Bản án số 164/2024/DS-ST ngày 20/09/2024 của TAND TX. Bến Cát, tỉnh Bình Dương về tranh chấp hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất

  • Thuộc tính
  • Nội dung
  • VB gốc
  • VB liên quan
  • Lược đồ
  • Đính chính
  • Án lệ
  • BA/QĐ cùng nội dung
  • Tải về
Tải văn bản
Báo lỗi
  • Gửi liên kết tới Email
  • Chia sẻ:
  • Chế độ xem: Sáng | Tối
  • Thay đổi cỡ chữ:
    17

Thuộc tính Bản án 164/2024/DS-ST

Tên Bản án: Bản án số 164/2024/DS-ST ngày 20/09/2024 của TAND TX. Bến Cát, tỉnh Bình Dương về tranh chấp hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất
Quan hệ pháp luật: Tranh chấp hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất
Cấp xét xử: Sơ thẩm
Tòa án xét xử: TAND TX. Bến Cát (TAND tỉnh Bình Dương)
Số hiệu: 164/2024/DS-ST
Loại văn bản: Bản án
Ngày ban hành: 20/09/2024
Lĩnh vực: Dân sự
Áp dụng án lệ:
Đã biết

Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để xem áp dụng án lệ. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!

Đính chính:
Đã biết

Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để xem đính chính. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!

Thông tin về vụ/việc: Tranh chấp Hợp đồng vay tài sản; Hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất, Hợp đồng ủy quyền sử dụng đất; hợp đồng thế chấp tài sản; Hợp đồng tín dụng; yêu cầu hủy chỉnh lý biến động trên trang 4 Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất
Tóm tắt Bản án

Nội dung tóm tắt đang được cập nhật, Quý khách vui lòng quay lại sau!

Tải văn bản

TÒA ÁN NHÂN DÂN
THÀNH PHỐ BẾN CÁT
TỈNH BÌNH DƯƠNG
Bản án số: 164/2024/DS-ST
Ngày: 20-9-2024
V/v: Tranh chấp Hợp đồng vay
tài sản; Hợp đồng chuyển nhượng
quyền sử dụng đất, Hợp đồng ủy
quyền sử dụng đất; hợp đồng thế
chấp tài sản; Hợp đồng tín dụng; yêu
cầu hủy chỉnh lý biến động trên trang
4 Giấy chứng nhận quyền sử dụng
đất.
CỘNG HÒA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM
Độc lập - Tự do - Hạnh phúc
TÒA ÁN NHÂN DÂN
THỊ XÃ BẾN CÁT
TỈNH BÌNH DƯƠNG
Bản án số: 07/2022/DS-ST
Ngày: 19-01-2022
V/v tranh chấp về thừa kế tài sản;
hợp đồng tặng cho quyền sử dụng đất.
CỘNG HÒA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM
Độc lập - Tự do - Hạnh phúc
NHÂN DANH
NƯỚC CỘNG HÒA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM
TÒA ÁN NHÂN DÂN THÀNH PHỐ BẾN CÁT, TỈNH BÌNH DƯƠNG
- Thành phần Hội đồng xét xử sơ thẩm gồm có:
Thẩm phán - Chủ tọa phiên tòa: Bà Lê Cẩm Hằng.
Các Hội thẩm nhân dân:
Ông Lương Thanh Nhàn;
Bà Nguyễn Kim Lý.
- Thư phiên tòa: Thị Hiền Thư Tòa án nhân dân thành phố
Bến Cát, tỉnh Bình Dương.
- Đại diện Viện Kiểm sát nhân dân thành phố Bến t, tỉnh Bình
Dương tham gia phiên tòa: Ông Nguyễn Văn Trung – Kiểm sát viên.
Ngày 20 tháng 9 năm 2024, tại trụ sở Toà án nhân dân thành phố Bến Cát,
tỉnh Bình Dương xét xử thẩm ng khai vụ án dân sự thụ số:
287/2024/TLST- DS ngày 22 tháng 5 năm 2024 về: “Tranh chấp Hợp đồng vay
tài sản; Hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất, Hợp đồng ủy quyền sử
dụng đất; hợp đồng thế chấp tài sản; tranh chấp Hợp đồng tín dụng; yêu cầu hủy
chỉnh lý biến động trên trang 4 Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất” theo Quyết
định đưa vụ án ra xét xử số: 13/2024/QĐXXST-DS ngày 09 tháng 8 năm 2024
Quyết định hoãn phiên tòa số 14/QĐST-DS ngày 30 tháng 8 năm 2024, giữa
các đương sự:
2
- Nguyên đơn: Ông Nguyễn Văn T, sinh năm 1970; địa chỉ: Số nhà C, tổ
A, khu phố A, phường A, thành phố B, tỉnh Bình Dương; có mặt.
- Bị đơn: Ông Phạm Thanh T1, sinh năm 1985; địa chỉ nơi đăng hộ
khẩu thường trú: Số A, tổ H, đường P, phường L, thành phố B, tỉnh Lâm Đồng;
địa chỉ nơi đăng tạm trú: Số D, đường T, phường H, quận A, Thành phố Hồ
Chí Minh; có mặt.
- Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan:
1. Ông Trịnh Trung T2, sinh năm 1984; địa chỉ: Số B, Chung cư B, đường
D, phường B, quận B, Thành phHồ Chí Minh; vắng mặt, đơn đề nghị vắng
mặt.
2. Ông Minh H, sinh năm 1980; địa chỉ: Số A, Y, Chung N,
phường B, Quận A, Thành phố Hồ Chí Minh; vắng mặt.
3. Ông Tạ Hồng N, sinh năm 1982; địa chỉ: Số E, đường N, phường D,
quận P, Thành phố Hồ Chí Minh ã chết vào ngày 16/01/2024).
Người kế thừa quyền, nghĩa vụ của ông Tạ Hồng N:
- Đinh Thị D, sinh năm 1958; thường trú tại: Thôn A, L, huyện B,
tỉnh Lâm Đồng, là mẹ của ông Tạ Hồng N; vắng mặt.
- Nguyễn Thị N1, sinh năm 1987; thường trú tại: Số nhà A, đường H,
tổ dân phố E, khu phố D, phường I, quận P, Thành phố Hồ Chí Minh, vợ của
ông Tạ Hồng N; vắng mặt.
- Cháu Tạ Hồng A, sinh ngày 13/01/2013; thường trú tại: Số nhà A,
đường H, tdân phố E, khu phD, phường I, quận P, Thành phHồ Chí Minh,
con của ông Tạ Hồng N - Do Nguyễn Thị N1 mẹ của cháu Tạ Hồng A
đại diện theo pháp luật; vắng mặt.
4. Ngân hàng N4; địa chỉ: Số B, đường L, quận B, Hà Nội.
Người đại diện hợp pháp của Ngân hàng N4: Ông Thiện T3, sinh m
1977 Giám đốc Ngân hàng N4 Chi nhánh N5; địa chỉ liên hệ: Số B, đường
H, phường E, quận F, Thành phố Hồ Chí Minh, người đại diện theo ủy quyền
(Quyết định ủy quyền số 2665/QĐ-NHNo-PC ngày 01/12/2022); có mặt.
5. Nguyễn Kiều K, sinh năm 1990; địa chỉ: Số B, Chung B, đường
D, phường B, quận B, Thành phHồ Chí Minh; vắng mặt, đơn đề nghị vắng
mặt.
6. Công ty Trách nhiệm hữu hạn D1; địa chỉ trụ sở: Số B, đường T,
phường B, quận T, thành phố Hồ Chí Minh.
Người đại diện hợp pháp của Công ty Trách nhiệm hữu hạn D1: Ông
Phạm Thanh T1, sinh năm 1985; địa chỉ nơi đăng hộ khẩu thường trú: Số A,
tổ H, đường P, phường L, thành phố B, tỉnh Lâm Đồng; địa chỉ nơi đăng tạm
3
trú: Số D, đường T, phường H, quận A, Thành phố Hồ Chí Minh, người đại
diện theo pháp luật; có mặt.
7. Công ty Trách nhiệm hữu hạn Một thành viên S; địa chỉ trụ sở: Thửa
đất số 753-143, tờ bản đồ số 49, khu phố A, phường A, thành phố B, tỉnh Bình
Dương.
Người đại diện hợp pháp của Công ty Trách nhiệm hữu hạn Một thành
viên S: Ông Nguyễn Văn T, sinh năm 1970; địa chỉ: Số nhà C, tổ A, khu phA,
phường A, thành phố B, tỉnh nh Dương, người đại diện theo pháp luật;
mặt.
8. Công ty Trách nhiệm hữu hạn H4; địa chỉ trụ sở: Thửa đất số 1, tờ bản
đồ số 15, ấp B, xã P, thành phố B, tỉnh Bình Dương.
Người đại diện hợp pháp của Công ty Trách nhiệm hữu hạn H4: Châu
Thị G, sinh năm 1988; địa chỉ nơi đăng hộ khẩu thường trú: Ấp F, V,
thành phố V, tỉnh Hậu Giang; tạm trú: 453/51/90, đường L, khu H, phường P,
thành phố T, tỉnh Bình Dương, người đại diện theo pháp luật; vắng mặt,
đơn đề nghị vắng mặt.
9. Văn phòng C; địa chỉ trụ sở: Số A, Đại lộ B, khu phố D, phường H,
thành phố T, tỉnh Bình Dương.
Người đại diện hợp pháp của Văn phòng C: Ông Bùi Thái G1 Trưởng
văn phòng, là người đại diện theo pháp luật; vắng mặt, có đơn đề nghị vắng mặt.
10. Văn phòng C1; địa chỉ trụ sở: Số A, đường Đ, khu B, phường B, thành
phố T, tỉnh Bình Dương.
Người đại diện hợp pháp của Văn phòng C1: Trần Thị Thanh M
Trưởng văn phòng, người đại diện theo pháp luật; vắng mặt, đơn đề nghị
vắng mặt.
11. Phạm Thị Q, sinh năm 1997; địa chỉ: Số nhà C, tổ A, khu phố A,
phường A, thành phố B, tỉnh Bình Dương; vắng mặt, có đơn đề nghị vắng mặt.
12. Ông Nguyễn Trần Nhật H1, sinh năm 1999; địa chỉ: Số nhà C, tổ A,
khu phố A, phường A, thành phố B, tỉnh Bình Dương; vắng mặt, đơn đề nghị
vắng mặt.
13. Bà Tống Thị Thùy L, sinh năm 1987; địa chỉ: Số nhà C, tổ A, khu phố
A, phường A, thành phố B, tỉnh Bình Dương; vắng mặt, đơn đề nghị vắng
mặt.
14. Dương Thị Kim H2, sinh năm 1989; địa chỉ: Số nhà C, tổ A, khu
phố A, phường A, thành phB, tỉnh Bình Dương; vắng mặt, đơn đề nghị
vắng mặt.
4
15. Ông Nguyễn Minh N2, sinh năm 1992; địa chỉ: Số nhà C, tổ A, khu
phố A, phường A, thành phB, tỉnh Bình Dương; vắng mặt, đơn đề nghị
vắng mặt.
16. Cháu Nguyễn Thành Đ, sinh năm 2012; địa chỉ: Số nhà C, tổ A, khu
phố A, phường A, thành phố B, tỉnh Bình Dương.
Người đại diện theo pháp luật của cháu Nguyễn Thành Đ:
Ông Nguyễn Văn T, sinh năm 1970; địa chỉ: Số nhà C, tổ A, khu phố A,
phường A, thành phố B, tỉnh Bình Dương, cha của em Nguyễn Thành Đ;
mặt.
ơng Thị Kim H2, sinh năm 1989; địa chỉ: Số nhà C, tổ A, khu
phố A, phường A, thành phố B, tỉnh Bình Dương, mẹ của em Nguyễn Thành
Đ; vắng mặt, có đơn đề nghị vắng mặt.
17. Ông Phạm Thanh T1, sinh năm 1985; địa chỉ nơi đăng hộ khẩu
thường trú: Số A, tổ H, đường P, phường L, thành phố B, tỉnh Lâm Đồng; địa
chỉ nơi đăng tạm trú: Số D, đường T, phường H, quận A, Thành phHồ Chí
Minh; có mặt.
NỘI DUNG VỤ ÁN:
Theo Đơn khởi kiện đề ngày 28 tháng 7 năm 2022 lời khai trong quá
trình tố tụng, nguyên đơn ông Nguyễn Văn T trình bày:
Giữa ông ông Trịnh Trung T2, ông Minh H quen biết nhau.
Khoảng đầu năm 2018, do khó khăn về tài chính, ông vay của ông T2, ông H
số tiền 7.000.000.000 đồng (trong đó ông H, ông T2 mỗi người bao nhiêu ông
không biết), lãi suất 5%/tháng, khi vay không lập giấy tờ. Để đảm bảo khoản
vay, ông T2, ông H yêu cầu ông lập Hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng
đất sử dụng đất thuộc quyền sử dụng của ông cho ông T2, ông H, ông đồng ý.
Theo đó:
- Ông đã lập Hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất cho ông
Minh H đối với quyền sử dụng đất thuộc thửa số 753, tờ bản đồ số 49, Giấy
chứng nhận quyền sử dụng đất quyền sở hữu nhà tài sản khác gắn với đất số
BX194693, số vào sổ cấp Giấy chứng nhận CH04039, do Ủy ban nhân dân
huyện (nay thành phố ), tỉnh Bình Dương cấp ngày 17/11/2014 quyền sử
dụng đất thuộc thửa số 143, tờ bản đồ số 49, Giấy chứng nhận quyền sử dụng
đất quyền sở hữu nhà tài sản khác gắn với đất số BP128564, số vào sổ cấp
Giấy chứng nhận CH03572, do Ủy ban nhân dân huyện (nay thành phố) B,
tỉnh Bình Dương cấp ngày 13/02/2014. Việc chuyển nhượng đã được cập nhật,
điều chỉnh trang tư sang tên cho ông H vào ngày 24/7/2018.
5
- Ông hợp đồng ủy quyền cho ông Minh H để ông H lập Hợp đồng
chuyển nhượng quyền sử dụng đất cho ông Trịnh Trung T2 đã được cập nhật,
điều chỉnh trang tư sang tên cho ông T2.
Việc lập Hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất nêu trên cho ông H,
ông T2 nhằm mục đích để đảm bảo khoản nợ 7.000.000.000 đồng của ông H,
ông T2 cho ông T vay. Việc vay tiền này, giữa các bên không lập giấy tờ xác
nhận.
Sau 6 tháng kể từ khi vay, giữa ông với ông T2, ông H tính tiền lãi bằng
lời nói, không lập văn bản, tổng tiền lãi của số nợ 7.000.000.000 đồng là
2.600.000.000 đồng. Ông tổng nợ với ông H 9.600.000.000 đồng, ông H
trách nhiệm trả tiền cho ông T2, ông T2 sang tên lại thửa đất số 380 cho ông H,
việc thỏa thuận này không lập giấy tờ. Như vậy, tổng số tiền ông nợ ông H
9.600.000.000 đồng, gồm 7.000.000.000 đồng tiền gốc, 2.600.000.000 đồng tiền
lãi; ông T2 đã lập Hợp đồng chuyển nhượng thửa đất số 380 cho ông H, đã được
cập nhật, điều chỉnh trang tư sang tên cho ông H vào ngày 27/7/2018.
Ngày 29/9/2018, ông tiếp tục vay của ông Tạ Hồng N số tiền
12.000.000.000 đồng để trả cho ông H, giấy vay nợ tiền (không đề ngày),
hiện ông chỉ giữ giấy photo, bản chính ông N giữ. Trong ngày 29/9/2018, ông
dùng số tiền 12.000.000.000 đồng để trả cho ông H số tiền 9.600.000.000 đồng.
Tại thời điểm này, ông N yêu cầu ông phải sang tên 03 thửa đất hiện ông H
đứng tên cho ông N, nhằm để đảm bảo khoản vay 12.000.000.000 đồng nêu trên,
ông ông H đồng ý, theo đó ông H lập cho ông B thỏa thuận đề ngày
29/9/2018 với nội dung ông trả đủ cho ông H 9.600.000.000 đồng, ông H ủy
quyền lại 03 thửa đất số 143, 753, 380, cùng tờ bản đồ số 49 cho ông N. Việc
thỏa thuận ký ủy quyền để đảm bảo khoản vay của ông N không có lập giấy tờ.
Sau khi ông H ủy quyền cho ông N (thông tin này ông chỉ được biết
ủy quyền Văn phòng C1, còn văn bản ủy quyền hay không thì ông
không được tiếp cận nên không biết), ông phát hiện ông N chuyển nhượng 03
thửa đất trên cho ông Phạm Thanh T1, ông T1 thế chấp vay ngân hàng, lúc này
ông không đồng ý, thực tế ông không chuyển nhượng quyền sử dụng đất, chỉ
vay tiền lập Hợp đồng chuyển nhượng để đảm bảo khoản vay. Do đó, giữa
ông với ông N, ông T1 lập Biên bản thỏa thuận ngày 22/10/2018, với nội dung
ông xác định có vay của ông T1 là 14.000.000.000 đồng (trong đó chỉ có
12.000.000.000 đồng tiền vay gốc, còn lại tiền lãi ông N yêu cầu lên thành
14.000.000.000 đồng), đồng thời các bên thống nhất đến ngày 22/10/2020 thì
ông đưa cho ông T1 20.000.000.000 đồng để ông T1 sang tên 03 thửa đất lại cho
6
ông, đến ngày 22/10/2010 nếu ông không giao tiền thì sẽ không còn giá
20.000.000.000 đồng nữa.
Ngoài ra, trước thời điểm lập Biên bản nêu trên thì 03 thửa đất đã sang tên
cho ông T1, ông T1 vay tiền của Ngân hàng N4 Chi nhánh N5 thế chấp 03
thửa đất nêu trên cho Ngân hàng này; thời điểm này ông xác nhận Văn
bản thỏa thuận, số chứng thực 65, quyển số 01/2018-SCT/CK, ngày
22/10/2018 tại Văn phòng C2 Mới, thể hiện nội dung ông chuyển nhượng 03
thửa đất nêu trên cùng với tài sản gắn liền với đất cho ông T1, thực tế văn bản
này ông N đưa cho ông ký để cho ông T1 hợp thức thế chấp tại ngân hàng.
Mặt khác, trong quá trình vay tiền, ông trả nhiều lần tiền lãi cho ông
N, chứng từ, cụ thể: Biên nhận ngày 11/4/2019 trả lãi 800.000.000 đồng;
Giấy nộp tiền ngày 01/11/2019 trả lãi 100.000.000 đồng; Giấy nộp tiền ngày
02/10/2019 trả lãi 200.000.000 đồng; Giấy nộp tiền ngày 30/7/2019 trả lãi
200.000.000 đồng; Ủy nhiệm chi ngày 11/7/2019 trả lãi 100.000.000 đồng
400.000.000 đồng ông chuyển trả lãi qua ứng dụng trên điện thoại. Tất cả các
khoản tiền lãi này ông trả cho khoản vay 14.000.000.000 đồng theo Biên bản
thỏa thuận ngày 22/10/2018 trả cho ông N, do ông N và ông T1 tự thỏa thuận
với nhau và yêu cầu ông chuyển tiền lãi cho ông N.
Về tài sản hiện ông T1 đang thế chấp Ngân hàng N4 Chi nhánh N5 gồm
thửa đất 143, 573, 380, ông, không liên quan đến ai. Hiện các thửa đất này ông
đang trực tiếp quản từ khi nhận chuyển nhượng năm 2014 cho đến nay, ông
đã xây nhà xưởng, nhà công nhân, thành lập ng ty Trách nhiệm hữu hạn
Một thành viên S do ông là người đại diện theo pháp luật. Trên thửa đất gia đình
ông con ông cùng sinh sống trên đất; khi ông T1 thế chấp tài sản tại ngân
hàng, ngân hàng hoàn toàn không đến xem xét, thẩm định tài sản theo quy định.
Nay do Đơn khởi kiện ông yêu cầu chưa đầy đủ do đo đạc diện tích
tăng thêm so với Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, nên ông xác định bổ
sung yêu cầu khởi kiện cụ thể như sau:
- Đối với quyền sử dụng đất thuộc thửa số 380, tờ bản đồ số 49, Giấy
chứng nhận quyền sử dụng đất quyền sở hữu nhà tài sản khác gắn với đất số
BP128566, số vào sổ cấp Giấy chứng nhận CH03574, do Ủy ban nhân dân
huyện (nay thành phố) B, tỉnh Bình Dương cấp ngày 13/02/2014: Tuyên
hiệu các Hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất số công chứng 012351,
quyển số 06TP/CC-SCC/HĐGD công chứng ngày 29/6/2018 ký kết giữa ông
Minh H (ông Nguyễn Văn T ủy quyền cho ông Minh H tham gia kết hợp
đồng) với ông Trịnh Trung T2; tuyên hiệu Hợp đồng chuyển nhượng quyền
sử dụng đất số công chứng 013418, quyển số 08TP/CC-SCC/HĐGD công
7
chứng ngày 01/8/2018 kết giữa ông Trịnh Trung T2, Nguyễn Kiều K với
ông Minh H, Hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất số công chứng
11058, quyển số 09TP/CC-SCC/HĐGD công chứng ngày 28/9/2018 kết giữa
ông ông Lê Minh H với ông Phạm Thanh T1, Hợp đồng thế chấp quyền sử dụng
đất của bên thứ ba số 6221LCL201800184 ngày 16/10/2018, kết giữa ông
Phạm Thanh T1 với Ngân hàng N4- Chi nhánh N5. Tuyên hủy chỉnh biến
động trên Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất theo các hồ sơ số 003574.CN.003
ngày 27/7/2018, số 003574.CN.004 ngày 09/8/2018, số 003574.CN.005 ngày
11/10/2018;
- Đối với quyền sử dụng đất thuộc thửa số 143, tờ bản đồ số 49, Giấy
chứng nhận quyền sử dụng đất quyền sở hữu nhà tài sản khác gắn với đất số
BP128564, số vào sổ cấp Giấy chứng nhận CH03572, do Ủy ban nhân dân
huyện (nay thành phố) B, tỉnh Bình Dương cấp ngày 13/02/2014: Tuyên
hiệu các Hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất số công chứng 010511,
quyển số 05TP/CC-SCC/HĐGD công chứng ngày 22/5/2018 kết giữa ông
Nguyễn Văn T với ông Minh H, Hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng
đất số công chứng 11057, quyển số 09TP/CC-SCC/HĐGD công chứng ngày
28/9/2018 kết giữa ông ông Minh H với ông Phạm Thanh T1, Hợp đồng
thế chấp quyền sử dụng đất của bên thứ ba số 6221LCL201800186 ngày
16/10/2018, ký kết giữa ông Phạm Thanh T1 với Ngân hàng N4 - Chi nhánh N5.
Tuyên hủy đăng biến động trên Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất theo các
hồ sơ số 003572.CN.004 ngày 24/7/2018, số 003572.CN.005 ngày 11/10/2018;
- Đối với quyền sử dụng đất thuộc thửa số 753, tờ bản đồ số 49, Giấy
chứng nhận quyền sử dụng đất quyền sở hữu nhà tài sản khác gắn với đất số
BX194693, số vào sổ cấp Giấy chứng nhận CH04039, do Ủy ban nhân dân
huyện (nay thành phố) B, tỉnh Bình Dương cấp ngày 17/11/2014: Tuyên
hiệu các Hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất số công chứng 010500,
quyển số 05TP/CC-SCC/HĐGD công chứng ngày 22/5/2018 kết giữa ông
Nguyễn Văn T với ông Minh H, Hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng
đất số công chứng 11059, quyển số 09TP/CC-SCC/HĐGD công chứng ngày
28/9/2018 kết giữa ông ông Minh H với ông Phạm Thanh T1, Hợp đồng
thế chấp quyền sử dụng đất của bên thứ ba số 6221LCL201800187 ngày
16/10/2018, kết giữa ông Phạm Thanh T1 với Ngân hàng N4- Chi nhánh N5.
Tuyên hủy đăng biến động trên Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất theo các
8
hồ số 004039.CN.004 ngày 24/7/2018, số 003572.CN.004 ngày 24/7/2018;
tuyên hủy đăng biến động trên Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, hồ số
004039.CN.005 ngày 11/10/2018;
- Tuyên hiệu các Hợp đồng ủy quyền sử dụng đất giữa ông Minh H
với ông Tạ Hồng N; Hợp đồng chuyển nhượng quyền sdụng đất giữa ông Tạ
Hồng N với ông Phạm Thanh T1; tuyên hủy đăng biến động trên Giấy chứng
nhận quyền sử dụng đất sang tên cho ông Tạ Hồng N.
- Ông Nguyễn Văn T đồng ý trả tiền vay cho ông Phạm Thanh T1 số tiền
14.000.000.000 (mười bốn tỷ) đồng.
- Công nhận cho ông Nguyễn Văn T được quyền sử dụng đối với các thửa
đất 143, 573, 380, tờ bản đồ số 49 theo diện tích đo đạc thực tế được thể hiện tại
Mảnh trích lục đo đạc chỉnh số 44-2023 ngày 13/7/2023, cụ thể: Diện tích
là 2571,6 m
2
đối với thửa đất số 143, diện tích 2144,9 m
2
đối với thửa đất số 380
diện tích 5007,1 m
2
đối với thửa đất số 380. Đất tọa lạc tại tổ A, khu phố A,
phường A, thành phố B, tỉnh Bình Dương.
Đối với Biên bản xem xét, thẩm định tại chỗ của Tòa án; Chứng thư thẩm
định giá số 138BĐS/2023/CT.ĐA ngày 20/9/2023 của Công ty Cổ phần T7;
Mảnh trich lục đo đạc chỉnh số 44-2023 ngày 13/7/2023 của Chi nhánh
Văn phòng Đ1 (nay thành phố ), tỉnh Bình Dương, ông không yêu cầu xem
xét, thẩm định tại chỗ, định giá và đo đạc lại tài sản.
Đối với yêu cầu độc lập của Ngân hàng N4, ông không đồng ý, đây
tài sản hợp pháp của ông, ông chỉ giao tài sản để đảm bảo khoản vay, hoàn toàn
không chuyển nhượng quyền sử dụng đất.
Trong quá trình tố tụng, bị đơn ông Phạm Thanh T1 trình bày:
Khoảng năm 2018, ông T vay tiền của ông H, số tiền bao nhiêu ông không
rõ. Để tiền thanh toán cho ông H, thông qua người khác giới thiệu (ông
không thông tin người giới thiệu), giới thiệu ông N cho ông T vay tiền. Theo
đó, ông N đã huy động vốn của người khác được 14.000.000.000 đồng, trong số
tiền 14.000.000.000 đồng này thì không có khoản tiền nào của cá nhân ông. Ông
N đã cho ông T vay để trả cho ông H, ông N người trực tiếp đưa tiền cho ông
T, còn ông người đứng tên dùm cho ông N để cho ông T vay (việc nhđứng
tên dùm giữa ông với ông N chỉ bằng lời nói, không lập giấy tờ), được thể hiện
tại Biên bản thỏa thuận đề ngày 22/10/2018. Khi cho vay tiền, ông N yêu cầu
9
ông H lập hợp đồng sang nhượng lại 03 thửa đất số 380, 143, 753 cho ông đứng
tên dùm để đảm bảo khoản vay 14.000.000.000 đồng, ông đồng ý, theo đó:
Giữa ông ông Minh H đã kết Hợp đồng chuyển nhượng quyền
sử dụng đất số công chứng 11059, quyển số 09TP/CC-SCC/HĐGD công chứng
ngày 28/9/2018; Hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất số công chứng
11057, quyển số 09TP/CC-SCC/HĐGD công chứng ngày 28/9/2018; Hợp đồng
chuyển nhượng quyền sử dụng đất số công chứng 11058, quyển số 09TP/CC-
SCC/HĐGD công chứng ngày 28/9/2018. Việc chuyển nhượng đã được đăng
chỉnh biến động sang tên của ông giao dịch này nhân ông thực hiện,
không liên quan đến ai khác.
Khi ông N cho vay, giữa hai bên thỏa thuận lãi suất 2%/tháng, tiền lãi
này tương ứng với tiền ông T thuê lại đất nhà xưởng trên đất. Bản chất của
Biên bản thỏa thuận đề ngày 22/10/2018, thực chất ông T đồng ý bán 03 thửa
đất tài sản gắn liền với quyền sử dụng đất trên cho ông N với giá
20.000.000.000 đồng (giá này đúng với giá trị đất tài sản trên đất). Ông N đã
đưa trước 14.000.000.000 đồng cho ông T, còn thiếu lại 6.000.000.000 đồng,
nhưng cho ông T thời gian 02 năm để lấy lại đất, nếu không lấy lại đất theo thời
gian thỏa thuận trong Biên bản thỏa thuận đề ngày 22/10/2018, thì ông N sẽ trả
thêm 6.000.000.000 đồng để bàn giao đất, tài sản trên đất của ông T. Trên thực
tế cả 03 thửa đất từ trước đến hiện nay đều do ông T quản , sử dụng, chưa bàn
giao gì cho ông.
do chưa đến thời hạn thỏa thuận với ông T (để cho ông T lấy lại 03
thửa đất vào ngày 22/10/2020) ông đã thế chấp cho ngân hàng: Do sự thỏa
thuận thống nhất giữa ông T ông N, ông N yêu cầu ông làm thì ông làm
như vậy, ông chỉ thay ông N đứng tên hộ 03 thửa đất việc thỏa thuận vay
tiền, dùng tài sản đảm bảo cũng thỏa thuận giữa ông T với ông N, ông không
thỏa thuận gì. Đồng thời, khi tiến hành thủ tục yêu cầu N3 giải ngân khoản
vay thì ông N đều làm hết thủ tục, ông chỉ với cách đại diện hợp pháp của
Công ty Trách nhiệm hữu hạn D1, ông hoàn toàn không xem xét nội dung
Công ty Trách nhiệm hữu hạn D1 cũng không dùng khoản tiền vay nêu trên,
do ông N dùng.
Về các khoản tiền lãi ông T thanh toán, là tiền ông T trả cho ông N, không
liên quan gì đến ông.
10
Nay ông không đồng ý đối với toàn bộ yêu cầu khởi kiện của ông T. Đồng
thời đối với việc ông T yêu cầu trả lại cho ông 14.000.000.000 đồng, ông cũng
không đồng ý, số tiền này là ông T giao dịch với ông N, ông không giao dịch,
ông chỉ ký tên trong Biên bản thỏa thuận do ông N nhờ ông.
Đối với Biên bản xem xét, thẩm định tại chỗ của Tòa án; Chứng thư thẩm
định giá số 138BĐS/2023/CT.ĐA ngày 20/9/2023 của Công ty Cổ phần T7;
Mảnh trich lục đo đạc chỉnh số 44-2023 ngày 13/7/2023 của Chi nhánh
Văn phòng Đ1 (nay thành phố ), tỉnh Bình Dương, ông không yêu cầu xem
xét, thẩm định tại chỗ, định giá và đo đạc lại tài sản.
Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan là Ngân hàng N4 do ông Vũ Thiện
T3 đại diện theo ủy quyền trình bày:
Ngày 16/10/2018, giữa Ngân hàng N4 Chi nhánh N5 với Công ty Trách
nhiệm hữu hạn D1 kết Hợp đồng tín dụng số 6221LAV201800197, với nội
dung thỏa thuận như sau:
Ngân hàng N4 Chi nhánh N5 cho Công ty Trách nhiệm hữu hạn D1 vay
số tiền 23.000.000.000 đồng, mục đích vay để bổ sung vốn lưu động, thời hạn
cho vay 12 tháng kể từ ngày hợp đồng, hình thức trả nợ gốc theo từng lần
nhận nợ tương ứng, trả nợ lãi vào ngày 25 hàng tháng, lãi suất tiền vay theo mức
lãi tại thời điểm kết hợp đồng tín dụng 8%/năm; lãi suất quá hạn bằng
150% lãi suất trong hạn. Tài sản bảo đảm cho khoản vay gồm có: Quyền sử
dụng đất thuộc thửa đất số 143, tờ bản đồ số 49, Giấy chứng nhận quyền sử
dụng đất quyền sở hữu nhà tài sản khác gắn liền với đất số BP128564, số
vào sổ cấp giấy chứng nhận CH03572 do Ủy ban nhân dân huyện (nay thành
phố ), tỉnh Bình Dương cấp ngày 13/02/2014; cập nhật chỉnh sang tên ông
Phạm Thanh T1 theo hồ số 003572.CN.005 ngày 11/10/2018. Quyền sử dụng
đất thuộc thửa đất số 380, tờ bản đồ số 49, Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất
quyền sở hữu nhà tài sản khác gắn liền với đất số BP128566, số vào sổ cấp
giấy chứng nhận CH03574 do Ủy ban nhân dân huyện (nay thành phố ), tỉnh
Bình Dương cấp ngày 13/02/2014; cập nhật chỉnh sang tên ông Phạm Thanh
T1 theo hồ số 003574.CN.005 ngày 11/10/2018. Quyền sử dụng đất thuộc
thửa đất s753, tờ bản đồ số 49, Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất quyền sở
hữu nhà tài sản khác gắn liền với đất số BX194693, số vào sổ cấp giấy
chứng nhận CH04039 do Ủy ban nhân dân huyện (nay thành phố ), tỉnh Bình
Dương cấp ngày 17/11/2014; cập nhật chỉnh sang tên ông Phạm Thanh T1
11
theo hồ số 004039.CN.005 ngày 11/10/2018. Tài sản trên đất tài sản hình
thành trong tương lai gắn liền với các thửa đất số 380, 143, 753 như thể hiện tại
Biên bản xem xét, thẩm định tại chỗ ngày 23/12/2022 của Tòa án nhân dân thị
(nay thành phố ), tỉnh Bình Dương. Việc thế chấp tài sản đều được lập hợp
đồng, đăng giao dịch bảo đảm tại Chi nhánh Văn phòng Đ1 (nay thành
phố) Bến Cát đăng tại Trung tâm đăng giao dịch tài sản tại Thành phố
Hồ Chí Minh.
Quá trình thực hiện hợp đồng, từ ngày vay cho đến ngày 01/11/2019 Công
ty Trách nhiệm hữu hạn D1 đã trả lãi đúng theo thỏa thuận được 05 kỳ lãi với số
tiền 598.914.481 đồng; tiền gốc chưa thanh toán. Công ty Trách nhiệm hữu
hạn D1 vi phạm hợp đồng tín dụng không thanh toán nợ gốc, lãi theo đúng
phân kỳ từ ngày 13/11/2019 theo như thỏa thuận trong hợp đồng đã ký.
Khi thực hiện thủ tục cho vay, nhận tài sản thế chấp, Ngân hàng N4- Chi
nhánh N5 đã thực hiện theo đúng trình tự, thủ tục luật định. Đối với việc giao
dịch, thỏa thuận giữa ông T, ông N, ông H ông T1, Ngân hàng N4 Chi
nhánh N5 không biết và cũng không ai thông tin cho Ngân hàng N4 Chi nhánh
N5 biết.
Do đó, nay Ngân hàng N4 khởi kiện yêu cầu độc lập như sau:
Buộc Công ty Trách nhiệm hữu hạn D1 có nghĩa vụ trả cho Ngân hàng N4
số tiền nợ gốc là: 23.000.000.000 đồng; tiền lãi tính đến hết ngày 08/8/2024 là:
Lãi trong hạn là 106.104.110 đồng, tiền lãi quá hạn là 13.073.720.548 đồng.
Kể từ ngày 9/8/2024 cho đến khi thi hành án xong, Công ty Trách nhiệm
hữu hạn D1 phải tiếp tục chịu tiền lãi, lãi quá hạn phát sinh trên số tiền nợ gốc
thực nợ, được thỏa thuận tại Hợp đồng tín dụng số 6221LAV201800197 ngày
16/10/2018 cho đến khi Công ty Trách nhiệm hữu hạn D1 thanh toán hết nợ.
Trong trường hợp Công ty Trách nhiệm hữu hạn D1 thanh toán không đầy
đủ tiền gốc, lãi cho Ngân hàng N4 ngay sau khi Bn án/Quyết định hiu lc
pháp lut thì Ngân hàng N4 quyền yêu cầu tổ chức, quan thi hành án dân
sự thẩm quyền cưỡng chế, phát mãi toàn bộ các tài sản bảo đảm của ông
Phạm Thanh T1 để thu hồi nợ theo quy định pháp luật.
Trường hợp số tiền thu được từ tài sản bảo đảm không đủ trả nợ cho Ngân
hàng N4 thì, Ngân hàng N4 quyền yêu cầu quan thi hành án n sự xử
12
bất kỳ tài sản nào khác thuộc quyền sở hữu, sử dụng của Công ty Trách nhiệm
hữu hạn D1 INTERNATIONAL để thu hồi nợ theo quy định của pháp luật.
Đối với Biên bản xem xét, thẩm định tại chỗ của Tòa án; Chứng thư thẩm
định giá số 138BĐS/2023/CT.ĐA ngày 20/9/2023 của Công ty Cổ phần T7;
Mảnh trich lục đo đạc chỉnh số 44-2023 ngày 13/7/2023 của Chi nhánh
Văn phòng Đ1 (nay thành phố ), tỉnh Bình Dương, Ngân hàng N4 không yêu
cầu xem xét, thẩm định tại chỗ, định giá và đo đạc lại tài sản.
Người quyền lợi, nghĩa vụ liên quan Công ty Trách nhiệm hữu hạn D1
Do ông Phạm Thanh T1 là người đại diện theo pháp luật trình bày:
Ngày 16/10/2018, giữa Ngân hàng N4 Chi nhánh N5 với Công ty Trách
nhiệm hữu hạn D1 kết Hợp đồng tín dụng số 6221LAV201800197, với nội
dung thỏa thuận như sau:
Ngân hàng N4 Chi nhánh N5 cho Công ty Trách nhiệm hữu hạn D1 vay
số tiền 23.000.000.000 đồng, mục đích vay để bổ sung vốn lưu động, thời hạn
cho vay 12 tháng kể từ ngày hợp đồng, hình thức trả nợ gốc theo từng lần
nhận nợ tương ứng, trả nợ lãi vào ngày 25 hàng tháng, lãi suất tiền vay theo mức
lãi tại thời điểm kết hợp đồng tín dụng 8%/năm, lãi suất quá hạn bằng
150% lãi suất trong hạn. Tài sản bảo đảm khoản vay gồm có: Quyền sử dụng đất
thuộc các thửa đất số 143, số 380, số 753, tờ bản đồ số 49; tài sản hiện hữu
tài sản hình thành trong tương lai gắn liền với các thửa đất số 380, 143, 753 như
thể hiện tại Biên bản xem xét, thẩm định tại chỗ ngày 23/12/2022 của Tòa án
nhân dân thị (nay thành phố ), tỉnh Bình Dương. Việc thế chấp được lập
hợp đồng; đăng ký giao dịch bảo đảm tại Chi nhánh Văn phòng Đ1 (nay là thành
phố) B và Trung tâm đăng ký giao dịch tài sản tại Thành phố Hồ Chí Minh.
Quá trình thực hiện hợp đồng, từ ngày vay cho đến ngày 01/11/2019 Công
ty Trách nhiệm hữu hạn D1 đã trả lãi đúng theo thỏa thuận được 05 kỳ lãi với số
tiền 598.914.481 đồng; tiền gốc chưa thanh toán. Công ty Trách nhiệm hữu
hạn D1 vi phạm hợp đồng tín dụng không thanh toán nợ gốc, lãi theo đúng
phân kỳ từ ngày 13/11/2019 theo như thỏa thuận trong hợp đồng đã ký.
Khi thực hiện thủ tục cho vay, thế chấp tài sản tại Ngân hàng N4- Chi
nhánh N5 do ông N nhông với cách người đại diện hợp pháp của
Công ty Trách nhiệm hữu hạn D1 và nhờ cá nhân ông thực hiện; số tiền trên ông
N sử dụng (ông không tài liệu, chứng từ thể hiện lời trình bày này). Đối với
13
việc giao dịch, thỏa thuận giữa ông T, ông N, ông H ông T1, không ai thông
tin cho Ngân hàng N4 biết.
Do đó, nay Ngân hàng N4 khởi kiện yêu cầu độc lập yêu cầu, Công ty
Trách nhiệm hữu hạn D1 có ý kiến như sau:
Công ty Trách nhiệm hữu hạn D1 đồng ý thanh toán cho Ngân hàng N4 số
tiền nợ gốc là: 23.000.000.000 đồng; tiền lãi tính đến hết ngày 08/8/2024 gồm:
Lãi trong hạn là 106.104.110 đồng, tiền lãi quá hạn là 13.073.720.548 đồng.
Kể từ ngày 09/8/2024 cho đến khi thi hành án xong, Công ty Trách nhiệm
hữu hạn D1 đồng ý tiếp tục chịu tiền lãi, lãi quá hạn phát sinh trên số tiền nợ gốc
thực nợ, được thỏa thuận tại Hợp đồng tín dụng số 6221LAV201800197 ngày
16/10/2018 cho đến khi Công ty Trách nhiệm hữu hạn D1 thanh toán hết nợ.
Trong trường hợp Công ty Trách nhiệm hữu hạn D1 thanh toán không đầy
đủ tiền gốc, lãi cho Ngân hàng N4 ngay sau khi Bn án/Quyết định hiu lc
pháp lut thì Ngân hàng N4 quyền yêu cầu tổ chức, quan thi hành án dân
sự thẩm quyền cưỡng chế, phát mãi toàn bộ các tài sản bảo đảm của ông
Phạm Thanh T1 để thu hồi nợ theo quy định pháp luật.
Trường hợp số tiền thu được từ tài sản bảo đảm không đủ trả nợ cho Ngân
hàng N4 thì, Ngân hàng N4 quyền yêu cầu quan thi hành án n sự xử
bất kỳ tài sản nào khác thuộc quyền sở hữu, sử dụng của Công ty Trách nhiệm
hữu hạn D1 INTERNATIONAL để thu hồi nợ theo quy định của pháp luật.
Đối với Biên bản xem xét, thẩm định tại chỗ của Tòa án; Chứng thư thẩm
định giá số 138BĐS/2023/CT.ĐA ngày 20/9/2023 của Công ty Cổ phần T7;
Mảnh trich lục đo đạc chỉnh số 44-2023 ngày 13/7/2023 của Chi nhánh
Văn phòng Đ1 (nay thành phố ), tỉnh Bình Dương, Công ty Trách nhiệm hữu
hạn D1 không yêu cầu xem xét, thẩm định tại chỗ, định giá và đo đạc lại tài sản.
Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan Công ty Trách nhiệm hữu hạn Một
thành viên S, do ông Nguyễn Văn T, là người đại diện theo pháp luật trình bày:
Giữa Công ty Trách nhiệm hữu hạn H4 với Công ty Trách nhiệm hữu hạn
Một thành viên S có ký kết với nhau 02 Hợp đồng thuê nhà xưởng, cụ thể:
- Hợp đồng thuê nhà xưởng ngày 22/03/2021, Công ty Trách nhiệm hữu
hạn H4 thuê nhà xưởng công trình phụ trợ gắn liền quyền sử dụng đất thuộc
quyền của Công ty Trách nhiệm hữu hạn Một thành viên S, tại thửa đất số 143,
tờ bản đồ số 49, với diện tích xưởng 900 m
2
, văn phòng nhà ở, công trình
phụ khác diện tích 600 m
2
. Thời hạn thuê 10 m, kể từ ngày 22/03/2021 đến
14
ngày 22/03/2031. Mục đích thuê: Làm nhà xưởng sản xuất kinh doanh. Giá thuê
50.000.000 đồng/ tháng. Tiền đặt cọc để đảm bảo việc tuân thủ thực hiện
đúng hợp đồng 300.000.000 đồng. Ngoài ra, hợp đồng còn thỏa thuận về
phương thức thanh toán, cam đoan của các bên, bảo hiểm tài sản, nghĩa vụ
quyền của các bên, trường hợp chấm dứt hợp đồng….
- Hợp đồng thuê nhà xưởng ngày 30/9/2020, Công ty Trách nhiệm hữu hạn
H4 thuê nhà xưởng công trình phụ trợ gắn liền quyền sử dụng đất thuộc
quyền của Công ty Trách nhiệm hữu hạn Một thành viên S, tại thửa đất số 143,
tờ bản đồ số 49, với diện tích xưởng 5000 m
2
, công trình phụ kèm theo:
Đường vào Công ty A1 m
2
, đường đi nội bộ 700 m
2
, nhà chuyên gia 500 m
2
,
mái che, nhà vệ sinh 4500 m
2
. Thời hạn thuê 10 năm, kể từ ngày 01/10/2020
đến ngày 01/10/2030. Mục đích thuê: Làm nhà xưởng sản xuất kinh doanh. Giá
thuê 250.000.000 đồng/ tháng. Ngoài ra, hợp đồng còn thỏa thuận tiền đặt cọc,
về phương thức thanh toán, cam đoan của các bên, bảo hiểm tài sản, nghĩa vụ
quyền của các bên, trường hợp chấm dứt hợp đồng….
Cho đến nay giữa 02 Công ty vẫn thực hiện đúng quyền, nghĩa vụ của mình
theo thỏa thuận trong hợp đồng. Nay đối với vụ án tranh chấp giữa ông Nguyễn
Văn T với bị đơn ông Phạm Văn T4, Công ty Trách nhiệm hữu hạn Một thành
viên S không ý kiến, yêu cầu gì. Đối với 02 hợp đồng kết giữa Công ty
Trách nhiệm hữu hạn H4 với Công ty Trách nhiệm hữu hạn Một thành viên S,
thì sẽ tự thương lượng, thỏa thuận, trường hợp xảy ra tranh chấp sẽ khởi kiện
bằng một vụ án khác.
Đối với Biên bản xem xét, thẩm định tại chỗ của Tòa án; Chứng thư thẩm
định giá số 138BĐS/2023/CT.ĐA ngày 20/9/2023 của Công ty Cổ phần T7;
Mảnh trich lục đo đạc chỉnh số 44-2023 ngày 13/7/2023 của Chi nhánh
Văn phòng Đ1 (nay thành phố ), tỉnh Bình Dương, Công ty Trách nhiệm hữu
hạn Một thành viên S không yêu cầu xem xét, thẩm định tại chỗ, định giá đo
đạc lại tài sản.
Ông Nguyễn Văn T Người đại diện hợp pháp của cháu Nguyễn Thành Đ
trình bày:
Hiện cháu Đ sống cùng với ông T, H2 tại địa chỉ số nhà C, tổ A, khu
phố A, phường A, thành phố B, tỉnh Bình Dương, địa chỉ này nơi đất ông T
đang tranh chấp với ông T4. Trong vụ án này, cháu Đ không ý kiến, yêu cầu
gì.
Tại Biên bản lấy lời khai ngày 27 tháng 9 năm 2022, người quyền lợi,
nghĩa vụ liên quan ông Trịnh Trung T2 trình bày:
Giữa ông ông Nguyễn Văn T, ông Minh H quen biết nhau qua
ông Trần Thanh T5. Khoảng đầu năm 2018, do khó khăn về tài chính, ông T
15
vay tiền của ông H số tiền 8.000.000.000 đồng, số tiền vay này ông H cho
vay, không liên quan đến ông. Để đảm bảo khoản vay, ông H yêu cầu ông T
chuyển nhượng các thửa đất số 380, 143, 753 cho ông H, trong đó thửa 380
ông H nhờ ông đứng tên dùm, tất cả đồng ý. Theo đó:
- Ông T lập Hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất cho ông
Minh H đối với quyền sử dụng đất thuộc thửa số 753, tờ bản đồ số 49, Giấy
chứng nhận quyền sử dụng đất quyền sở hữu ntài sản khác gắn với đất số
BX194693, số vào sổ cấp Giấy chứng nhận CH04039, do Ủy ban nhân dân
huyện B, tỉnh Bình Dương cấp ngày 17/11/2014 quyền sử dụng đất thuộc
thửa số 143, tờ bản đồ số 49, Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất quyền sở hữu
nhà tài sản khác gắn với đất số BP128564, số vào sổ cấp Giấy chứng nhận
CH03572, do Ủy ban nhân dân huyện (nay thành phố) B, tỉnh Bình Dương
cấp ngày 13/02/2014. Việc chuyển nhượng đã được cập nhật, điều chỉnh trang tư
vào ngày 24/7/2018.
- Ngày 29/6/2018, ông T chuyển nhượng cho ông thửa đất số 380, tờ bản
đồ số 49, Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất quyền sở hữu nhà tài sản khác
gắn với đất số BP128566, số vào sổ cấp Giấy chứng nhận CH03574, do Ủy ban
nhân dân huyện (nay thành phố) B, tỉnh Bình Dương cấp ngày 13/02/2014,
được thể hiện tại Hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất số công chứng
012351, quyển số 06TP/CC-SCC/HĐGD ngày 29/6/2018 của Văn phòng C.
Việc chuyển nhượng đã được cập nhật, điều chỉnh trang tư vào ngày 27/7/2018.
Sau khi nhận chuyển nhượng, ngày 01/8/2018, ông vợ Nguyễn Kiều
K chuyển nhượng thửa đất trên lại cho ông Minh H, thể hiện tại Hợp đồng
chuyển nhượng quyền sử dụng đất số công chứng 013418, quyển số 08TP/CC-
SCC/HĐGD ngày 01/8/2018. Giữa vợ chồng ông ông H đã hoàn tất thủ tục
sang tên lại cho ông H. Thực tế, ông chỉ đứng tên hộ cho ông H, không liên quan
gì đến giao dịch giữa ông H với ông T.
Sau đó, ông biết ông T vay tiền của ông N với số tiền 14.000.000.000
đồng, để thanh toán hết cho ông H 8.000.000.000 đồng ông ông H ủy quyền
hay chuyển nhượng cho ông T4 hết 03 thửa đất nêu trên thì ông không nhớ.
Việc chuyển nhượng trên thực tế chỉ để đảm bảo khoản vay ông T nợ ông
và ông H, giữa các bên chỉ giao nhận giấy tờ; trên thực tế đất ông T vẫn đang sử
16
dụng. Nay đối với yêu cầu của T, ông đề nghị Tòa án xem xét giải quyết theo
quy định, ông không có ý kiến gì.
Tại Biên bản lấy lời khai ngày 27 tháng 10 năm 2022, người có quyền lợi,
nghĩa vụ liên quan ông Tạ Hồng N trình bày:
Khoảng năm 2018, ông T vay tiền của ông H, số tiền bao nhiêu ông không
rõ. Để tiền thanh toán cho ông H, thông qua người giới thiệu tên A T6
(hiện không địa chỉ), giới thiệu ông ông T4 cho ông T vay tiền. Theo đó,
ông ông T4 đã huy động vốn của người khác được 14.000.000.000 đồng
cho ông T vay để trả cho ông H, ông người trực tiếp đưa tiền cho ông T, còn
ông T4 người đứng tên đại diện cho vay, được thể hiện tại Biên bản thỏa
thuận đề ngày 22/10/2018, đồng thời yêu cầu ông H lập hợp đồng sang nhượng
lại 03 thửa đất số 380, 143, 753 cho ông T4 để đảm bảo khoản vay
14.000.000.000 đồng. Lãi suất thỏa thuận 2%/ tháng, tiền lãi này tương ứng
với tiền ông T thuê lại đất nhà xưởng trên đất. Bản chất của Biên bản thỏa
thuận đề ngày 22/10/2018, thực chất ông T đồng ý bán 03 thửa đất + tài sản
gắn liền với quyền sử dụng đất, trên cho ông T4 với giá 20.000.000.000 đồng
(giá này đúng với giá trị đất + tài sản trên đất), ông T4 đưa trước 14.000.000.000
đồng, còn thiếu lại 6.000.000.000 đồng, nhưng cho ông T thời gian 02 năm để
lấy lại đất, nếu không lấy lại đất theo thời gian thỏa thuận trong Biên bản thỏa
thuận đề ngày 22/10/2018, thì ông T4 sẽ trả thêm 6.000.000.000 đồng để bàn
giao đất, tài sản trên đất của ông T sang cho ông T4.
Từ khi lập Biên bản thỏa thuận đề ngày 22/10/2018, thì ông T không
trả khoản tiền gốc, lãi nào cho ông T4.
Sau khi lập Biên bản trên thì ông T4 đem tài sản trên để thế chấp cho
Ngân hàng N4 Chi nhánh N5 để vay số tiền 23.000.000.000 đồng, việc thế
chấp này là không có sự vi phạm trong Biên bản thỏa thuận đề ngày 22/10/2018,
vì có sự đồng ý của ông T.
Nay ông không đồng ý đối với toàn bộ yêu cầu khởi kiện của ông T,
sau khi vay tiền, ông T không thanh toán tiền cho ông T4, trong Biên bản
thỏa thuận đề ngày 22/10/2018 cũng thể hiện rõ là cho ông T thời gian đến ngày
22/10/2020 để lấy lại đất, nhưng ông T không thực hiện theo thỏa thuận.
Đối với khoản vay 14.000.000.000 đồng, thực chất số tiền này đã tính vào
giá trị của 03 thửa đất ông T4 nhận chuyển nhượng từ ông T, số tiền này
17
tiền của ông T4 cho ông T vay, không liên quan đến ông. Nên ông không ý
kiến, yêu cầu gì.
Đối với các chứng từ chuyển tiền cho ông với tổng số tiền 600.000.000
đồng thể hiện tại Giấy nộp tiền ngày 01/11/2019, 02/10/2019, 30/7/2019, Ủy
nhiệm chi ngày 01/7/2019 do ông T cung cấp, ông xác định ông nhận số tiền
trên; tuy nhiên, đây tiền ông T trả lãi cho ông của khoản vay ông T vay riêng
của ông 6.000.000.000 đồng, số tiền này không liên quan đến số tiền
14.000.000.000 đồng.
Đối với Giấy vay nợ tiền với số tiền 12.000.000.000 đồng do ông T cung
cấp, ông xác định chữ trong Giấy nợ tiền chữ của ông, còn chữ viết
không phải của ông, hiện ông cũng không giữ giấy gốc ông cũng không nhớ
đây là khoản tiền tiền gì,
Tại Bản tự khai ngày 07 tháng 10 năm 2022, người có quyền lợi, nghĩa vụ
liên quan Công ty Trách nhiệm hữu hạn H4 doChâu Thị G, là người đại diện
theo pháp luật trình bày:
Giữa Công ty Trách nhiệm hữu hạn H4 với Công ty Trách nhiệm hữu hạn
Một thành viên S có ký kết với nhau 02 Hợp đồng thuê nhà xưởng, cụ thể:
- Hợp đồng thuê nhà xưởng ngày 22/03/2021, Công ty Trách nhiệm hữu
hạn H4 thuê nhà xưởng công trình phụ trợ gắn liền quyền sử dụng đất thuộc
quyền của Công ty Trách nhiệm hữu hạn Một thành viên S, tại thửa đất số 143,
tờ bản đồ số 49, với diện tích xưởng 900 m
2
, văn phòng nhà ở, công trình
phụ khác diện tích 600 m
2
. Thời hạn thuê 10 m, kể từ ngày 22/03/2021 đến
ngày 22/03/2031. Mục đích thuê: Làm nxưởng sản xuất kinh doanh. Giá thuê
50.000.000 đồng/tháng. Tiền đặt cọc để đảm bảo việc tuân thủ và thực hiện đúng
hợp đồng 300.000.000 đồng. Ngoài ra, hợp đồng còn thỏa thuận về phương
thức thanh toán, cam đoan của các bên, bảo hiểm tài sản, nghĩa vụ quyền của
các bên, trường hợp chấm dứt hợp đồng….
- Hợp đồng thuê nhà xưởng ngày 30/9/2020, Công ty Trách nhiệm hữu
hạn H4 thuê nhà xưởng công trình phụ trợ gắn liền quyền sử dụng đất thuộc
quyền của Công ty Trách nhiệm hữu hạn Một thành viên S, tại thửa đất số 143,
tờ bản đồ số 49, với diện tích xưởng 5000 m
2
, ng trình phụ kèm theo:
Đường vào Công ty A1 m
2
, đường đi nội bộ 700 m
2
, nhà chuyên gia 500 m
2
,
mái che, nhà vệ sinh 4500 m
2
. Thời hạn thuê 10 năm, kể từ ngày 01/10/2020
đến ngày 01/10/2030. Mục đích thuê: Làm nhà ởng sản xuất kinh doanh. Giá
thuê 250.000.000 đồng/ tháng. Ngoài ra, hợp đồng còn thỏa thuận tiền đặt cọc,
về phương thức thanh toán, cam đoan của các bên, bảo hiểm tài sản, nghĩa vụ
quyền của các bên, trường hợp chấm dứt hợp đồng….
18
Cho đến nay giữa 02 Công ty vẫn thực hiện đúng quyền, nghĩa vụ của
mình theo thỏa thuận trong hợp đồng. Nay đối với vụ án tranh chấp giữa ông
Nguyễn Văn T với bị đơn ông Phạm Văn T4, Công ty Trách nhiệm hữu hạn H4
không ý kiến, yêu cầu gì. Đối với 02 hợp đồng kết giữa Công ty H4 với
Công ty Trách nhiệm hữu hạn Một thành viên S, thì sẽ tự thương lượng, thỏa
thuận, trường hợp xảy ra tranh chấp sẽ khởi kiện bằng một vụ án khác.
Tại Bản tự khai ngày 17 tháng 9 năm 2022, người quyền lợi, nghĩa vụ
liên quan, bà Nguyễn Kiều K trình bày:
ông Trịnh Trung T2 vợ chồng. thống nhất với toàn bộ lời
trình bày của ông T2, bà không có ý kiến, không bổ sung gì thêm.
Tại Biên bản lấy lời khai ngày 19 tháng 10 năm 2022, người có quyền lợi,
nghĩa vụ liên quan, bà Dương Thị Kim H2 trình bày:
và ông Nguyễn Văn T vợ chồng. Hiện sống cùng với ông T tại
địa chỉ số nhà C, tổ A, khu phố A, phường A, thành phố B, tỉnh Bình Dương, địa
chỉ này là nơi đất ông T đang tranh chấp với ông T4. Do tài sản tranh chấp là tài
sản riêng của ông T, nên bà không có ý kiến, yêu cầu gì trong vụ án.
Tại Biên bản lấy lời khai ngày 19 tháng 10 năm 2022, người có quyền lợi,
nghĩa vụ liên quan, bà Tống Thị Thùy L trình bày:
chị vợ của ông T (là chị họ của Dương ThKim H2 vợ ông T).
Hiện bà sống tại địa chỉ số nhà C, tổ A, khu phố A, phường A, thành phố B, tỉnh
Bình Dương, địa chỉ này là nơi đất ông T đang tranh chấp với ông T4. Do đây là
tài sản riêng của ông T, nên không ý kiến, yêu cầu trong vụ tranh chấp
giữa ông T ông T4.
Tại Biên bản lấy lời khai ngày 19 tháng 10 năm 2022, người có quyền lợi,
nghĩa vụ liên quan, ông Nguyễn Trần Nhật H1 trình bày:
Ông con của ông T. Hiện ông sống tại địa chỉ số nhà C, tổ A, khu phố
A, phường A, thành phố B, tỉnh Bình Dương, địa chỉ này nơi đất ông T đang
tranh chấp với ông T4. Do đây tài sản riêng của ông T, nên ông không ý
kiến, yêu cầu gì trong vụ tranh chấp giữa ông T và ông T4.
Tại Biên bản lấy lời khai ngày 19 tháng 10 năm 2022, người có quyền lợi,
nghĩa vụ liên quan, ông Nguyễn Minh N2 trình bày:
Ông con của ông T. Hiện ông sống tại địa chỉ số nhà C, tổ A, khu phố
A, phường A, thành phố B, tỉnh Bình Dương, địa chỉ này nơi đất ông T đang
tranh chấp với ông T4. Do đây tài sản riêng của ông T, nên ông không ý
kiến, yêu cầu gì trong vụ tranh chấp giữa ông T và ông T4.
19
Tại Biên bản lấy lời khai ngày 19 tháng 10 năm 2022, người có quyền lợi,
nghĩa vụ liên quan, bà Phạm Thị Q trình bày:
con dâu của ông T. Hiện bà sống tại địa chỉ số nhà C, tổ A, khu phố
A, phường A, thành phố B, tỉnh Bình Dương, địa chỉ này nơi đất ông T đang
tranh chấp với ông T4. Do đây tài sản riêng của ông T, nên không ý
kiến, yêu cầu gì trong vụ tranh chấp giữa ông T và ông T4.
Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan, ông Phạm Thanh T1 trình bày:
Ngày 16/10/2018, giữa Công ty Trách nhiệm hữu hạn D1 với Ngân hàng
N4 Chi nhánh N5 kết Hợp đồng tín dụng số 6221LAV201800197; theo đó,
Ngân hàng N4 Chi nhánh N5 cho Công ty Trách nhiệm hữu hạn D1 vay số
tiền 23.000.000.000 đồng. Để đảm bảo khoản vay cho Công ty Trách nhiệm hữu
hạn D1, bên thứ ba ông, thế chấp quyền sử dụng đất thuộc các thửa đất số
380, 753, 143, tờ bản đồ số 49 toàn bộ tài sản hiện hữu, i sản hình thành
trong tương lai gắn liền với các thửa đất. Số tài sản thế chấp trên thuộc tài sản
hợp pháp của riêng ông, không liên quan đến vợ ông Phan Thị Thanh
H3. Khi ông thế chấp các tài sản trên cho Ngân hàng, ông T biết đồng
ý. Nay đối với yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn: Ông không đồng ý đối với
yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn. Đối với yêu cầu khởi kiện của Ngân hàng,
thì ông thống nhất, không có ý kiến gì.
Đối với Biên bản xem xét, thẩm định tại chỗ của Tòa án; Chứng thư thẩm
định giá số 138BĐS/2023/CT.ĐA ngày 20/9/2023 của Công ty Cổ phần T7;
Mảnh trich lục đo đạc chỉnh số 44-2023 ngày 13/7/2023 của Chi nhánh
Văn phòng Đ1 (nay thành phố ), tỉnh Bình Dương, ông không yêu cầu xem
xét, thẩm định tại chỗ, định giá và đo đạc lại tài sản.
Tại Văn bản số 1158/VPCCSS ngày 12 tháng 10 năm 2022, người
quyền lợi, nghĩa vụ liên quan Văn phòng Công chứng Sở Sao, do ông Bùi Thái
G1 Trưởng Văn phòng trình bày:
Qua kiểm tra, nghiên cứu hồcông chứng, Văn phòng C cung cấp thông
tin cho Tòa án cụ thể như sau: Đối với yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn, Văn
phòng C nhận thấy để căn cứ xác định việc xác lập giao dịch nhằm bảo vệ
quyền lợi ích hợp pháp của các bên giao kết hợp đồng cần căn cứ theo quy
định của pháp luật tại Luật công chứng năm 2014; Bộ luật Dân sự năm 2015
20
những văn bản liên quan để tiến hành. Văn phòng C đã thực hiện công chứng
hợp đồng nêu trên đúng trình tự, thủ tục theo quy định của pháp luật. Nay do
điều kiện công việc, không thể trực tiếp tham gia các hoạt động tố tụng liên quan
đến vụ án, Văn phòng C đề nghị được giải quyết vắng mặt trong toàn bộ quá
trình giải quyết, xét xử vụ án.
Tại Văn bản số 541/VPCC ngày 14 tháng 10 m 2022, người quyền
lợi, nghĩa vụ liên quan Văn phòng Công chứng Trần Thị Thanh M, do Trần
Thị Thanh M Trưởng văn phòng trình bày:
Các Hợp đồng thế chấp quyền sử dụng đất để đảm bảo nghĩa vụ của bên
thứ ba số công chứng 11610, quyển số 10TP/CC-SCC/HĐGD ngày 16/10/2018,
số công chứng 11611, quyển số 10TP/CC-SCC/HĐGD ngày 16/10/2018 số
công chứng 11612, quyển số 10TP/CC-SCC/HĐGD ngày 16/10/2018 do Công
chứng viên Văn phòng công chứng Trần Thị Thanh M thực hiện công chứng
đang lưu giữ tại Văn phòng C1. Tại thời điểm công chứng, các bên tham gia
giao kết hợp đồng đầy đủ năng lực hành vi dân sự, tự nguyện thỏa thuận giao
kết hợp đồng, đồng ý tên, điểm chỉ vào hợp đồng; công chứng viên đã kiểm
tra, đối chiếu bản chính các giấy tờ với hồ lưu; hồ công chứng đảm bảo
các giấy tờ theo quy định của Luật Công chứng năm 2014, xác nhận đúng nhân
thân, chữ ký, dấu vân tay của bên thế chấp bên được cấp tín dụng. Trình tự,
thủ tục công chứng đảm bảo đúng quy định tại Điều 41 Luật Công chứng năm
2014, nên các Hợp đồng nêu trên do Công chứng viên Văn phòng công chứng
Trần Thị Thanh M chứng nhận phù hợp quy định pháp luật, không trái đạo đức
xã hội.
Đối với Hợp đồng ủy quyền giữa ông Minh H với ông Tạ Hồng N liên
quan đến các quyền sử dụng đất thuộc thửa số 380, 143, 753, Tòa án yêu cầu
Văn phòng C1. Qua soát hồ lưu, Văn phòng C1 không chứng nhận hợp
đồng ủy quyền liên quan đến các đương sự tài sản này nên không thể cung
cấp cho Tòa án.
Trong quá trình tố tụng, a án nhân dân thành phố Bến Cát, tỉnh Bình
Dương đã thông báo trên phương tiện thông tin đại chúng, tống đạt hợp lệ các
văn bản tố tụng cho ông Minh H; tống đạt hợp lệ các văn bản tố tụng cho
ông Lê Minh H và người thừa kế quyền, nghĩa vụ của ông Tạ Hồng N là bà Đinh
Thị D, Nguyễn Thị N1, cháu Tạ Hồng A (do Nguyễn Thị N1 đại diện)
không đến Tòa án làm việc theo thông báo giấy triệu tập của Tòa án nên Tòa
án không thu thập được lời khai của ông H, bà D, bà N1 và cháu Hồng A.
21
Tại phiên tòa,
- Ông Nguyễn Văn T với cách nguyên đơn, người đại diện hợp pháp
của Công ty Trách nhiệm hữu hạn Một thành viên S em Nguyễn Thành Đ,
không cung cấp tài liệu, chứng cứ gì thêm và trình bày: Ông giữ nguyên yêu cầu
khởi kiện như trong quá trình tố tụng, không trình bày bổ sung gì thêm.
- Ông Phạm Thanh T1 với cách bị đơn; người đại diện hợp pháp của
Công ty Trách nhiệm hữu hạn D1; người quyền lợi, nghĩa vụ liên quan,
không cung cấp tài liệu, chứng cứ thêm trình bày: Ông không đồng ý đối
với yêu cầu khởi kiện của ông T. Đối với yêu cầu khởi kiện của Ngân hàng N4,
Công ty Trách nhiệm hữu hạn D1 đồng ý trả tiền gốc, lãi theo yêu cầu của Ngân
hàng N4 đồng ý thanh tài sản đảm bảo khi Công ty Trách nhiệm hữu hạn
D1 không có khả năng thanh toán.
- Ông Thiện T3, người đại diện hợp pháp của Ngân ng N4 cung
cấp Bảng tính chi tiết tiền gốc, lãi vay ngày 20/9/2024 trình bày: Ngân hàng
N4 yêu cầu Công ty Trách nhiệm hữu hạn D1 thanh toán số tiền 36.497.413.699
đồng, trong đó tiền gốc 23.000.000.000 đồng, tiền lãi tính đến hết ngày
20/9/2024 là 13.497.413.699 đồng, gồm: Tiền lãi trong hạn là 106.104.110
đồng, tiền lãi quá hạn 13.391.309.589 đồng; trường hợp Công ty Trách nhiệm
hữu hạn D1 không thanh toán tiền gốc, lãi thì phát mãi tài sản thế chấp của ông
Phạm Thanh T1 theo quy định.
Kiểm sát viên phát biểu ý kiến:
Về thủ tục tố tụng: Việc cấp tống đạt văn bản pháp luật việc tuân thủ
quy định pháp luật của người tham gia tố tụng, người tiến hành tố tụng đều đảm
bảo đúng theo quy định của Bộ luật Tố tụng dân sự.
Về nội dung vụ án: Đề nghị Hội đồng xét xử căn cứ Điều 92 Bộ luật tố
tụng dân sự năm 2015; Điều 117, 122, 131, 133, 463, 466, 468 Bộ luật dân sự
năm 2015; Điều 91, 94, 95 Điều 98 Luật Các tổ chức tín dụng năm 2014
(được sửa đổi, bồ sung năm 2017), chấp nhận 01 phần yêu cầu khởi kiện của
nguyên đơn về việc tuyên hiệu các Hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng
đất số công chứng 010513, quyển số 05TP/CC-SCC/HĐGD công chứng ngày
22/5/2018, Hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất số công chứng 013418,
quyển số 08TP/CC-SCC/HĐGD công chứng ngày 01/8/2018, Hợp đồng chuyển
nhượng quyền sử dụng đất số công chứng 010511, quyển số 05TP/CC-
SCC/HĐGD công chứng ngày 22/5/2018, Hợp đồng chuyển nhượng quyền sử
dụng đất số công chứng 010500, quyển số 05TP/CC-SCC/HĐGD công chứng
ngày 22/5/2018, Hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất số công chứng
11058, quyển số 09TP/CC-SCC/HĐGD công chứng ngày 28/9/2018, Hợp đồng
chuyển nhượng quyền sử dụng đất số công chứng 11057, quyển số 09TP/CC-
SCC/HĐGD công chứng ngày 28/9/2018, Hợp đồng chuyển nhượng quyền sử
dụng đất số công chứng 11059, quyển số 09TP/CC-SCC/HĐGD công chứng
22
ngày 28/9/2018. Ông Nguyễn Văn T nghĩa vụ trả cho ông Phạm Thanh T1 số
tiền 14.000.000.000 đồng. Ông Phạm Thanh T1 nghĩa vụ trả cho ông Nguyễn
Văn T giá trị quyền sử dụng đất thuộc các thửa đất số 380, 143, 753 cùng tờ bản
đồ số 49 tài sản gắn liền với các thửa đất trên với số tiền là: 45.834.583.989
đồng. Không chấp nhận một phần yêu cầu khởi kiện của ông Nguyễn Văn T về
việc “Tranh chấp Hợp đồng ủy quyền; Hợp đồng thế chấp tài sản” chấp nhận
toàn bộ yêu cầu độc lập của người quyền lợi nghĩa vụ liên quan Ngân hàng
N4 đối với tranh chấp hợp đồng tín dụng.
NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN:
Căn cứ vào tài liệu, chứng cứ đã được kiểm tra, xem xét tại phiên tòa, kết
quả tranh tụng tại phiên tòa, ý kiến của đại diện Viện Kiểm sát, Hội đồng xét xử
nhận định:
[1] Về thủ tục tố tụng:
1.1 Tòa án nhân dân thành phố Bến Cát, tỉnh Bình Dương đã thông báo
trên phương tiện thông tin đại chúng, tống đạt hợp lệ các văn bản tố tụng cho
ông Minh H người thừa kế quyền, nghĩa vụ của ông Tạ Hồng N
Đinh Thị D, Nguyễn Thị N1, cháu Tạ Hồng A (do Nguyễn Thị N1 đại
diện), nhưng ông H, N1, D không đến Tòa án làm việc và tham gia phiên
tòa sơ thẩm theo thông báo, giấy triệu tập của Tòa án. Người có quyền lợi, nghĩa
vụ liên quan gồm: Ông Trịnh Trung T2, bà Nguyễn Kiều K, Châu Thị G -
Người đại diện hợp pháp của Công ty Trách nhiệm hữu hạn H4, ông Bùi Thái
G1 - Người đại diện hợp pháp của Văn phòng C, Trần Thị Thanh M - Người
đại diện hợp pháp của Văn phòng C1, Phạm Thị Q, ông Nguyễn Trần Nhật
H1, bà Tống Thị Thùy L, bà Dương Thị Kim H2, ông Nguyễn Minh N2 đều
vắng mặt và có đơn đề nghị vắng mặt. Căn cứ quy định tại các Điều 227, 228 Bộ
luật Tố tụng dân sự năm 2015, Tòa án vẫn tiến hành xét xử vụ án vắng mặt các
đương sự nêu trên.
1.2 Vquan hệ pháp luật: Trong quá trình tố tụng, Tòa án thụ xác
định quan hệ pháp luật tranh chấp là: “Tranh chấp Hợp đồng vay tài sản; Hợp
đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất, Hợp đồng ủy quyền sử dụng đất; hợp
đồng thế chấp tài sản; Hợp đồng tín dụng”. Tuy nhiên, theo nội dung yêu cầu
khởi kiện của nguyên đơn, thì nguyên đơn yêu cầu Tòa án hủy chỉnh biến
động trên trang 4 Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, nên quan hệ pháp luật
nêu trên chưa đầy đủ. Do đó, nay Hội đồng xét xử xác định lại quan hệ pháp
luật tranh chấp của vụ án, cụ thể là: “Tranh chấp Hợp đồng vay tài sản; Hợp
đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất, Hợp đồng ủy quyền sử dụng đất; hợp
đồng thế chấp tài sản; Hợp đồng tín dụng; yêu cầu hủy chỉnh biến động trên
trang 4 Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất”.
1.3 Về phạm vi thay đổi, bổ sung yêu cầu khởi kiện, nộp tiền tạm ứng án
phí của nguyên đơn: Ngày 20 tháng 6 năm 2024, ông Nguyễn Văn T thay
đổi, bổ sung yêu cầu khởi kiện đối với diện tích đất tăng thêm sau khi đo đạc
23
thực tế. Xét thấy, phần diện tích tăng thêm thuộc trong các thửa đất số 380, 143,
753 đối tượng khởi kiện ban đầu của ông T tại Đơn khởi kiện ngày 28
tháng 7 năm 2022. Do đó, Tòa án không ra Thông báo yêu cầu ông T nộp bổ
sung tiền tạm ứng án phí ra Thông báo thụ ngày 20/6/2024 để thụ đơn
khởi thay đổi, bổ sung của ông T là đúng quy định pháp luật của pháp luật.
1.4 Về việc không đưa Văn phòng đăng đất đai tỉnh Bình Dương vào
tham gia tố tụng: Theo nội dung yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn, thì nguyên
đơn yêu cầu Tòa án hủy chỉnh biến động trên trang 4 Giấy chứng nhận
quyền sử dụng đất đối với các thửa đất số 380, 143, 753 (do Chi nhánh Văn
phòng Đ1 (nay thành phố) B thực hiện). Xét thấy, theo quy định của Luật Đất
đai Nghị định số 43/2014/NĐ-CP15/5/2014 của Chính phủ thì việc xác nhận
nội dung biến động trong trường hợp thực hiện hợp đồng thủ tục hành chính
trong giao dịch dân sự, quan, tổ chức thẩm quyền sẽ thực hiện việc đăng
biến động. Do đó, Hội đồng xét xử không đưa Văn phòng đăng đất đai
tỉnh Bình Dương vào tham gia tố tụng với tư cách người quyền lợi, nghĩa vụ
liên quan.
[2] Xét yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn ông Nguyễn Văn T về yêu cầu:
Tuyên hiệu Hợp đồng ủy quyền sử dụng đất giữa ông Minh H với ông Tạ
Hồng N, Hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất giữa ông Tạ Hồng N với
ông Phạm Thanh T1 đối với các thửa đất số 380, 143, 753, cùng tờ bản đồ số 49
được công chứng tại Văn phòng C1. Xét thấy, trong quá trình tố tụng ông T
không cung cấp cho Tòa án các Hợp đồng các tài liệu, chứng cứ liên quan
đến các hợp đồng nêu trên. Đồng thời, Tại Văn bản số 541/VPCC ngày 14 tháng
10 năm 2022 của Văn phòng C1 cung cấp thông tin: “Đối với Hợp đồng ủy
quyền giữa ông Lê Minh H với ông Tạ Hồng N liên quan đến các quyền sử dụng
đất thuộc thửa số 380, 143, 753, Tòa án yêu cầu Văn phòng C1. Qua soát hồ
lưu, Văn phòng C1 không chứng nhận hợp đồng ủy quyền liên quan đến các
đương sự tài sản này nên không thể cung cấp cho Tòa án”. Do đó, yêu cầu
khởi kiện nêu trên của ông T không căn cứ, nên Hội đồng xét xử không
chấp nhận.
[3] Xét yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn ông Nguyễn Văn T đối với các
yêu cầu: Tuyên hiệu các Hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất số
công chứng 012351, quyển số 06TP/CC-SCC/HĐGD công chứng ngày
29/6/2018 ký kết giữa ông Minh H (ông Nguyễn Văn T ủy quyền cho ông
Minh H tham gia kết hợp đồng) với ông Trịnh Trung T2; Hợp đồng chuyển
nhượng quyền sử dụng đất số công chứng 013418, quyển số 08TP/CC-
SCC/HĐGD công chứng ngày 01/8/2018 kết giữa ông Trịnh Trung T2,
Nguyễn Kiều K với ông Minh H; Hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng
đất số công chứng 010511, quyển số 05TP/CC-SCC/HĐGD công chứng ngày
22/5/2018 kết giữa ông Nguyễn Văn T với ông Lê Minh H; Hợp đồng
chuyển nhượng quyền sử dụng đất số công chứng 010500, quyển số 05TP/CC-
24
SCC/HĐGD công chứng ngày 22/5/2018 kết giữa ông Nguyễn Văn T với
ông Lê Minh H. Xét thấy;
3.1 Trong quá trình tố tụng, ông Minh H đã được thông báo trên
phượng tiện thông tin đại chúng Tòa án đã tiến hành tống đạt các Văn bản tố
tụng theo quy định pháp luật, nhưng ông H vẫn vắng mặt, không cung cấp bản
tự khai, tài liệu, chứng cứ, nên Hội đồng xét xử căn cứ vào các tài liệu, chứng cứ
có được trong hồ sơ vụ án để giải quyết theo quy định pháp luật.
3.2 Ông Nguyễn Văn T trình bày cho rằng khoảng đầu năm 2018, do khó
khăn về tài chính, ông T vay của ông T2, ông H số tiền 7.000.000.000 đồng,
khi vay không lập giấy tờ ông T lập các Hợp đồng chuyển nhượng quyền sử
dụng đất số công chứng 010513, quyển số 05TP/CC-SCC/HĐGD ngày
22/5/2018, Hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất số công chứng 010511,
quyển số 05TP/CC-SCC/HĐGD ngày 22/5/2018, Hợp đồng chuyển nhượng
quyền sử dụng đất số công chứng 010500, quyển số 05TP/CC-SCC/HĐGD công
chứng ngày 22/5/2018 để chuyển nhượng các thửa đất s380, 143, 753 cho ông
T2, ông H mục đích để đảm bảo khoản vay nêu trên. Cho đến ngày 29/9/2018,
ông T vay được tiền của ông N, ông T đã trả tiền lại cho ông H, lúc này giữa ông
T với ông H mới lập Bản thỏa thuận đề ngày 29/9/2018, với nội dung ông T
thanh toán số tiền vay 9.600.000.000 đồng cho ông H, ông H trách nhiệm
ủy quyền các thửa đất 380, 143, 753 cho ông N. Ông Trịnh Trung T2,
Nguyễn Kiều K thống nhất việc ông T vay tiền nhưng số tiền vay
8.000.000.000 đồng ông T vay của ông H, không phải của ông T2. Căn cứ
Bản thỏa thuận ngày 29/9/2018 ký kết giữa ông T với ông H (bút lục số 690), lời
trình bày của ông T2, K, căn cứ xác định các bên đương sự giao kết các
Hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất số công chứng 010513, quyển số
05TP/CC-SCC/HĐGD ngày 22/5/2018, Hợp đồng chuyển nhượng quyền sử
dụng đất số công chứng 010511, quyển số 05TP/CC-SCC/HĐGD ngày
22/5/2018, Hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất số công chứng 010500,
quyển số 05TP/CC-SCC/HĐGD công chứng ngày 22/5/2018, Hợp đồng chuyển
nhượng quyền sử dụng đất số công chứng 013418, quyển số 08TP/CC-
SCC/HĐGD ngày 01/8/2018 nhằm mục đích đảm bảo khoản nợ 9.600.000.000
đồng ông T vay của ông H, các hợp đồng này được giao kết để nhằm che giấu
Hợp đồng vay tài sản bằng hình thức lời nói giữa ông T với ông H, nên các Hợp
đồng nêu trên bị hiệu, còn Hợp đồng vay tài sản bằng hình thức lời nói giữa
25
ông T với ông H bị che giấu có hiệu lực, theo quy định tại Điều 124 Bộ luật Dân
sự năm 2015.
3.3 Căn cứ Điều 131 Bộ luật Dân sự năm 2015 thì giao dịch dân sự
hiệu không làm phát sinh, thay đổi, chấm dứt quyền và nghĩa vụ dân sự của c
bên kể từ thời điểm xác lập giao dịch dân sự. Các bên phải khôi phục lại tình
trạng ban đầu, hoàn trả lại cho nhau những đã nhận, bên lỗi gây thiệt hại
thì phải bồi thường. Hội đồng xét xử xét thấy, lời khai ông T cho rằng chỉ vay
của ông H 7.000.000.000 đồng, cộng tiền lãi 2.600.000.000 đồng, tổng
9.600.000.000 đồng, lời khai này không căn cứ, bởi lẽ, căn cứ vào nội
dung tại Bản thỏa thuận ngày 29/9/2018 thì số tiền ông T vay của ông H
9.600.000.000 đồng, không có nội dung nào thể hiện trong số tiền 9.600.000.000
đồng khoản tiền lãi 2.600.000.000 đồng. Số tiền này ông T cũng đã thanh
toán đầy đủ cho ông H, được ông H xác định tại Bản thỏa thuận ngày 29/9/2018,
nên ông T không phải giao trả số tiền này lại cho ông H; về quyền sử dụng đất
chuyển nhượng, trên thực tế cho đến hiện nay ông T vẫn đang trực tiếp quản lý,
sử dụng, nên không cần buộc ông H trả lại các quyền sử dụng đất thuộc các thửa
số 380, 143, 753 cho ông T.
3.4 Về bồi thường thiệt hại: Mặc các bên đương sự đều không yêu
cầu về việc bồi thường thiệt hại khi hợp đồng hiệu; nhưng do yêu cầu khởi
kiện của ông T thể hiện quyền lợi cao hơn về bồi thường thiệt hại nhằm để
giải quyết triệt để vụ án, Hội đồng xét xử vẫn xem xét đến lỗi và trách nhiệm bồi
thường thiệt hại như sau: Xét thấy, khi kết hợp đồng chuyển nhượng quyền
sử dụng đất, ông T, ông T2 ông H đều biết việc giao kết nhằm để che giấu
khoản vay tiền nên các bên đều có lỗi ngang trong việc làm cho giao dịch dân sự
bị vô hiệu nên việc bên có lỗi phải bồi thường là không đặt ra xử lý.
[4] Xét yêu cầu độc lập của Ngân hàng N4 xét yêu cầu khởi kiện kiện
của nguyên đơn ông Nguyễn Văn T đối với các yêu cầu sau: Tuyên hiệu các
Hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất kết giữa ông Minh H với
ông Phạm Thanh T1, các Hợp đồng thế chấp quyền sử dụng đất kết giữa ông
Phạm Thanh T1 với Ngân hàng N4 - Chi nhánh N5. Hủy đăng ký biến động trên
Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, công nhận cho ông Nguyễn Văn T được
quyền sử dụng diện tích theo kết quả đo đạc thực tế đối với các thửa đất số 143,
380, 753, tờ bản đồ số 49. Quá trình tố tụng, ông T cho rằng vào ngày
29/9/2018, ông vay số tiền 12.000.000.000 đồng của ông Tạ Hồng N để trả
26
khoản vay của ông H, giữa hai bên viết giấy vay nợ tiền (không đề ngày).
Đồng thời, cũng trong ngày 29/9/2018 giữa ông T ông H cũng lập Biên bản
thỏa thuận thể hiện nội dung ông H ủy quyền các thửa đất số 380, 143, 753 cho
ông N. Ông N thống nhất việc cho ông T vay tiền, nhưng số tiền cho ông T
vay là 14.000.000.000 đồng và người cho vay là ông N, ông T1, trong đó ông T1
đại diện đứng tên cho vay được thể hiện tại Biên bản thỏa thuận ngày
22/10/2018, còn ông N người đưa tiền cho ông T cũng thống nhất việc
sang tên 03 thửa đất nêu trên nhằm để đảm bảo khoản vay. Ông T1 thống nhất
lời trình bày của ông N; tuy nhiên, ông T1 cho rằng số tiền nêu trên là của ông N
cho ông T vay, không phải của ông, ông đứng tên trong Biên bản thỏa thuận
ngày 22/10/2018 Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất do ông N nhờ ông
đứng tên dùm. Xét thấy;
4.1 Đối với lời trình bày của ông T1 nêu trên, quá trình tố tụng ông T1
không có tài liệu, chứng cứ chứng minh lời trình bày của ông T1 căn cứ và
tại Biên bản lấy lời khai của ông N ngày 27/10/2022 (bút lục số 672); Biên bản
lấy lời khai của ông T1 ngày 27/10/2022 (bút lục số 698); Biên bản thỏa thuận
ngày 22/10/2018 đều không nội dung nào thể hiện ông N nhông T1 đứng
tên Giấy chứng nhận đứng tên bên cho vay dùm cho ông N, nên lời trình bày
của ông T1 là không có căn cứ.
4.2 Đối với Giấy vay nợ tiền (không đề ngày, t lục 689), ông T cung
cấp bản photo, không bản chính, nhưng ông N thừa nhận chữ trong
Giấy vay nợ tiền (không đề ngày) của ông N, nên Hội đồng xét xử vẫn xem
Giấy vay nợ tiền (không đề ngày) tài liệu, chứng cứ để xem xét, đánh giá.
Ông T cho rằng chỉ vay 12.000.000.000 đồng, sau đó cộng thêm tiền lãi
2.000.000.000 đồng, thành số tiền vay 14.000.000.000 đồng, số tiền này được
thể hiện tại Biên bản thỏa thuận ngày 22/10/2018. Tuy nhiên, ông T cũng không
cung cấp tài liệu, chứng cứ chứng minh lời trình bày của ông T là có căn cứ, còn
ông N không thừa nhận nội dung ông T trình bày tại Biên bản thỏa thuận
ngày 22/10/2018 cũng không nội dung nào thể hiện số tiền vay
14.000.000.000 đồng bao gồm tiền gốc 12.000.000.000 đồng, tiền lãi
2.000.000.000 đồng. Do đó, Hội đồng xét xử xác định số tiền các bên thực hiện
giao dịch vay 14.000.000.000 đồng, Hợp đồng giao dịch này được các bên
thực hiện bằng lời nói (đến ngày 22/10/2018 thì được lập thành Biên bản thỏa
thuận).
27
4.3 Đối với lời khai của ông N, ông T1 cho rằng thời điểm các bên xác lập
giao dịch vay tiền vào ngày 22/10/2018 như thể hiện tại Biên bản thỏa thuận
ngày 22/10/2018, còn ông T cho rằng các bên giao dịch vay tiền vào ngày
29/9/2018 (trước thời điểm ngày 22/10/2018), nhằm để thanh toán tiền cho ông
H Biên bản thỏa thuận ngày 22/10/2018 được xác lập sau thời điểm giữa
các bên hoàn tất thủ tục sang tên các thửa đất số 380, 143, 753 cho ông T1. Xét
lời trình bày của N, ông H tại các Biên bản lấy lời khai chưa phù hợp về mặt
thời gian. Lời trình bày của ông T phù hợp theo hồ chuyển nhượng quyền
sử dụng đất đối với các thửa đất số 380, 143, 753 từ ông H sang tên cho ông T1
phù hợp nội dung thỏa thuận th hiện tại Biên bản thỏa thuận ngày
22/10/2018.
4.4 Ông T, ông N ông T1 đều xác định việc chuyển nhượng các thửa
đất số 380, 143, 753 từ ông H sang tên cho ông T1 nhằm để đảm bảo khoản
vay 14.000.000.000 đồng được ông T, ông T1 xác lập bằng hình thức lời nói
(đến ngày 22/10/2018 thì được lập thành Biên bản thỏa thuận); trên thực tế, các
quyền sử dụng đất nêu trên hiện vẫn do ông T trực tiếp quản lý, sử dụng
kết hợp đồng cho thuê xưởng với Công ty Trách nhiệm hữu hạn H4. Nvậy,
các Hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất số công chứng 11058, quyển
số 09TP/CC-SCC/HĐGD công chứng ngày 28/9/2018 kết giữa ông Minh
H với ông Phạm Thanh T1, Hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất số
công chứng 11057, quyển số 09TP/CC-SCC/HĐGD công chứng ngày 28/9/2018
kết giữa ông ông Minh H với ông Phạm Thanh T1, Hợp đồng chuyển
nhượng quyền sử dụng đất số công chứng 11059, quyển số 09TP/CC-
SCC/HĐGD công chứng ngày 28/9/2018 kết giữa ông ông Minh H với
ông Phạm Thanh T1 để che giấu hợp đồng vay tài sàn, nên bị hiệu theo
Điều 124 Bộ luật Dân sự năm 2015; còn Hợp đồng vay tài sản bằng hình thức
lời nói (đến ngày 22/10/2018 thì được lập thành Biên bản thỏa thuận) kết
giữa ông T, ông T1 có hiệu lực.
4.5 Xét yêu cầu độc lập của Ngân hàng N4:
Xét thấy, ngày 16/10/2018, giữa Ngân hàng N4 Chi nhánh N5 với ng
ty Trách nhiệm hữu hạn D1 kết Hợp đồng tín dụng số 6221LAV201800197,
với số tiền vay 23.000.000.000 đồng. Hiện, Công ty Trách nhiệm hữu hạn D1
còn nợ Nông nghiệp N4 số tiền 36.497.413.699 đồng, trong đó nợ gốc là:
23.000.000.000 đồng; tiền lãi tính đến hết ngày 20/9/2024 13.497.413.699,
28
gồm tiền lãi trong hạn 106.104.110 đồng, tiền lãi quá hạn 13.391.309.589
đồng. Ông Phạm Thanh T1 Người đại diện hợp pháp của Công ty Trách nhiệm
hữu hạn D1 thống nhất số nợ này đồng ý thanh toán, đây chứng cứ không
cần phải chứng minh theo quy định tại Điều 92 Bộ luật Tố tụng dân sự năm
2015.
Đối với hợp đồng thế chấp tài sản, ngày 11/10/2018, giữa ông Phạm
Thanh T1 với Ngân hàng N4 Chi nhánh N5 kết các Hợp đồng thế chấp
quyền sử dụng đất của bên thứ ba số 6221LCL201800186, số
6221LCL201800184, số 6221LCL201800187 để thế chấp các thửa đất số 380,
143, 753 cùng tờ bản đồ số 49, đảm bảo cho khoản vay nêu trên, việc thế chấp
đăng giao dịch bảo đảm theo quy định. Ngoài ra giữa ông T1 với Ngân
hàng N4 Chi nhánh N5 còn kết Hợp đồng thế chấp tài sản hình thành trong
tương lai số 6221-LCL-201800185 ngày 25/10/2018 (bút lục số 479) đối với các
tài sản hình thành gắn liền với các thửa đất số 380, 143, 753 cùng tờ bản đồ số
49, Hợp đồng này đã được đăng tại Trung tâm đăng giao dịch, tài sản tại
Thành phố Hồ Chí Minh (bút lục số 471). Việc kết các hợp đồng nêu trên
giữa người đại diện hợp pháp của Ngân hàng N4 Chi nhánh N5 với ông Phạm
Thanh T1 người được Chi nhánh Văn phòng Đ1 (nay thành phố) Bến Cát
cập nhật biến động sang tên tại trang 4 giấy chứng nhận; khi giao kết, các bên
đều tự nguyện. Nên các Hợp đồng nêu trên đúng trình tự, thủ tục hợp pháp
theo quy định pháp luật.
4.7 Mặt khác, ông T1 thực hiện thế chấp các thửa đất nêu trên cho Ngân
hàng N4 Chi nhánh N5 vào ngày 18/10/2018, thời điểm này trước ngày lập
Biên bản thỏa thuận ngày 22/10/2018 giữa ông T với ông T1. Tuy nhiên, cũng
trong ngày 22/10/2018, giữa ông T với ông Minh H, lập Văn bản thỏa
thuận đề ngày 22/10/2018, số chứng thực 65, quyển số 01/2018-SCT/CK,CĐ
(bút lục số 531) trong đó thể hiện nội dung: “…Chúng tôi gồm: Nguyễn Văn T,
Minh H cam kết: -Quyền sử dụng đất toàn bộ tài sản gắn liền trên đất
thuộc quyền sở hữu, sử dụng của ông Phạm Thanh T1…”. Điều này cho thấy
việc giữa ông T ông T1 thỏa thuận hợp đồng chuyển nhượng các thửa đất
số 380, 143, 753 cùng tờ bản đồ số 49 nhằm che giấu Hợp đồng vay tài sản,
Ngân hàng N4 Chi nhánh N5 không biết, ông T ông T1 cũng không thông
báo cho Ngân hàng N4 Chi nhánh N5 biết. Ông T hoàn toàn biết việc ông T1
thế chấp các tài sản nêu trên cho Ngân hàng N4 Chi nhánh N5, nhưng không
29
phản đối, không tranh chấp. Đồng thời, tại Công văn số 3536/TNMT-TTĐĐ
ngày 08/9/2023 của Phòng T8 (nay thành phố) B (bút lục số 819) cung cấp
thông tin: Việc Chi nhánh Văn phòng Đ1 (nay thành phố) Bến Cát thực hiện
cập nhật biến động tại trang Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất chuyển
nhượng cho ông Trịnh Trung T2, ông Minh H, ông Phạm Thanh T1 đúng
theo trình tự, thủ tục quy định tại Điều 79 Nghị định số 43/2014/NĐ-CP ngày
15/5/2014 của Chính Phủ. Do đó, sở xác định Ngân hàng N4 người thứ
ba ngay tình. Căn cứ khoản 2 Điều 133 Bộ luật dân sự m 2015, các Hợp đồng
thế chấp quyền sử dụng đất của bên thứ ba số 6221LCL201800184, số
6221LCL201800186, số 6221LCL201800187 kết giữa ông Phạm Thanh T1
với Ngân hàng N4 - Chi nhánh N5, không bị hiệu, nên đối với các yêu cầu
ông T về việc tuyên các hợp đồng nêu trên và việc chỉnh lý biến động tại trang 4
Giấy chứng nhận hiệu không căn cứ, nên Hội đồng xét xử không chấp
nhận yêu cầu khởi kiện này của ông T.
4.8 Đối với Chứng thư thẩm định giá: Tại mục số 8 của Chứng thư thẩm
định giá số 138/BĐS/2023/CT.ĐA ngày 20/9/2023 của Công ty Cổ phần T7, th
hiện nội dung: “Kết quả thẩm định giá hiệu lực 06 tháng kể từ ngày phát
hành chứng thư thẩm định giá”. Tuy nhiên, trong quá trình tố tụng các đương sự
yêu cầu sử dụng Chứng thư thẩm định giá số 138/BĐS/2023/CT.ĐA ngày
20/9/2023 để xem xét giải quyết, không yêu cầu định giá lại tài sản, nên Hội
đồng xét xử căn cứ Chứng thư thẩm định giá số 138/BĐS/2023/CT.ĐA để xem
xét về giá trị tài sản tranh chấp.
4.9 Về hậu quả pháp khi tuyên hợp đồng hiệu: Như nhận định tại
các tiểu mục 3.3, 3.4 mục 3 phần nhận định của Bản án, theo đó: Cần buộc ông
Nguyễn Văn T có nghĩa vụ trả cho ông T1 số tiền vay 14.000.000.000 đồng. Đối
với quyền sử dụng đất thuộc các thửa 380, 143, 753, ông T1 đã dùng để đảm bảo
khoản vay của Công ty Trách nhiệm hữu hạn D1, nên ông Phạm Thanh T1
nghĩa vụ trả lại cho ông T giá trquyền sử dụng đất thuộc các thửa đất nêu trên
tài sản gắn liền với các thửa đất với số tiền được thể hiện tại Chứng thư thẩm
định giá số 138/BĐS/2023/CT.ĐA ngày 20/9/2023 là: 45.834.583.989 đồng. Về
lỗi làm cho hợp đồng bị hiệu, thì ông T ông T1 lỗi ngang nhau, nên
việc buộc bên vi phạm có nghĩa vụ bồi thường là không đặt ra xử lý.
[5] Từ các căn cứ nêu trên, Hội đồng xét xử xét thấy, cần:
30
- Chấp nhận một phần yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn ông Nguyễn
Văn T, đối với yêu cầu: Tuyên hiệu các Hợp đồng chuyển nhượng quyền sử
dụng đất số công chứng 012351, quyển số 06TP/CC-SCC/HĐGD công chứng
ngày 29/6/2018 kết giữa ông Minh H với ông Trịnh Trung T2; Hợp đồng
chuyển nhượng quyền sử dụng đất số công chứng 013418, quyển số 08TP/CC-
SCC/HĐGD công chứng ngày 01/8/2018 kết giữa ông Trịnh Trung T2,
Nguyễn Kiều K với ông Minh H; Hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng
đất số công chứng 010511, quyển số 05TP/CC-SCC/HĐGD công chứng ngày
22/5/2018 kết giữa ông Nguyễn n T với ông Lê Minh H; Hợp đồng
chuyển nhượng quyền sử dụng đất số công chứng 010500, quyển số 05TP/CC-
SCC/HĐGD công chứng ngày 22/5/2018 kết giữa ông Nguyễn Văn T với
ông Minh H; Hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất số công chứng
11058, quyển số 09TP/CC-SCC/HĐGD công chứng ngày 28/9/2018 kết giữa
ông Minh H với ông Phạm Thanh T1; Hợp đồng chuyển nhượng quyền sử
dụng đất số công chứng 11057, quyển số 09TP/CC-SCC/HĐGD công chứng
ngày 28/9/2018 kết giữa ông ông Minh H với ông Phạm Thanh T1, Hợp
đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất số công chứng 11059, quyển số
09TP/CC-SCC/HĐGD công chứng ngày 28/9/2018 ký kết giữa ông ông
Minh H với ông Phạm Thanh T1.
Ông Nguyễn Văn T nghĩa vụ trả cho ông Phạm Thanh T1 số tiền
14.000.000.000 đồng.
Ông Phạm Thanh T1 nghĩa vụ trả cho ông Nguyễn Văn T giá trị các
quyền sử dụng đất thuộc các thửa đất số 380, 143, 753 cùng tờ bản đồ số 49
tài sản gắn liền với các thửa đất trên với số tiền được thể hiện tại Chứng thư
thẩm định giá số 138/BĐS/2023/CT.ĐA ngày 20/9/2023 là: 45.834.583.989
đồng.
Trừ số tiền 14.000.000.000 đồng ông Nguyễn Văn T nghĩa vụ thanh
toán cho ông Phạm Thanh T1, ông Phạm Thanh T1 còn phải thanh toán số tiền
còn lại cho ông Nguyễn Văn T là: 31.834.583.989 đồng.
- Không chấp nhận một phần yêu cầu khởi kiện của ông Nguyễn Văn T
đối với các yêu cầu: Tuyên vô hiệu các Hợp đồng thế chấp quyền sử dụng đất ký
kết giữa ông Phạm Thanh T1 với Ngân hàng N4 - Chi nhánh N5. Tuyên hiệu
Hợp đồng ủy quyền sử dụng đất giữa ông Minh H với ông Tạ Hồng N; Hợp
đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất giữa ông Tạ Hồng N với ông Phạm
31
Thanh T1 đối với các thửa đất số 380, 143, 753, cùng tờ bản đồ số 49 được công
chứng tại Văn phòng C1. Công nhận cho ông Nguyễn Văn T diện tích theo kết
quả đo đạc thực tế 2571,6 m
2
đối với thửa đất số 143, tờ bản đồ số 49; diện
tích 2144,9 m
2
đối với thửa đất số 380, tờ bản đồ số 49; diện tích 5007,1 m
2
đối
với thửa đất số 380, tờ bản đồ số 49. Tuyên hủy chỉnh biến động trên trang 4
Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất.
- Chấp nhận toàn bộ yêu cầu độc lập của Ngân hàng N4:
Buộc Công ty Trách nhiệm hữu hạn D1 nghĩa vụ trả cho Ngân hàng
N4 số tiền 36.497.413.699 đồng, trong đó tiền nợ gốc là: 23.000.000.000 đồng;
tiền lãi tính đến hết ngày 20/9/2024 13.497.413.699 đồng, gồm tiền lãi trong
hạn là 106.104.110 đồng, tiền lãi quá là 13.391.309.589 đồng.
Kể từ ngày 21/9/2024 cho đến khi thi hành án xong, Công ty Trách nhiệm
hữu hạn D1 phải tiếp tục chịu tiền lãi, lãi quá hạn phát sinh trên stiền nợ gốc
thực nợ, được thỏa thuận tại Hợp đồng tín dụng số 6221LAV201800197 ngày
16/10/2018 cho đến khi Công ty Trách nhiệm hữu hạn D1 thanh toán hết nợ.
Trong trường hợp Công ty Trách nhiệm hữu hạn D1 thanh toán không đầy
đủ tiền gốc, lãi cho Ngân hàng N4 ngay sau khi Bản án/Quyết định hiệu lực
pháp luật thì Ngân hàng N4 quyền yêu cầu tổ chức, quan thi hành án dân
sự thẩm quyền cưỡng chế, phát mãi toàn bộ các tài sản bảo đảm của ông
Phạm Thanh T1 để thu hồi nợ theo quy định pháp luật.
Trường hợp số tiền thu được từ tài sản bảo đảm không đủ trả nợ cho Ngân
hàng N4 thì, Ngân hàng N4 quyền yêu cầu quan thi hành án dân sự xử
bất kỳ tài sản nào khác thuộc quyền sở hữu, sử dụng của Công ty Trách nhiệm
hữu hạn D1 INTERNATIONAL để thu hồi nợ theo quy định của pháp luật.
[6] Đối với việc ông N với ông T1 thỏa thuận riêng về việc huy động vốn
cùng n lại cho ông T vay, đây lời trình bày thỏa thuận riêng của ông
N, ông T1, Hội đồng xét xử xem xét, đánh giá chứng cứ căn cứ vào các tài liệu,
chứng đã được thu thập trong hồ để xem xét giải quyết hậu quả pháp
của hợp đồng hiệu như thể hiện nêu trên. Trường hợp giữa ông T1 với người
thừa kế quyền, nghĩa vụ của ông N tranh chấp về số tiền 14.000.000.000
đồng thì có quyền khởi kiện bằng vụ án khác.
[7] Đối với Hợp đồng thuê nhà xưởng ngày 22/03/2021 và Hợp đồng thuê
nhà xưởng ngày 30/9/2020 kết giữa Công ty Trách nhiệm hữu hạn H4 với
Công ty Trách nhiệm hữu hạn Một thành viên S. Trong vụ án, các đương sự
32
không tranh chấp, nên không đặt ra xử lý. Trường hợp tranh chấp thì
quyền khởi kiện bằng vụ án khác.
[8] Đối lời trình bày của ông T cho rằng trong quá trình vay số tiền
14.000.000.000 đồng, ông T đã trả nhiều lần tiền lãi cho ông N, được thể hiện
tại Biên nhận ngày 11/4/2019 (bút lục số 687); Giấy nộp tiền ngày 01/11/2019
(bút lục số 686); Giấy nộp tiền ngày 02/10/2019 (bút lục số 685); Giấy nộp tiền
ngày 30/7/2019 (bút lục số 684); Ủy nhiệm chi ngày 01/7/2019 (bút lục số 683)
400.000.000 đồng ông T chuyển qua ứng dụng trên điện thoại. Tuy nhiên,
ông N, ông T1 không thống nhất theo lời ông T trình bày, ông T cũng không đưa
ra tài liệu, chứng cứ chứng minh số tiền nêu trên để thanh toán tiền lãi cho
khoản vay 14.000.000.000 đồng, do đó không căn cứ để buộc ông T1 hoàn
trả số tiền này cho ông T.
[9] Về chi phí xem xét, thẩm định tại chỗ; thẩm định giá tài sản; đăng
thông báo và trích lục hồ sơ:
Bị đơn ông Phạm Thanh T1 chịu 114.770918 đồng, số tiền này ông Phạm
Thanh T1 có nghĩa vụ trả lại cho ông Nguyễn Văn T.
[10] Về án phí dân sự sơ thẩm: Căn cứ quy định tại Nghị quyết số
326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội khóa
14 quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản sử dụng án phí lệ
phí Tòa án;
Ông Phạm Thanh T1 phải chịu án phí không có giá ngạch là 300.000 đồng
đối với yêu cầu của ông T được Hội đồng xét xử chấp nhận và chịu án phí có giá
ngạch đối với nghĩa vụ về tài sản phải trả cho ông T, với số tiền án phí là:
139.834.583 đồng, tổng án phí là: 140.134.583 đồng.
Ông T phải chịu án phí 300.000 đồng đối với yêu cầu khởi kiện không
được Hội đồng xét xử chấp nhận. Trừ vào số tiền tạm ứng án phí 3.900.000
đồng ông T đã nộp tại Biên lai thu số AA/2021/0011894 ngày 28/7/2022 của
Chi cục Thi hành án dân sự thị (nay thành phố ), tỉnh Bình Dương, trả lại
cho ông T số tiền là 3.600.000 đồng.
Công ty Trách nhiệm hữu hạn D1 phải chịu số tiền án phí 144.497.413
đồng đối với yêu cầu độc lập của Ngân hàng N4 được Hội đồng xét xử chấp
nhận.
Chi cục Thi hành án dân sự thị (nay thành phố ), tỉnh Bình Dương
trả lại cho Ngân hàng N4 số tiền tạm ứng án phí đã nộp là: 69.560.542 đồng tại
Biên lai thu số AA/2021/0001194 ngày 21/10/2022.
33
[11] Xét ý kiến của Kiểm sát viên tại phiên tòa sơ thẩm, là phù hợp với hồ
sơ vụ án, nên Hội đồng xét xử thống nhất.
Vì các lẽ trên,
QUYẾT ĐỊNH:
Căn cứ:
- Các Điều 105, 115, 119, 122, 124, 131, 133, 166, 463, 466, khoản 2
Điều 468; các Điều 470, 502 Bộ luật dân sự năm 2015;
- Các Điều 91, 94, 95 Điều 98 Luật Các tổ chức tín dụng năm 2014
được sửa đổi, bồ sung năm 2017;
- Các Điều 26, 35, 39, 92, 144, 147, 157, 165; 227, 228, 244, 266, 271,
273 Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2015;
- Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường
vụ Quốc hội khóa 14;
1. Chấp nhận một phần yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn ông Nguyễn
Văn T về việc “Tranh chấp Hợp đồng vay tài sản; hợp đồng chuyển nhượng
quyền sử dụng đất”.
- Tuyên vô hiệu các hợp đồng sau:
+ Hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất số công chứng 012351,
quyển số 06TP/CC-SCC/HĐGD công chứng ngày 29/6/2018 ký kết giữa ông
Minh H với ông Trịnh Trung T2;
+ Hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất số công chứng 013418,
quyển số 08TP/CC-SCC/HĐGD công chứng ngày 01/8/2018 kết giữa ông
Trịnh Trung T2, bà Nguyễn Kiều K với ông Lê Minh H;
+ Hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất số công chứng 010511,
quyển số 05TP/CC-SCC/HĐGD công chứng ngày 22/5/2018 kết giữa ông
Nguyễn Văn T với ông Lê Minh H;
+ Hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất số công chứng 010500,
quyển số 05TP/CC-SCC/HĐGD công chứng ngày 22/5/2018 kết giữa ông
Nguyễn Văn T với ông Lê Minh H;
+ Hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất số công chứng 11058,
quyển số 09TP/CC-SCC/HĐGD công chứng ngày 28/9/2018 ký kết giữa ông
Minh H với ông Phạm Thanh T1;
34
+ Hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất số công chứng 11057,
quyển số 09TP/CC-SCC/HĐGD công chứng ngày 28/9/2018 kết gia ông
ông Lê Minh H với ông Phạm Thanh T1;
+ Hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất số công chứng 11059,
quyển số 09TP/CC-SCC/HĐGD công chứng ngày 28/9/2018 kết giữa ông
ông Lê Minh H với ông Phạm Thanh T1.
- Buộc ông Nguyễn Văn T nghĩa vụ trả cho ông Phạm Thanh T1 số
tiền 14.000.000.000 (mười bốn tỉ) đồng.
- Buộc ông Phạm Thanh T1 nghĩa vụ trả cho ông Nguyễn Văn T giá trị
quyền sử dụng đất thuộc các thửa đất số 380, 143, 753 cùng tờ bản đồ số 49
tài sản gắn liền với các thửa đất nêu trên với số tiền là: 45.834.583.989 (bốn
mươi lăm tỉ, tám trăm ba mươi bốn triệu, năm trăm tám mươi ba nghìn, chín
trăm tám mươi chín) đồng.
Trừ số tiền 14.000.000.000 đồng ông Nguyễn Văn T nghĩa vụ thanh
toán cho ông Phạm Thanh T1, Ông Phạm Thanh T1 còn phải thanh toán cho ông
Nguyễn Văn T số tiền còn lại là: 31.834.583.989 (ba mươi mốt tỉ, tám trăm ba
mươi bốn triệu, năm trăm tám mươi ba nghìn, chín trăm tám mươi chín) đồng.
Kể từ ngày đơn yêu cầu thi hành của ông Nguyễn Văn T cho đến khi
thi hành án xong, hàng tháng ông Phạm Thanh T1 còn phải chịu khoản tiền lãi
của số tiền còn phải thi hành án theo mức lãi suất quy định tại khoản 2 Điều 468
Bộ luật Dân sự năm 2015 tương ứng với thời gian chưa thi hành án xong.
2. Không chấp nhận một phần yêu cầu khởi kiện của ông Nguyễn Văn T
về việc “Tranh chấp Hợp đồng ủy quyền; Hợp đồng thế chấp tài sản; yêu cầu
hủy chỉnh lý biến động trên trang 4 Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất” đối với
các yêu cầu:
- Hủy chỉnh biến động trên Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất số
BP128566, số vào sổ cấp giấy chứng nhận CH03574, theo các hồ chỉnh
biến động số 003574.CN.003 ngày 27/7/2018, hồ chỉnh lý biến động số
003574.CN.004 ngày 09/8/2018, h chỉnh biến động số 003574.CN.005
ngày 11/10/2018; tuyên hiệu Hợp đồng thế chấp quyền sử dụng đất của bên
thứ ba số 6221LCL201800184 ngày 16/10/2018, kết giữa ông Phạm Thanh
T1 với Ngân hàng N4 - Chi nhánh N5.
35
- Hủy chỉnh biến động trên Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất số
BP128564, số vào sổ cấp giấy chứng nhận CH03572, theo các hồ chỉnh
biến động số 003572.CN.004 ngày 24/7/2018, hồ chỉnh lý biến động số
003572.CN.005 ngày 11/10/2018; tuyên hiệu hợp đồng thế chấp quyền sử
dụng đất của bên thứ ba số 6221LCL201800186 ngày 16/10/2018, kết giữa
ông Phạm Thanh T1 với Ngân hàng N4- Chi nhánh N5.
- Hủy chỉnh biến động trên Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất số
BX194693, số vào sổ cấp giấy chứng nhận CH04039, theo các hồ chỉnh
biến động số 004039.CN.004 ngày 24/7/2018, hồ chỉnh lý biến động số
004039.CN.005 ngày 11/10/2018; tuyên hiệu Hợp đồng thế chấp quyền sử
dụng đất của bên thứ ba số 6221LCL201800187 ngày 16/10/2018 kết giữa
ông Phạm Thanh T1 với Ngân hàng N4 - Chi nhánh N5.
- Công nhận cho ông Nguyễn Văn T quyền sử dụng đất theo diện tích đo
đạc thực tế thể hiện tại Mảnh trich lục đo đạc chỉnh số 44-2023 ngày
13/7/2023 của Chi nhánh Văn phòng Đ1 (nay thành phố ), tỉnh Bình Dương
2571,6 m
2
, thuộc thửa đất số 143, tờ bản đồ số 49; diện tích 2144,9 m
2
, thuộc
thửa đất số 380, tờ bản đồ số 49; diện tích là 5007,1 m
2
thuộc thửa đất số 380, tờ
bản đồ số 49. Đất tọa lạc tại tổ A, khu phố A, phường A, thành phố B, tỉnh Bình
Dương.
- Tuyên hiệu các Hợp đồng ủy quyền sử dụng đất giữa ông Minh H
với ông Tạ Hồng N, Hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất giữa ông Tạ
Hồng N với ông Phạm Thanh T1 đối với các thửa đất số 380, 143, 753, cùng tờ
bản đồ số 49 được công chứng tại Văn phòng C1. Tuyên hủy đăng biến động
trên Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất sang tên cho ông Tạ Hồng N.
3. Chấp nhận toàn bộ yêu cẩu độc lập của Ngân hàng N4 về việc: “Tranh
chấp Hợp đồng tín dụng” đối với người quyền lợi, nghĩa vụ liên quan Công
ty Trách nhiệm hữu hạn D1.
- Buộc Công ty Trách nhiệm hữu hạn D1 nghĩa vụ trả cho Ngân hàng
N4 số tiền 36.497.413.699 (ba mươi sáu tỉ, bốn trăm chín mươi bảy triệu, bốn
trăm mười ba nghìn, sáu trăm chín mươi chín) đồng, trong đó tiền nợ gốc là:
23.000.000.000 (hai mươi ba tỉ) đồng; tiền lãi tính đến hết ngày 20/9/2024
13.497.413.699 (mười ba tỉ, bốn trăm chín mươi bảy triệu, bốn trăm mười ba
nghìn, sáu trăm chín mươi chín) đồng, gồm tiền i trong hạn 106.104.110
đồng, tiền lãi quá là 13.391.309.589 đồng.
36
Kể từ ngày 21/9/2024 cho đến khi thi hành án xong, Công ty Trách nhiệm
hữu hạn D1 phải tiếp tục chịu tiền lãi, lãi quá hạn phát sinh trên số tiền nợ gốc
thực nợ, được thỏa thuận tại Hợp đồng tín dụng số 6221LAV201800197 ngày
16/10/2018 cho đến khi Công ty Trách nhiệm hữu hạn D1 thanh toán hết nợ.
Trong trường hợp Công ty Trách nhiệm hữu hạn D1 không thanh toán
hoặc thanh toán không đầy đủ tiền gốc, lãi cho Ngân hàng N4 ngay sau khi Bản
án hiệu lực pháp luật thì Ngân hàng N4 quyền yêu cầu tổ chức, quan
thi hành án dân sự thẩm quyền cưỡng chế, phát mãi toàn bộ các tài sản bảo
đảm của ông Phạm Thanh T1 để thu hồi nợ, tài sản đảm bảo gồm:
- Quyền sử dụng đất và toàn bộ tài sản gắn liền với thửa đất số 143, tờ bản
đồ số 49, theo Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất quyền sở hữu nhà i
sản khác gắn liền với đất số BP128564, số vào sổ cấp giấy chứng nhận
CH03572 do Ủy ban nhân dân huyện (nay thành ph), tỉnh Bình Dương cấp
ngày 13/02/2014; cập nhật chỉnh sang tên ông Phạm Thanh T1 theo hồ số
003572.CN.005 ngày 11/10/2018.
- Quyền sử dụng đất và toàn bộ tài sản gắn liền với thửa đất số 380, tờ bản
đồ số 49, theo Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất quyền sở hữu nhà tài
sản khác gắn liền với đất số BP128566, số vào sổ cấp giấy chứng nhận
CH03574 do Ủy ban nhân dân huyện (nay thành ph), tỉnh Bình Dương cấp
ngày 13/02/2014; cập nhật chỉnh sang tên ông Phạm Thanh T1 theo hồ số
003574.CN.005 ngày 11/10/2018.
- Quyền sử dụng đất và toàn bộ tài sản gắn liền với thửa đất số 753, tờ bản
đồ số 49, theo Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất quyền sở hữu nhà tài
sản khác gắn liền với đất số BX194693, số vào sổ cấp giấy chứng nhận
CH04039 do Ủy ban nhân dân huyện (nay thành ph), tỉnh Bình Dương cấp
ngày 17/11/2014; cập nhật chỉnh sang tên ông Phạm Thanh T1 theo hồ số
004039.CN.005 ngày 11/10/2018.
Quyền sử dụng đất tài sản gắn liền với quyền sử dụng đất tọa lạc tại:
Tổ A, khu phố A, phường A, thành phố B, tỉnh Bình Dương.
Trường hợp số tiền thu được từ tài sản bảo đảm không đủ trả nợ cho Ngân
hàng N4 thì, Ngân hàng N4 quyền yêu cầu quan thi hành án n sự xử
bất kỳ tài sản nào khác thuộc quyền sở hữu, sử dụng của Công ty Trách nhiệm
hữu hạn D1 INTERNATIONAL để thu hồi nợ theo quy định của pháp luật.
37
4. Về chi phí xem xét, thẩm định tại chỗ; thẩm định giá tài sản; đăng
thông báo và trích lục hồ sơ:
Ông Phạm Thanh T1 phải chịu 114.770.918 (một trăm mười bốn triệu,
bảy trăm bảy mươi nghìn, chín trăm mười tám) đồng, số tiền này ông Phạm
Thanh T1 có nghĩa vụ trả lại cho ông Nguyễn Văn T.
5. Về án phí dân sự sơ thẩm:
- Ông Phạm Thanh T1 phải chịu án phí là: 140.134.583 (một trăm bốn
mươi triệu, một trăm ba mươi bốn nghìn, năm trăm tám mươi ba) đồng.
- Ông Nguyễn Văn T phải chịu án phí là 300.000 (ba trăm nghì) đồng. Trừ
vào số tiền tạm ứng án phí 3.900.000 đồng ông Nguyễn Văn T đã nộp tại Biên
lai thu số AA/2021/0011894 ngày 28/7/2022 của Chi cục Thi hành án dân sự thị
(nay thành phố ), tỉnh Bình Dương. Trả lại cho ông Nguyễn Văn T số tiền
là 3.600.000 (ba triệu, sáu trăm nghìn) đồng.
- Công ty Trách nhiệm hữu hạn D1 phải chịu số tiền án phí là:
144.497.413 (một trăm bốn mươi bốn triệu, bốn trăm chín mươi bảy nghìn, bốn
trăm mười ba) đồng.
- Chi cục Thi hành án dân sự thị (nay thành phố ), tỉnh Bình Dương
trả lại cho Ngân hàng N4 số tiền tạm ứng án phí đã nộp là: 69.560.542 (sáu
mươi chín triệu, năm trăm sáu mươi nghìn, năm trăm bốn mươi hai) đồng tại
Biên lai thu số AA/2021/0001194 ngày 21/10/2022.
6. Về quyền kháng cáo: Các đương sự mặt tại phiên tòa, quyền
kháng cáo Bản án trong thời hạn 15 (mười lăm) ngày kể từ ngày tuyên án.
Đương sự vắng mặt tại phiên tòa, quyền kháng cáo Bản án trong thời hạn 15
(mười lăm) ngày kể từ ngày nhận được Bản án hoặc Bản án được niêm yết theo
quy định pháp luật.
(Bản án có kèm theo Bản vẽ)
Trường hợp bản án, quyết định được thi hành theo quy định tại Điều 2
Luật thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành
án dân sự có quyền thỏa thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện
thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định các Điều 6, 7 9 Luật
thi hành án dân sự; thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều
30 Luật thi hành án dân sự./.
38
Nơi nhận:
- TAND tỉnh Bình Dương;
- VKSND thành phố Bến Cát;
- Chi cục THADS thành phố Bến Cát;
- Các đương sự;
- Những người tham gia tố tụng khác;
- Lưu: HSVA;VT.
TM. HỘI ĐỒNG XÉT XỬ SƠ THẨM
THẨM PHÁN – CHỦ TỌA PHIÊN TÒA
Lê Cẩm Hằng
Tải về
Bản án số 164/2024/DS-ST Bản án số 164/2024/DS-ST

Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để tải file. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!

Bản án số 164/2024/DS-ST Bản án số 164/2024/DS-ST

Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để tải file. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!

Bản án/ Quyết định cùng đối tượng

Bản án cùng lĩnh vực

Bản án mới nhất