Bản án số 159/2024/DS-PT ngày 25/11/2024 của TAND tỉnh Thái Nguyên về tranh chấp hợp đồng tín dụng
- Thuộc tính
- Nội dung
- VB gốc
- VB liên quan
- Lược đồ
- Đính chính
- Án lệ
- BA/QĐ cùng nội dung
- Tải về
Tải văn bản
-
Bản án số 159/2024/DS-PT
Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để tải file. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!
-
Bản án số 159/2024/DS-PT
Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để tải file. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!
Báo lỗi
Thuộc tính Bản án 159/2024/DS-PT
Tên Bản án: | Bản án số 159/2024/DS-PT ngày 25/11/2024 của TAND tỉnh Thái Nguyên về tranh chấp hợp đồng tín dụng |
---|---|
Quan hệ pháp luật: | Tranh chấp hợp đồng tín dụng |
Cấp xét xử: | Phúc thẩm |
Tòa án xét xử: | TAND tỉnh Thái Nguyên |
Số hiệu: | 159/2024/DS-PT |
Loại văn bản: | Bản án |
Ngày ban hành: | 25/11/2024 |
Lĩnh vực: | Dân sự |
Áp dụng án lệ: |
Đã biết
Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để xem áp dụng án lệ. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây! |
Đính chính: |
Đã biết
Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để xem đính chính. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây! |
Thông tin về vụ/việc: | Ngân hàng TMCP DD1- Nguyễn Trung Đ |
Tóm tắt Bản án
Nội dung tóm tắt đang được cập nhật, Quý khách vui lòng quay lại sau!
Tải văn bản
1
TÒA ÁN NHÂN DÂN
TỈNH THÁI NGUYÊN
CỘNG HÒA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM
Độc lập - Tự do - Hạnh phúc
Bản án s: 159/DS-PT
Ngày: 25/11/2024
V/ v: Tranh chấp Hợp đồng tín dụng
NHÂN DANH
NƯỚC CỘNG HÒA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM
TÒA ÁN NHÂN DÂN TỈNH THÁI NGUYÊN
- Thành phần Hội đồng xét xử phúc thẩm gồm có:
Thẩm phán - Chủ tọa phiên tòa: Ông Hoàng Quý Sửu
Các thẩm phán: Bà Lê Thị Hồng Phương và bà Nguyễn Thị Thuỷ
- Thư ký phiên tòa: Bà Lý Bích Ngọc, Thư ký Tòa án nhân dân tỉnh Thái
Nguyên
- Đại diện Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Thái Nguyên: Bà Vũ Thị Năm,
Kiểm sát viên.
Ngày 25/11/2024, tại Hội trường xét xử Tòa án nhân dân tỉnh Thái Nguyên,
xét xử phúc thẩm công khai vụ án dân sự thụ lý s 159/2024/DS-PT ngày
08/10/2024, về việc tranh chấp Hợp đồng tín dụng, hợp đồng thế chấp tài sản.
Do bản án Dân sự sơ thẩm s 20/2024/DS-ST ngày 15/8/2024 của Tòa án
nhân dân huyện Đại Từ, tỉnh Thái Nguyên có kháng cáo.
Theo quyết định đưa vụ án ra xét xử s 198/2024/QĐ-PT ngày
08/11/2024; giữa các đương sự:
Nguyên đơn: Ngân hàng TMCP Đ1 (S1); địa chỉ: A T, phường L, H, Hà
Nội.
Người đại diện theo ủy quyền: Ông Trần Hải V; Chức vụ: Chuyên viên xử
lý nợ Ngân hàng TMCP Đ1; có mặt.
Bị đơn: Anh Nguyễn Trung Đ, sinh năm 1995; địa chỉ: Xóm D, xã K,
huyện Đ, tỉnh Thái Nguyên; có mặt.
Người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan có yêu cầu độc lập:
1. Bà Nguyễn Thị C, sinh năm 1947; địa chỉ: Xóm G, xã K, huyện Đ, tỉnh
Thái Nguyên; có mặt.
2. Chị Nguyễn Ngọc V1, sinh năm 1979; địa chỉ: S C H, phường C, quận
H, Tp Hà Nội; có mặt.
Người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan:
2
1. Phòng C1 tỉnh Thái Nguyên; đại diện theo ủy quyền: Bà Nguyễn Thị
Thùy L, sinh năm 1981; có đơn xin xét xử vắng mặt.
2. Ông Nguyễn Văn H, sinh năm 1942 (đã chết ngày 13/5/2023);
Người kế thừa quyền và nghĩa vụ tố tụng của ông H:
1. Bà Nguyễn Thị C, sinh năm 1947; địa chỉ: Xóm G, xã K, huyện Đ, tỉnh
Thái Nguyên; có mặt.
2. Chị Nguyễn Thị H1, sinh năm 1971; địa chỉ: TDP S, thị trấn H, huyện Đ,
tỉnh Thái Nguyên; có mặt.
3. Anh Nguyễn Văn S, sinh năm 1973; địa chỉ: Xóm G, xã K, huyện Đ, tỉnh
Thái Nguyên; có mặt.
4. Anh Nguyễn Văn H2, sinh năm 1975; địa chỉ: Xóm G, xã K, huyện Đ,
tỉnh Thái Nguyên; vắng mặt.
5. Chị Nguyễn Ngọc V1, sinh năm 1979; địa chỉ: C H, phường C, quận H,
Tp Hà Nội; có mặt.
6. Anh Nguyễn Văn T, sinh năm 1980; địa chỉ: Xóm G, xã K, huyện Đ,
tỉnh Thái Nguyên; vắng mặt.
7. Chị Nguyễn Thị B, sinh năm 1982; địa chỉ: Xóm G, xã K, huyện Đ, tỉnh
Thái Nguyên; vắng mặt.
NỘI DUNG VỤ ÁN:
Nguyên đơn Ngân hàng TMCP Đ1 (S1) trình bày:
Ngày 30/10/2019, anh Nguyễn Trung Đ ký Hợp đồng vay hạn mức s
REF1927500126/HDTD/TNC-NTD với Ngân hàng TMCP Đ1 - Chi nhánh T1,
gồm: Hạn mức tín dụng 450.000.000 đồng; Mục đích vay vn: bổ sung vn lưu
động phục vụ hoạt động kinh doanh; Thời hạn hiệu lực của HMTD là: 12 tháng
tính từ ngày ký hợp đồng; Thời hạn ti đa của mỗi khoản vay trong HMTD
không quá 05 tháng; Lãi suất cho vay trong hạn: được xác định tại thời điểm giải
ngân/nhận nợ bắt buộc của từng món tiền vay và được ghi trong từng Giấy nhận
nợ; Lãi suất quá hạn = 150% lãi suất trong hạn và được áp dụng đi với dư nợ
gc quá hạn; và/hoặc bằng 10%/năm và được áp dụng đi với dư nợ lãi chậm
trả.
Ngày 27/09/2019, anh Đ đề nghị mở thẻ tín dụng VISA với hạn mức tín
dụng được phê duyệt 10.000.000 đồng. S1 đã giải ngân và anh Nguyễn Trung Đ
đã nhận nợ theo đúng quy định.
Tài sản bảo đảm cho khoản vay:
Quyền sử dụng đất và tài sản gắn liền với
đất tại thửa đất s 429, tờ bản đồ s 23, diện tích 100m
2
, Sở Tài nguyên và Môi
trường tỉnh T cấp Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, quyền sở hữu nhà ở và tài
sản khác gắn liền với đất ngày 08/07/2016 mang tên bà Nguyễn Ngọc V1. Hợp
đồng thế chấp quyền sử dụng đất được Phòng C1 tỉnh Thái Nguyên công chứng
và đăng ký giao dịch bảo đảm theo quy định.
3
Kể từ ngày 17/8/2020, anh Nguyễn Trung Đ đã vi phạm nghĩa vụ trả nợ
gc và nợ lãi cho S1. S1 đã nhiều lần đôn đc, yêu cầu anh Nguyễn Trung Đ trả
nợ nhưng anh Đ vẫn không thực hiện theo yêu cầu của Ngân hàng, có biểu hiện
kéo dài thời gian và c tình trn tránh nghĩa vụ trả nợ.
Tính đến ngày 11/5/2022, anh Nguyễn Trung Đ đã trả cho S1 s tiền như
sau: Gc: 0 đồng; lãi trong hạn: 13.428.286 đồng; lãi quá hạn: 23.024 đồng.
Tổng: 13.447. 310.đồng.
Đến nay anh Đ còn nợ Ngân hàng gồm: Nợ gc: 450.693.000đồng; lãi
trong hạn: 7.702.289 đồng; lãi quá hạn: 300.487.814 đồng. Tổng cả gc và lãi:
758.190.103 đồng; Thẻ Visa: Nợ gc: 693.000đ; Lãi quá hạn: 1.119.243đ; Tổng
hai khoản nợ hợp đồng và thẻ visa: 760.002.346đ.
S1 đề nghị Tòa án buộc anh Nguyễn Trung Đ phải trả cho Ngân hàng
khoản tiền vay theo Hợp đồng tín dụng và thẻ visa, gồm khoản gc, nợ lãi trong
hạn là lãi quá hạn tính đến ngày 15/8/2024, tổng cộng: 760.002.346 đồng. Anh
Đ còn phải thanh toán cho S1 s tiền lãi phát sinh theo lãi suất quá hạn theo các
Hợp đồng tín dụng cho đến khi thanh toán xong toàn bộ khoản nợ.
Kể từ ngày Bản án của Tòa án có hiệu lực thi hành nếu anh Đ không thực
hiện nghĩa vụ thanh toán khoản nợ nêu trên, thì S1 có quyền yêu cầu cơ quan thi
hành án dân sự tiến hành kê biên, phát mại tài sản bảo đảm là: Quyền sử dụng
đất và tài sản gắn liền với đất tại thửa đất s 429, tờ bản đồ địa chính s 23 xã K,
huyện Đ, tỉnh Thái Nguyên, Sở Tài Nguyên và Môi trường tỉnh T cấp giấy
chứng nhận quyền sử dụng đất ngày 08/7/2016 mang tên Nguyễn Ngọc V1. Nếu
s tiền thu được từ bán/xử lý tài sản bảo đảm vẫn không đủ trả nợ cho S1 thì anh
Nguyễn Trung Đ vẫn phải tiếp tục thực hiện nghĩa vụ trả nợ cho S1 cho đến khi
tất toán toàn bộ khoản vay.
Về chi phí t tụng: Yêu cầu anh Đ có nghĩa vụ hoàn trả Ngân hàng.
Bị đơn, anh Nguyễn Trung Đ trình bày:
Anh Đ là cháu gọi bà Nguyễn Ngọc V1 là dì ruột, năm 2019 bà V1 cần tiền
để làm ăn nên nhờ anh vay hộ Ngân hàng Đ1 s tiền gc 450.000.000đ. Sau khi
nhân được khoản tiền vay của ngân hàng, anh đưa toàn bộ cho bà V1.
Giữa anh và bà V1 có văn bản thỏa thuận riêng, bà V1 nhận toàn bộ khoản
tiền do anh đứng tên vay giúp, lãi hàng tháng bà V2 có trách nhiệm giao cho anh
trả. Bà V1 đã thế chấp thửa đất s 429, thuộc xóm G, xã K, huyện Đ, tỉnh Thái
Nguyên. Do khoản nợ anh Đ đứng tên trên hợp đồng vay, nhưng bà V1 không
trả được, anh là người chịu trách nhiệm về mặt pháp lý. Đề nghị ngân hàng xử lý
tài sản thế chấp của bà V1 để thu hồi nợ.
Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan có yêu cầu độc lập trình bầy:
Bà Nguyễn Thị Công trình bày:
Đầu năm 1999, vợ chồng bà C, ông H mua một mảnh đất và cho con gái là
Nguyễn Ngọc V1 đứng tên. Do ông Nguyễn Văn H là thương binh hạng ¼, năm
2014, vợ chồng bà được Nhà nước hỗ trợ người có công để xây dựng nhà tình
4
nghĩa trên mảnh đất cho chị V1 đứng tên. Năm 2019, chị V1 đem nhà và đất đi
thế chấp Ngân hàng Đ1 để bảo lãnh cho khoản vay của anh Đ. Chị V1 đem nhà
đi thế chấp cả hai vợ chồng bà không hề biết, không nhận được thông tin gì và
cũng không ký bất cứ văn bản nào đi với Ngân hàng. Nay ngân hàng khởi kiện,
bà C có đơn yêu cầu độc lập đề nghị Tòa án tuyên b hợp đồng thế chấp thửa đất
ông bà cho chị V1 đứng tên vô hiệu, yêu cầu trả lại ngôi nhà tình nghĩa và đất
cho gia đình bà.
Chị Nguyễn Ngọc V1 trình bày:
Tháng 10/2019, anh Đ lập hợp đồng tín dụng với ngân hàng Đ1 để vay hộ
b mẹ đẻ anh Đ là ông H3, bà H1 s tiền vay gc 450.000.000đ.
Về Hợp đồng thế chấp quyền sử dụng đất và tài sản trên đất: Thửa đất s
429 là tài sản thế chấp cho Ngân hàng hiện này là tiêu chuẩn của Nhà nước phân
mua tái định cư cho b mẹ chị là ông H, bà C, diện tích 100m
2
. Năm 2014, b
mẹ chị sợ các con tranh chấp tài sản nên đã làm hợp đồng tặng cho nhà đất tại
thửa đất 429, tờ bản đồ s 23, diện tích 100m
2
, địa chỉ: xã K, huyện Đ, tỉnh Thái
Nguyên cho một mình chị đứng tên, mục đích để sau này làm nơi thờ cúng tổ
tiên. Khi cho, ông H, bà C nói là thủ tục tặng cho có điều kiện, chỉ cho chị đứng
tên mà không được bán. Ngày 08/07/2016, Sở Tài nguyên và Môi trường tỉnh T
cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất mang tên Nguyễn Ngọc V1. Thực tế
giấy chứng nhận QSD đất do b mẹ chị quản lý vì trên đất có nhà ông và bà vẫn
đang ở xây dựng nhà tạm từ năm 1999.
Năm 2019, do cần vn làm ăn, nhưng do nợ xấu, không có khả năng vay
ngân hàng nên chị gái ruột của chị cho con trai là Nguyễn Trung Đ đứng tên vay
Ngân hàng Đ1 và bảo chị làm thủ tục thế chấp thửa đất s 429 cho Ngân hàng
để đảm bảo khoản tiền vay.
Năm 2023, ông Nguyễn Văn H chết, nhà đất mà Ngân hàng cho rằng chị đã
thế chấp và yêu cầu xử lý nếu anh Đ không trả được nợ, tuy nhiên, thời điểm
năm 2019 b, mẹ chị còn đang trực tiếp sinh sng tại ngôi nhà là tài sản do b là
người có công được nhà nước hỗ trợ xây dựng (gọi là nhà tình nghĩa), b chị là
thương binh loại ¼ mất 87% sức khoẻ, do nhà ở của b mẹ xây tạm từ năm 1999
đã xung cấp nên được hỗ trợ xây nhà ở. Khi Ngân hàng lập hợp đồng thế chấp
b mẹ chị cũng không tham gia ký vào hợp đồng thế chấp mặc dù đang trực tiếp
ở trên thửa đất, quản lý tài sản được hỗ trợ xây dựng nêu trên. Ngoài nhà đất là
tài sản thế chấp, b mẹ chị không có nơi ở nào khác.
Nay Ngân hàng đề nghị phát mại tài sản thế chấp nếu anh Đ không thực
hiện nghĩa vụ trả nợ, chị V1 cho rằng Hợp đồng thế chấp không đúng theo quy
định của pháp luật, đề nghị Tòa án tuyên vô hiệu, yêu cầu Ngân hàng xoá thế
chấp trả lại giấy chứng nhận quyền sử dụng đất cho chị.
* Những người kế thừa quyền và nghĩa vụ của người có quyền lợi, nghĩa vụ
liên quan trình bày:
Chị Nguyễn Thị H1 trình bày:
5
Chị H1 là con đẻ của ông Nguyễn Văn H và bà Nguyễn Thị C. Thửa đất s
429, tờ bản đồ s 23, diện tích 100m2 tại xã K, huyện Đ là của ông H, bà C. Do
b mẹ nhiều con, sợ các con tranh chấp, nên cho chị V1 là con gái út đứng tên,
mục đích sau này làm nơi thờ cúng, thực tế ông H, bà C vẫn là người quản lý,
xây nhà trên đất từ năm 1999. Năm 2016 chị V1 được Sở Tài nguyên & môi
trường tỉnh T cấp giấy chứng nhận QSD đất mang tên Nguyễn Ngọc V1, thực
chất vẫn là đất của b mẹ. Năm 2019, chị V1 cần vn kinh doanh nên nhờ anh Đ
là con trai chị H1 đứng tên vay ngân hàng Đ1 s tiền 450.000.000đ và thế chấp
thửa đất 429 cho Ngân hàng. Việc thế chấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất
của chị V1 hoàn toàn không đúng. Năm 2023 ông H chết, chị Nguyễn Thị H1
nhất trí với ý kiến của bà C, đề nghị Ngân hàng trả lại giấy chứng nhận QSD đất
do việc thế chấp không đúng.
Anh Nguyễn Văn S, Nguyễn Văn H2, Nguyễn Văn T, Nguyễn Thị B trình
bày:
Các anh chị là con đẻ của ông Nguyễn Văn H và bà Nguyễn Thị C. Thửa
đất s 429, tờ bản đồ s 23, diện tích 100m2 tại xã K, huyện Đ là của ông H, bà
C. Do b mẹ nhiều con, sợ các con tranh chấp, nên cho chị V1 là con gái út
đứng tên, mục đích sau này làm nơi thờ cúng, thực tế ông H, bà C vẫn là người
quản lý, xây nhà trên đất từ năm 1999. Năm 2016 chị V1 được Sở Tài nguyên &
Môi trường tỉnh T cấp giấy chứng nhận QSD đất mang tên Nguyễn Ngọc V1,
thực chất vẫn là đất của b mẹ. Năm 2019, chị V1 đã thế chấp thửa đất cho anh
Đ là con trai chị H1 vay ngân hàng Đ1 s tiền 450.000.000đ. Việc thế chấp
quyền sử dụng đất của chị V1 ông H, bà C không biết. Năm 2023 ông H chết,
anh S, anh H2, anh T, chị B nhất trí với ý kiến của bà C, đề nghị Ngân hàng trả
lại giấy chứng nhận QSD đất do việc thế chấp không đúng.
Tại bản án dân sự sơ thẩm s 20/2024/DS-ST ngày 15/8/2024 của Tòa án
nhân dân huyện Đại từ, tỉnh Thái Nguyên đã quyết định:
1. Chấp nhận một phần yêu cầu khởi kiện của Ngân hàng TMCP Đ1 đi
với anh Nguyễn Trung Đ về việc thanh toán khoản tiền nợ gc, lãi quá hạn,
phạt lãi quá hạn.
2. Buộc anh Nguyễn Trung Đ thực hiện nghĩa vụ trả nợ Ngân hàng TMCP
Đ1 tổng s tiền gồm nợ gc, nợ lãi tính đến ngày xét xử (15/8/2024), gồm hai
khoản: Hợp đồng hạn mức và thẻ visa: tổng là 760.002.346 đ (Bẩy trăm sáu
mươi triệu không trăm lẻ hai ngàn ba trăm bốn sáu đồng), trong đó: nợ gc:
450.693.000 đ; nợ lãi trong hạn: 7.702.289 đ; lãi quá hạn: 301.607.057 đ. Cụ
thể s tiền theo từng Hợp đồng như sau:
2.1 Hợp đồng hạn mức s REF1927500126/HDTD/TNC-NTD ngày
30/10/2019: S Nợ gc: 450.000đ; Lãi trong hạn: 7.702.289 đ; Lãi quá hạn:
300.487.814 đ. Tổng cả gc và lãi: 758.190.103 đ.
2.2. Thẻ Visa, sử dụng thẻ tín dụng Quc tế dành cho khách hàng cá nhân,
nợ gc: Nợ gc: 693.000đ; Lãi trong hạn: 0 đ; Lãi quá hạn: 1.119.243đ; Tổng
1.812.243 đ.
6
Kể từ ngày tiếp theo của ngày xét xử sơ thẩm (16/8/2024) hàng tháng anh
Đ còn phải tiếp tục chịu khoản tiền lãi quá hạn của số tiền nợ gốc chưa thanh
toán, theo mức lãi suất mà các bên thỏa thuận trong các hợp đồng tín dụng cho
đến khi thanh toán xong khoản nợ gốc này. Trường hợp trong hợp đồng tín
dụng, các bên có thoả thuận điều chỉnh lãi suất cho vay theo từng thời kỳ của
Ngân hàng cho vay thì lãi suất mà khách hàng vay phải tiếp tục thanh toán cho
Ngân hàng cho vay theo quyết định của Toà án cũng sẽ được điều chỉnh cho phù
hợp với sự điều chỉnh lãi suất của Ngân hàng cho vay.
3. Không chấp nhận một phần yêu cầu khởi kiện của Ngân hàng TMCP Đ1
về yêu cầu xử lý tài sản thế chấp để thu hồi nợ là Quyền sử dụng đất và tài sản
gắn liền với đất thuộc 429, tờ bản đồ s: 23, diện tích: 100m
2
, địa chỉ: xã K,
huyện Đ, tỉnh Thái Nguyên. Giấy chứng nhận QSD đất s CĐ400540, s vào
Sổ cấp GCN: CS00044 do Sở Tài nguyên và Môi trường tỉnh T cấp ngày
08/07/2016.
4. Chấp nhận yêu cầu độc lập của người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan có
yêu cầu độc lập bà Nguyễn Thị C, chị Nguyễn Ngọc V1.
Tuyên b Hợp đồng thế chấp quyền sử dụng đất s:
REF1927500126/HDTC/TNC-NTD, s công chứng: 4300, Quyển s: 02
TP/CC-SCC/HĐGD ngày 24/4/2019 tại Phòng C1 tỉnh Thái Nguyên, giữa bên
nhận thế chấp Ngân hàng TMCP Đ1 với bên thế chấp bà Nguyễn Ngọc V1, đi
với thửa đất 429, tờ bản đồ s: 23, diện tích: 100m
2
, địa chỉ: xã K, huyện Đ, tỉnh
Thái Nguyên. Giấy chứng nhận QSD đất s CĐ400540, s vào Sổ cấp GCN:
CS00044 do Sở Tài nguyên và Môi trường tỉnh T cấp ngày 08/07/2016 là vô
hiệu
Buộc Ngân hàng TMCP Đ1 phải trả lại giấy chứng nhận QSD đất s
CĐ400540, s vào Sổ cấp GCN: CS00044 do Sở Tài nguyên và Môi trường tỉnh
T cấp ngày 08/07/2016, chủ sử dụng Nguyễn Ngọc V1 cho gia đình chị V1 và
bà C.
5. Về hậu quả của giao dịch dân sự vô hiệu do chưa xảy ra và do các bên
không yêu cầu giải quyết nên không xem xét.
Ngoài ra bản án sơ thẩm còn quyết định về án phí, chi phí t tụng và quyền
kháng cáo của các đương sự.
Ngày 22/8/2024 và ngày 29/8/2024, nguyên đơn S1 và bị đơn anh Nguyễn
Trung Đ có đơn kháng cáo một phần bản án sơ thẩm; Nội dung kháng cáo
nguyên đơn, bị đơn không nhất trí với quyết định của bản án sơ thẩm về phần
tuyên b hợp đồng thế chấp thửa đất s 429, tờ bản đồ s 23, diện tích 100m2
giữa chị Nguyễn Ngọc V1 với S1. Đề nghị Toà án cấp phúc thẩm xác định hợp
đồng thế chấp có hiệu lực pháp luật; nếu anh Đ không thực hiện nghĩa vụ trả
khoản tiền vay cho Ngân hàng, thì Ngân hàng có quyền yêu cầu phát mại tài sản
thế chấp để đảm bảo thi hành án. Ngoài ra Ngân hàng còn kháng cáo cho rằng
Toà án cấp sơ thẩm không tuyên khoản tiền lãi của khoản lãi trong hạn kể từ sau
ngày xét xử sơ thẩm.
7
Tại phiên toà phúc thẩm: Nguyên đơn, bị đơn giữ nguyên nội dung đơn
kháng cáo. Bà C, anh S, chị H1 thay đổi lời khai tại cấp sơ thẩm, cho rằng thửa
đất s 429, tờ bản đồ s 23, diện tích 100 m2 ông H, bà C đã tặng cho hẳn chị
V1, không phải chỉ cho chị V1 đứng tên. Đề nghị Toà án tuyên phát mại toàn bộ
tài sản thế chấp tại thửa đất s 429 để trả nợ ngân hàng cho khoản vay của anh
Đ.
Đại diện Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Thái Nguyên phát biểu quan điểm:
Thẩm phán chủ tọa, Hội đồng xét xử, các đương sự quan chấp hành đúng các
quy định của Bộ luật t tụng dân sự. Về nội dung giải quyết vụ án, đề nghị Hội
đồng xét xử không chấp nhận kháng cáo của nguyên đơn, bị đơn, giữ nguyên
bản án sơ thẩm.
NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN:
Sau khi nghiên cứu các tài liệu, chứng cứ có trong hồ sơ vụ án đã được
thẩm tra tại phiên toà, căn cứ vào kết quả tranh tụng tại phiên toà, sau khi nghe
đại diện Viện kiểm sát phát biểu ý kiến, Hội đồng xét xử nhận định:
Về thủ tục tố tụng:
[1] Nguyên đơn, bị đơn kháng cáo trong hạn luật định, đã nộp tạm ứng án
phí phúc thẩm được xem xét theo trình tự phúc thẩm.
Về nội dung:
Xét kháng cáo của nguyên đơn, bị đơn và lời trình bày của các đương sự,
Hội đồng xét xử thấy:
Về nội dung yêu cầu tính lãi khoản tiền lãi trong hạn:
[2] Tại phần quyết định của bản án sơ thẩm đã chấp nhận toàn bộ yêu cầu
của Ngân hàng, buộc anh Đ phải trả khoản tiền gc, lãi trong hạn, lãi quá hạn
tính đến ngày xét xử sơ thẩm là 760.002.346 đồng. Ngoài ra bản án còn tuyên kể
từ sau ngày xét xử sơ thẩm anh Đ còn phải trả khoản tiền lãi quá hạn trên s nợ
gc theo mức lãi suất thoả thuận trong hợp đồng tín dụng là đã chấp nhận toàn
bộ yêu cầu khởi kiện của Ngân hàng. Ngân hàng kháng cáo yêu cầu anh Đ phải
trả tiền lãi của khoản lãi trong hạn là không có căn cứ.
Về kháng cáo yêu cầu công nhận hợp đồng thế chấp và xử lý tài sản thế
chấp:
[3] Thửa đất s 429, tờ bản đồ s 23, diện tích 100 m2, thuộc xã K, huyện
Đ, tỉnh Thái Nguyên, Sở Tài Nguyên và Môi trường tỉnh T cấp Giấy chứng nhận
quyền sử dụng đất ngày 08/7/2016 mang tên Nguyễn Ngọc V1 (gọi tắt là thửa
đất s 429). Tại cấp sơ thẩm các đương sự gồm bà C, và các con đẻ của bà C,
ông H, gồm chị H1, anh S, anh H2, anh T, chị B và bản thân chị V1 đều xác
định thửa đất s 429 thuộc quyền sử dụng của b mẹ đẻ là ông H, bà C cho chị
V1 đứng tên, nên không thuộc quyền sử dụng hợp pháp của chị V1. Bà C và chị
V1 có đơn yêu cầu độc lập, yêu cầu Toà án xác định hợp đồng thế chấp thửa đất
s 429 giữa chị V1 với Ngân hàng vô hiệu, đã được Toà án cấp sơ thẩm chấp
8
nhận. Sau khi xét xử sơ thẩm, bà C và những người kế thừa quyền và nghĩa vụ
t tụng của ông H không kháng cáo, nhất trí với quyết định của án sơ thẩm.
Tại phiên toà phúc thẩm, bà C, chị H1, anh S thay đổi lời khai, đề nghị Hội
đồng xét xử tuyên phát mại tài sản thế chấp là quyền sử dụng đất và tài sản gắn
liền với đất tại thửa đất s 429 để thực hiện nghĩa vụ trả nợ cho anh Đ với Ngân
hàng. Xét thấy, ngôi nhà trên đất là tài sản chung vợ chồng ông H, bà C, năm
2023 ông H chết không để lại di chúc, nên ½ giá trị ngôi nhà là di sản thừa kế
của ông H. Bà C, chị H1, anh S đề nghị phát mại tài sản thế chấp gồm có ngôi
nhà trên đất để thanh toán khoản nợ cho ngân hàng, nhưng chị V1 và các đồng
thừa kế khác không nhất trí, nên không có căn cứ chấp nhận đề nghị của bà C,
chị H1, anh S.
[4] Về nguồn gc và quá trình sử dụng đất: Các đương sự đều thừa nhận
thửa đất s 429, ông H, bà C sử dụng làm nhà ở trên đất từ năm 1999. Năm
2013, ông H là Thương binh hạng ¼ được Nhà nước hỗ trợ 40.000.000 đồng để
xây nhà mới. Năm 2014, ông H, bà C đã xây dựng nhà mới trên diện tích đất và
sử dụng liên tục từ đó cho đến năm 2023, ông H chết, bà C tiếp tục quản lý, sử
dụng nhà đất cho đến nay.
[5] Thời điểm Ngân hàng ký hợp đồng thế chấp thửa đất s 429 với chị V1
ngày 30/10/2019, vợ chồng ông H, bà C là b mẹ đẻ chị V1 đang quản lý, sử
dụng nhà đất tại thửa đất s 429. Tại báo cáo Kết quả định giá tài sản bảo đảm là
bất động sản ngày 27/9/2019 của Ngân hàng kèm theo hình ảnh tài sản thẩm
định là ngôi nhà. Tuy nhiên, Ngân hàng không xác minh, làm rõ lý do vì sao chủ
sử dụng tài sản là vợ chồng ông H, bà C, vẫn chấp nhận ký hợp đồng thế chấp
tài sản với chị V1.
[6] Khoản 1 Điều 4 Nghị định 163/2006/NĐ-CP ngày 29/12/2006 của
Chính phủ quy định về giao dịch bảo đảm quy định: “3. Bên nhận bảo đảm ngay
tình là bên nhận bảo đảm trong trường hợp không biết và không thể biết về việc
bên bảo đảm không có quyền dùng tài sản để bảo đảm thực hiện nghĩa vụ dân
sự”.
Theo tinh thần hướng dẫn tại Phần III, mục 1 Giải đáp s: 02/TANDTC-PC
ngày 02 tháng 8 năm 2021 của Toà án nhân dân t cao thì: Ngân hàng không
thẩm định, xác minh nên không biết ông H, bà C vẫn quản lý, sử dụng nhà đất
hoặc đã thẩm định nhưng không có tài liệu, chứng cứ chứng minh ông H, bà C
biết việc thế chấp tài sản này. Trong trường hợp này, bên nhận thế chấp tài sản
(Ngân hàng) không phải là người thứ ba ngay tình theo quy định tại khoản 2
Điều 133 của Bộ luật Dân sự năm 2015, do vậy, hợp đồng thế chấp tài sản vô
hiệu.
[7] Toà án cấp sơ thẩm không chấp nhận yêu cầu khởi kiện của Ngân hàng
về yêu cầu phát mại tài sản thế chấp; chấp nhận yêu cầu độc lập của bà Nguyễn
Thị C, chị Nguyễn Ngọc V1 xác định hợp đồng thế chấp thửa đất s 429 giữa
Ngân hàng với chị V1 vô hiệu là có căn cứ.
9
[8] Từ những phân tích nêu trên, thấy không có căn cứ chấp nhận kháng
cáo của nguyên đơn Ngân hàng TMCP Đ1 và anh Nguyễn Trung Đ về yêu cầu
phát mại tài sản thế chấp; giữ nguyên bản án sơ thẩm s 20/2024/DSST ngày
15/8/2024 của Toà án nhân dân huyện Đại từ, tỉnh Thái Nguyên.
Về án ph:
[9] Án phí phúc thẩm: Đương sự kháng cáo không được chấp nhận, nên
phải chịu án phúc thẩm.
Các quyết định khác của bản án sơ thẩm không có kháng cáo, không bị
kháng nghị, Hội đồng xét xử không xem xét và có hiệu lực kể từ ngày hết thời
hạn kháng cáo kháng nghị.
Bởi các lẽ trên;
QUYẾT ĐỊNH:
1. Căn cứ khoản 1 Điều 308 Bộ luật t tụng dân sự; không chấp nhận
kháng cáo của nguyên đơn Ngân hàng TMCP Đ1 và bị đơn anh Nguyễn Trung
Đ; Giữ nguyên bản án dân sự sơ thẩm s 20/2024/DSST ngày 15/8/2024 của
Toà án nhân dân huyện Đại từ, tỉnh Thái Nguyên.
2. Về án phí phúc thẩm: Ngân hàng TMCP Đ1 và anh Nguyễn Trung Đ
mỗi người phải chịu 300.000 đồng án phí dân sự phúc thẩm được trừ vào
300.000 đồng tạm ứng án phí theo biên lai thu s 0005552 và 0005564 ngày
27/8/2024 và ngày 05/9/2024 của Chi cục thi hành án dân sự huyện Đại từ, tỉnh
Thái Nguyên.
3. Các quyết định khác của bản án không có kháng cáo, không bị kháng
nghị, Hội đồng xét xử không xem xét và có hiệu lực pháp luật kể từ ngày hết
thời hạn kháng cáo kháng nghị.
Bản án phúc thẩm có hiệu lực kể từ ngày tuyên án.
Nơi nhận:
- VKSND tỉnh Thái Nguyên;
- TAND huyện Đại từ;
- Chi cục THADS huyện Đại Từ;
- Các đương sự;
- Lưu hồ sơ vụ án.
T.M HỘI ĐỒNG XÉT XỬ PHÚC THẨM
Thẩm phán - Chủ toạ phiên toà
Hoàng Quý Sửu
Tải về
Bản án số 159/2024/DS-PT
Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để tải file. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!
Bản án số 159/2024/DS-PT
Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để tải file. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!
Bản án/ Quyết định cùng đối tượng
1
Ban hành: 23/12/2024
Cấp xét xử: Phúc thẩm
2
Ban hành: 16/12/2024
Cấp xét xử: Phúc thẩm
3
Ban hành: 12/12/2024
Cấp xét xử: Phúc thẩm
4
Ban hành: 12/12/2024
Cấp xét xử: Phúc thẩm
5
Ban hành: 10/12/2024
Cấp xét xử: Phúc thẩm
6
Ban hành: 05/12/2024
Cấp xét xử: Phúc thẩm
7
Ban hành: 05/12/2024
Cấp xét xử: Phúc thẩm
8
Ban hành: 03/12/2024
Cấp xét xử: Phúc thẩm
9
Ban hành: 29/11/2024
Cấp xét xử: Phúc thẩm
10
Ban hành: 28/11/2024
Cấp xét xử: Phúc thẩm
11
Ban hành: 27/11/2024
Cấp xét xử: Phúc thẩm
12
Ban hành: 27/11/2024
Cấp xét xử: Phúc thẩm
13
Ban hành: 25/11/2024
Cấp xét xử: Phúc thẩm
14
Ban hành: 24/11/2024
Cấp xét xử: Phúc thẩm
15
Ban hành: 22/11/2024
Cấp xét xử: Phúc thẩm
16
Ban hành: 15/11/2024
Cấp xét xử: Phúc thẩm
17
Ban hành: 14/11/2024
Cấp xét xử: Phúc thẩm
18
Ban hành: 14/11/2024
Cấp xét xử: Phúc thẩm
19
Ban hành: 13/11/2024
Cấp xét xử: Phúc thẩm