Nguyễn Thị
Thanh T3 số tiền là 1.383.767.643 đồng (một tỷ ba trăm tám mươi ba triệu bảy
trăm sáu mươi bảy nghìn sáu trăm bốn mươi ba đồng).
Kể từ ngày người được thi hành án có đơn yêu cầu thi hành án, nếu người
phải thi hành án chậm thi hành án, thì hàng tháng còn chịu tiền lãi đối với số tiền
chậm thi hành án theo quy định tại khoản 2 Điều 468 của Bộ luật Dân sự năm
2015 tương ứng với số tiền và thời gian chậm thi hành án.
- Ghi nhận sự tự nguyện của các ông bà Nguyễn Minh T4, Nguyễn Minh
S, Nguyễn Thị Thu T5, Nguyễn Minh Q đồng ý với diện tích đất đã được phân
chia theo Văn bản thỏa thuận phân chia thừa kế ngày 18/7/2018, tự nguyện tặng
cho ông M kỷ phần thừa kế được hưởng vượt quá và không yêu cầu ông M bồi
hoàn giá trị chênh lệch.
3. Không chấp nhận một phần yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn ông
Nguyễn Minh T và không chấp nhận một phần yêu cầu độc lập của người có
quyền lợi nghĩa vụ liên quan bà Nguyễn Thị Thanh T3 đối với bị đơn ông
Nguyễn Minh M về việc yêu cầu hủy Văn bản công chứng theo Văn bản thỏa
thuận phân chia thừa kế số công chứng: 10851, quyển số 07 được ký ngày
18/7/2018 tại Văn phòng C2 và yêu cầu chia 1/7 giá trị đối với các căn nhà trọ
có ký hiệu 3 – 7 – 9 - 10 – 11 trên sơ đồ bản vẽ có tổng diện tích xây dựng
264,4m
2
và mái che ký hiệu số 10 trên bản vẽ có diện tích 80,6m
2
.
4. Về chi phí xem xét thẩm định tại chỗ, đo đạc và định giá tài sản: Tổng
cộng số tiền là 14.813.966 đồng (mười bốn triệu tám trăm mười ba nghìn chín
trăm sáu mươi sáu đồng), ông Nguyễn Minh T phải chịu số tiền 4.937.988 đồng
(bốn triệu chín trăm ba mươi bảy nghìn chín trăm tám mươi tám đồng), được trừ
vào số tiền tạm ứng đã nộp, ông Nguyễn Minh M và bà Nguyễn Thị Thanh T3
mỗi người phải nộp số tiền 4.937.988 đồng (bốn triệu chín trăm ba mươi bảy
nghìn chín trăm tám mươi tám đồng) để hoàn trả cho ông Nguyễn Minh T đã
nộp tạm ứng tại Tòa án.
5. Về án phí dân sự sơ thẩm:
- Ông Nguyễn Minh T và bà Nguyễn Thị Thanh T3 được miễn án phí.
- Ông Nguyễn Minh M phải chịu số tiền 112.240.335 đồng (một trăm
mười hai triệu hai trăm bốn mươi nghìn ba trăm ba mươi lăm đồng).
19
6. Trường hợp bản án được thi hành theo quy định tại Điều 2 của Luật Thi
hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự
có quyền thỏa thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành
án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các Điều 6, 7 và 9 của Luật
Thi hành án dân sự; thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều
30 của Luật Thi hành án dân sự.
7. Các đương sự có mặt được quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15
ngày, kể từ ngày tuyên án. Đương sự vắng mặt được quyền kháng cáo bản án
này trong hạn 15 ngày, kể từ ngày nhận được bản án hoặc bản án được niêm yết
công khai.
Đối với đương sự cư trú ở nước ngoài không có mặt tại phiên tòa thì thời
hạn kháng cáo bản án, quyết định của Tòa án là 01 tháng, kể từ ngày bản án,
quyết định được tống đạt hợp lệ hoặc kể từ ngày bản án, quyết định được niêm
yết hợp lệ theo quy định của pháp luật.
Nơi nhận:
- VKSND tỉnh Bình Dương;
- Cục THADS tỉnh Bình Dương;
- Các đương sự;
- Lưu: Hồ sơ, HCTP, Tòa Dân sự.
TM. HỘI ĐỒNG XÉT XỬ SƠ THẨM
T THẨM PHÁN – CHỦ TỌA PHIÊN TÒA
Huỳnh Thị Thanh Tuyền
Tải về
Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để tải file. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!
Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để tải file. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!
Bản án/ Quyết định cùng đối tượng
1
Ban hành: 12/02/2025
Cấp xét xử: Sơ thẩm
2
Ban hành: 23/01/2025
Cấp xét xử: Sơ thẩm
3
Ban hành: 22/01/2025
Cấp xét xử: Sơ thẩm
4
Bản án số 35/2025/DS-PT ngày 20/01/2025 của TAND cấp cao tại Hà Nội về tranh chấp về thừa kế tài sản
Ban hành: 20/01/2025
Cấp xét xử: Sơ thẩm
5
Ban hành: 20/01/2025
Cấp xét xử: Sơ thẩm
6
Ban hành: 17/01/2025
Cấp xét xử: Sơ thẩm
7
Ban hành: 16/01/2025
Cấp xét xử: Sơ thẩm
8
Ban hành: 16/01/2025
Cấp xét xử: Sơ thẩm
9
Ban hành: 14/01/2025
Cấp xét xử: Sơ thẩm
10
Ban hành: 10/01/2025
Cấp xét xử: Sơ thẩm
11
Ban hành: 10/01/2025
Cấp xét xử: Sơ thẩm
12
Ban hành: 09/01/2025
Cấp xét xử: Sơ thẩm
13
Bản án số 17/2025/DS-PT ngày 09/01/2025 của TAND cấp cao tại TP.HCM về tranh chấp về thừa kế tài sản
Ban hành: 09/01/2025
Cấp xét xử: Sơ thẩm
14
Ban hành: 07/01/2025
Cấp xét xử: Sơ thẩm
15
Ban hành: 06/01/2025
Cấp xét xử: Sơ thẩm
16
Bản án số 01/2025/DS-PT ngày 02/01/2025 của TAND cấp cao tại Hà Nội về tranh chấp về thừa kế tài sản
Ban hành: 02/01/2025
Cấp xét xử: Sơ thẩm
17
Ban hành: 31/12/2024
Cấp xét xử: Sơ thẩm
18
Ban hành: 31/12/2024
Cấp xét xử: Sơ thẩm
19
Ban hành: 31/12/2024
Cấp xét xử: Sơ thẩm