Bản án số 1304/2024/HC-PT ngày 24/12/2024 của TAND cấp cao tại TP.HCM
- Thuộc tính
- Nội dung
- VB gốc
- VB liên quan
- Lược đồ
- Đính chính
- Án lệ
- BA/QĐ cùng nội dung
- Tải về
Tải văn bản
-
Bản án số 1304/2024/HC-PT
Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để tải file. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!
-
Bản án số 1304/2024/HC-PT
Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để tải file. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!
Báo lỗi
Thuộc tính Bản án 1304/2024/HC-PT
Tên Bản án: | Bản án số 1304/2024/HC-PT ngày 24/12/2024 của TAND cấp cao tại TP.HCM |
---|---|
Quan hệ pháp luật: | |
Cấp xét xử: | Phúc thẩm |
Tòa án xét xử: | TAND cấp cao tại TP.HCM |
Số hiệu: | 1304/2024/HC-PT |
Loại văn bản: | Bản án |
Ngày ban hành: | 24/12/2024 |
Lĩnh vực: | Hành chính |
Áp dụng án lệ: |
Đã biết
Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để xem áp dụng án lệ. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây! |
Đính chính: |
Đã biết
Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để xem đính chính. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây! |
Thông tin về vụ án: | Ông Trần Văn C kiện Ủy ban nhân dân thành phố Rạch G về Khiếu kiện quyết định thu hồi đất; quyết định bồi thường, hỗ trợ khi thu hồi đất; quyết định cưỡng chế thu hồi đất và thông báo giải quyết khiếu nại |
Tóm tắt Bản án
Nội dung tóm tắt đang được cập nhật, Quý khách vui lòng quay lại sau!
Tải văn bản
0TÒA ÁN NHÂN DÂN CẤP CAO
TẠI THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH
Bản án số: 1304/2024/HC-PT
Ngày 24/12/2024
V/v: “Khiếu kiện quyết định thu hồi đất;
bồi thường, hỗ trợ; cưỡng chế và thông
báo giải quyết khiếu nại”
CỘNG HÒA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM
Độc lập – Tự do – Hạnh phúc
NHÂN DANH
NƯỚC CỘNG HÒA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM
TÒA ÁN NHÂN DÂN CẤP CAO TẠI THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH
- Thành phần Hội đồng xét xử phúc thẩm gồm có:
Thẩm phán - Chủ tọa phiên tòa: Ông Đặng Văn Ý
Các thẩm phán: Ông Phạm Văn Công
Ông Vương Minh Tâm
- Thư ký phiên toà: Bà Nguyễn Thị Thu Phương - Thư ký Tòa án nhân
dân cấp cao tại Thành phố Hồ Chí Minh.
- Đại diện Viện kiểm sát nhân dân cấp cao tại Thành phố Hồ Chí Minh
tham gia phiên toà: Ông Nguyễn Đình Nam - Kiểm sát viên cao cấp.
Trong ngày 24 tháng 12 năm 2024, tại trụ sở Tòa án nhân dân cấp cao tại
Thành phố Hồ Chí Minh, xét xử phúc thẩm công khai vụ án hành chính thụ lý số
354/2024/TLPT-HC ngày 06 tháng 4 năm 2024, về việc: “Khiếu kiện quyết định
thu hồi đất; quyết định bồi thường, hỗ trợ khi thu hồi đất; quyết định cưỡng chế
thu hồi đất và thông báo giải quyết khiếu nại”.
Do Bản án hành chính sơ thẩm số: 04/2024/HC-ST ngày 08 tháng 01 năm
2024 của Tòa án nhân dân tỉnh Kiên Giang bị kháng cáo.
Theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử phúc thẩm số: 3434/2024/QĐ-PT
ngày 02 tháng 12 năm 2024, giữa các đương sự:
- Người khởi kiện: Ông Trần Văn C, sinh năm 1957; cư trú tại: Số 544 Lâm
Quang K, khu phố 5, phường An H, thành phố Rạch G, tỉnh Kiên Giang; có mặt.
Người đại diện hợp pháp của ông Cảnh: Bà Bùi Thị Kh, sinh năm 1960; cư trú
tại: 544 Lâm Quang K, phường An H, thành phố Rạch G, tỉnh Kiên Giang là người
đại diện theo ủy quyền, Giấy ủy quyền ngày 22/01/2024; có mặt.
Người bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp của ông C: Ông Nguyễn Hồng Th là
Luật sư của Công ty TNHH Vietnam Protect thuộc Đoàn Luật sư Thành phố Hồ
Chí Minh; có mặt.
- Người bị kiện:
1. Ủy ban nhân dân thành phố Rạch G, tỉnh Kiên Giang.
2
2. Chủ tịch Ủy ban nhân dân thành phố Rạch G, tỉnh Kiên Giang.
Người đại diện theo pháp luật của người bị kiện: Ông Nguyễn Văn H, chức
vụ: Chủ tịch; địa chỉ: số 38 Lê L, phường Vĩnh Thanh V, thành phố Rạch G, tỉnh
Kiên Giang; vắng mặt.
Người đại diện theo ủy quyền của người bị kiện: Ông Bùi Trung Th, chức
vụ: Phó chủ tịch UBND thành phố Rạch G; có đơn xử vắng mặt.
Người bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp của người bị kiện: Ông Nguyễn Bảo
Th, chức vụ: Trưởng Phòng Tài nguyên và môi trường thành phố Rạch G, tỉnh
Kiên Giang; có mặt.
- Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan: Công ty Cổ phần Tập đoàn Tư
vấn đầu tư xây dựng Kiên G; địa chỉ: Số 34 Trần Ph, phường Vĩnh Th, thành phố
Rạch G, Kiên Giang.
Người đại diện theo pháp luật của Công ty Cổ phần Tập đoàn Tư vấn đầu
tư xây dựng Kiên G: Ông Trần Thọ Th, chức vụ: Chủ tịch Hội đồng quản trị;
vắng mặt.
Người đại diện theo ủy quyền của Công ty Cổ phần Tập đoàn Tư vấn đầu
tư xây dựng Kiên G: Bà Nguyễn Thị H - Trưởng ban pháp chế của Công ty; có
mặt.
- Người kháng cáo: Ông Trần Văn C là người khởi kiện trong vụ án.
NỘI DUNG VỤ ÁN
Theo đơn khởi kiện ngày 26 tháng 9 năm 2023 và trong quá trình giải
quyết vụ kiện người khởi kiện ông Trần Văn C và bà Từ Thị Mỹ H trình bày:
Ông Trần Văn C có diện tích đất 134,5m
2
, nguồn gốc đất nhận chuyển
nhượng của bà Quách Thị P thuộc thửa đất 07 + 08 + 09, tờ bản đồ số 86, tọa lạc
phường An H, thành phố Rạch G, tỉnh Kiên Giang chưa làm thủ tục tách giấy, đất
này bà P được cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất số X121079 ngày
05/08/2003. Ngày 04/7/2017 Ủy ban nhân dân (UBND) thành phố Rạch G ban
hành Quyết định số 385/QĐ-UBND thu hồi diện tích đất 134,5m
2
của bà Quách
Thị P (Trần Văn C chưa tách giấy) để thực hiện xây dựng dự án Khu dân cư Nam
An H. Ngày 11/7/2017 UBND thành phố Rạch G ban hành Quyết định số
368/QĐ-UBND về việc bồi thường, hỗ trợ cho ông Trần Văn C số tiền
84.834.500 đồng (trong đó: bồi thường đất đai 83.542.500 đồng, hỗ trợ đất đai 0
đồng, bồi thường cây trồng, hoa màu 1.310.000 đồng, bồi thường vật kiến trúc 0
đồng, hỗ trợ khác 0 đồng). Ngày 28/12/2018 UBND thành phố Rạch G ban hành
Quyết định số 1469/QĐ-UBND về việc điều chỉnh bồi thường, hỗ trợ, bổ sung
cho ông C số tiền 101.413.000 đồng (Bồi thường giá đất hẻm). Ngày 30/3/2020
UBND thành phố Rạch G ban hành Quyết định số 69/QĐ-UBND về việc bồi
thường, hỗ trợ bổ sung cho ông C số tiền 124.696.500 đồng (Trong đó hỗ trợ
chuyển đổi nghề và tìm kiếm việc làm 120.646.500 đồng; hỗ trợ ổn định đời sống
4.050.000 đồng).
3
Ông C cho rằng, theo Quyết định số 112/QĐ-UBND ngày 13/01/2016 và
Quyết định số 1761/QĐ-UBND ngày 23/8/2017 của UBND tỉnh Kiên Giang chấp
thuận cho Công ty Cổ phần Tập đoàn Tư Vấn đầu tư xây dựng Kiên G thực hiện
dự án có địa điểm tại Khu phố 3 và Khu phố 5 thuộc phường An H, thành phố
Rạch G, tỉnh Kiên Giang, trong khi diện tích đất của ông C có vị trí nằm tại Khu
phố 2, phường An H, thành phố Rạch G không thuộc địa điểm thực hiện dự án.
Ngày 21/12/2022 UBND phường An H có giải trình địa điểm thực hiện dự án đã
được điều chỉnh bởi Quyết định số 2561/QĐ-UBND ngày 26/10/2021 của UBND
tỉnh Kiên Giang về điều chỉnh địa điểm dự án có cả Khu phố 2, phường An H, tức
là diện tích đất của ông C nằm trong dự án.
Như vậy việc điều chỉnh địa điểm dự án là ngày 26/10/2021, thì phải sau
thời điểm này UBND thành phố Rạch G mới được thực hiện các trình tự, thủ tục
thu hồi đất, trong khi ban hành quyết định thu hồi đất trước đó là không đúng.
Việc thu hồi đất giao Công ty Cổ phần Tập đoàn Tư Vấn đầu tư xây dựng Kiên G
là không thuộc trường hợp thu hồi đất theo quy định tại Điều 61, 62 Luật Đất đai
năm 2013, vì dự án khu dân cư được đưa vào nhóm dự án khu đô thị mới và Hội
Đồng nhân dân tỉnh Kiên Giang thông qua tại Nghị quyết số 153/2015/NQ-
HĐND ngày 09/12/2015, thực tế dự án này là dự án khu dân cư thương mại
không phù hợp với khoản 1 Điều 2 Nghị định số 02/2006/NĐ-CP ngày
05/01/2006 của Chính phủ về việc ban hành quy chế khu đô thị mới và Nghị định
số 11/2013/NĐ-CP ngày 14/11/2013 của Chính phủ về quản lý đầu tư phát triển
đô thị. Quyết định số 385/QĐ-UBND thu hồi đất của UBND thành phố Rạch G
sai về chủ trương cho thực hiện dự án và trái pháp luật đã được Thanh Tra Chính
phủ nêu.
Ngày 12/4/2023 UBND phường An H tiếp tục vận động ông Cảnh để nhận
Quyết định thu hồi đất từ năm 2017, ông C không đồng ý mà yêu cầu phải lập
phương án bồi thường mới theo quy định của pháp luật. Theo đó ngày 11/9/2023
ông Cảnh có làm đơn khiếu nại Quyết định thu hồi đất, đến ngày 14/9/2023
UBND thành phố Rạch G ra Thông báo số 507/TB-UBND không thụ lý giải
quyết đơn khiếu nại với lý do thời hạn khiếu nại đã hết. Đến ngày 22/9/2023
UBND phường An H triển khai Quyết định số 255/QĐ-CC ngày 18/9/2023 của
UBND thành phố Rạch G về việc cưỡng chế thu hồi đất.
Ông Trần Văn C yêu cầu giải quyết: Hủy Thông báo thu hồi đất số
200/TB-UBND ngày 20/02/2017; hủy Quyết định số 385/QĐ-UBND ngày
04/7/2017 về việc thu hồi đất; hủy Quyết định số 368/QĐ-UBND ngày 11/7/2017
về việc bồi thường, hỗ trợ; hủy Quyết định số 1469/QĐ-UBND ngày 28/12/2018
về việc điều chỉnh bồi thường, hỗ trợ bổ sung, hủy Quyết định số 69/QĐ-UBND
ngày 30/3/2020 về việc bồi thường, hỗ trợ bổ sung của UBND thành phố Rạch G;
hủy Quyết định số 255/QĐ-CC ngày 18/9/2023 về việc cưỡng chế thu hồi đất và
hủy Thông báo số 507/TB-UBND không thụ lý giải quyết đơn khiếu nại của Chủ
tịch UBND thành phố Rạch G.
Tại Văn bản số 964/UBND-TNMT ngày 24/10/2023, người bị kiện Ủy ban
nhân dân thành phố Rạch G và Chủ tịch Ủy ban nhân dân thành phố Rạch G,
tỉnh Kiên Giang trình bày ý kiến:
4
Dự án Khu dân cư Nam An H tại phường An H, thành phố Rạch G được
chấp thuận chủ trương đầu tư theo Quyết định số 112/QĐ-UBND ngày
13/01/2016 của UBND tỉnh Kiên Giang. Ngày 20/7/2017 UBND thành phố Rạch
G ban hành Thông báo thu hồi đất số 200/TB-UBND đối với ông Trần Văn C để
thực hiện dự án, đến ngày 04/7/2017 UBND thành phố ban hành Quyết định số
410/QĐ-UBND về việc phê duyệt phương án bồi thường về đất đai, hoa màu, vật
kiến trúc và hỗ trợ tái định cư, đồng thời ban hành Quyết định số 385/QĐ-UBND
thu hồi 134,50m
2
đất trồng cây lâu năm của bà Quách Thị P (Ông Trần Văn C
chưa tách giấy) đang sử dụng thuộc thửa 07 + 08 + 09 + 210, tờ bản đồ số 86 tại
phường An H, thành phố Rạch G để thực hiện dự án. Đến ngày 11/7/2017 ban
hành Quyết định số 368/QĐ-UBND về việc bồi thường, hỗ trợ cho ông Trần Văn
C tổng số tiền 84.834.500 đồng (trong đó bồi thường về đất đai 83.524.500; bồi
thường cây trồng, hoa màu 1.310.000 đồng). Ngày 28/12/2018 UBND thành phố
Rạch G ban hành Quyết định số 1469/QĐ-UBND về việc điều chỉnh bồi thường,
hỗ trợ bổ sung cho ông Trần Văn C theo giá đất hẻm với số tiền 101.413.000
đồng. Ngày 30/3/2020 UBND thành phố Rạch G ban hành Quyết định số 69/QĐ-
UBND về bồi thường, hỗ trợ bổ sung cho ông Trần Văn C số tiền 124.696.500
đồng, bao gồm hỗ trợ chuyển đổi nghề 120.944.000 đồng và hỗ trợ ổn định đời
sống 4.050.000 đồng.
Như vậy qua các quyết định bồi thường, điều chỉnh bồi thường, hỗ trợ bổ
sung thì tổng số tiền bồi thường cho ông C là 310.944.000 đồng, ông C chưa nhận
tiền bồi thường, hỗ trợ và chưa đồng ý giao đất. Do ông Cảnh không chấp hành
giao đất cho Nhà nước thực hiện dự án, ngày 18/9/2023 Chủ tịch UBND thành
phố Rạch G ban hành Quyết định số 255/QĐ-UBND về việc cưỡng chế thu hồi
đất đối với ông Trần Văn C và tổ chức thực hiện cưỡng chế ngày 04/10/2023.
Việc UBND thành phố Rạch G ban hành các quyết định nêu trên là đúng trình tự,
thủ tục theo quy định, đề nghị bác đơn khởi kiện của ông Trần Văn C.
Tại Văn bản số 273/TVĐTXD-BPC ngày 11 tháng 10 năm 2023, người có
quyền lợi, nghĩa vụ liên quan Công ty cổ phần Tập đoàn tư vấn đầu tư xây dựng
Kiên Giang trình bày:
Dự án Khu dân cư Nam An H tại phường An H, thành phố Rạch G được
chấp thuận chủ trương đầu tư theo Quyết định số 112/QĐ-UBND ngày
13/01/2016 của UBND tỉnh Kiên Giang. Đây là dự án thuộc trường hợp Nhà
nước thu hồi đất giao cho nhà đầu tư quy định tại điểm d khoản 3 Điều 62 của
Luật Đất đai năm 2013. Do đó, toàn bộ quá trình thu hồi đất từ khâu lập phương
án bồi thường, hỗ trợ, tái định cư đến việc thực hiện việc chi trả tiền bồi thường
và nhận bàn giao mặt bằng từ người có đất bị thu hồi đều do cơ quan chức năng
thực hiện theo trình tự, thủ tục của pháp luật quy định. Vì vậy, việc ông Trần Văn
C không đồng ý với các quyết định của UBND và Chủ tịch UBND thành phố
Rạch G, tỉnh Kiên Giang và khởi kiện yêu cầu Tòa án giải quyết, Công ty không
có ý kiến, đề nghị Tòa án giải quyết vụ án theo quy định của pháp luật.
Tại Bản án hành chính sơ thẩm số: 04/2024/HC-ST ngày 08 tháng 01 năm
2024 của Tòa án nhân dân tỉnh Kiên Giang đã quyết định:
5
- Căn cứ Điều 32, điểm a khoản 2 Điều 193 của Luật Tố tụng hành chính;
Căn cứ Điều 21, 62, 63, 66, 67, 69, 71, 74, 75, 83, 84 của Luật Đất đai năm 2013;
Căn cứ Điều 9, 11, 18 của Luật Khiếu nại; Căn cứ Nghị định số 47/2014/NĐ-CP
ngày 15/5/2014 của Chính phủ về quy định về bồi thường, hỗ trợ, tái định cư khi
Nhà nước thu hồi đất; Căn cứ Điều 12 Nghị Quyết số 326/2016/NQ-UBTVQH14
ngày 30 tháng 12 năm 2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội quy định về thu,
miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí của Tòa án.
1. Xử bác toàn bộ yêu cầu khởi kiện của ông Trần Văn C:
- Không chấp nhận yêu cầu hủy Thông báo thu hồi đất số 200/TB-UBND
ngày 20 tháng 02 năm 2017 của Ủy ban nhân dân thành phố Rạch G;
- Không chấp nhận yêu cầu hủy Quyết định số 385/QĐ-UBND ngày 04
tháng 7 năm 2017 của Ủy ban nhân dân thành phố Rạch G về việc thu hồi đất của
bà Quách Thị P (Trần Văn C chưa tách giấy);
- Không chấp nhận yêu cầu hủy Quyết định số 368/QĐ-UBND ngày 11
tháng 7 năm 2017 của Ủy ban nhân dân thành phố Rạch G về việc bồi thường, hỗ
trợ cho hộ ông Trần Văn C;
- Không chấp nhận yêu cầu hủy Quyết định số 1469/QĐ-UBND ngày 28
tháng 12 năm 2018 của Ủy ban nhân dân thành phố Rạch G về việc điều chỉnh
bồi thường, hỗ trợ bổ sung cho ông Trần Văn C;
- Không chấp nhận yêu cầu hủy Quyết định số 69/QĐ-UBND ngày 30 tháng
3 năm 2020 của Ủy ban nhân dân thành phố Rạch Giá về việc bồi thường, hỗ trợ
bổ sung cho ông Trần Văn C;
- Không chấp nhận yêu cầu hủy Quyết định số 255/QĐ-CC ngày 18 tháng 9
năm 2023 của Chủ tịch Ủy ban nhân dân thành phố Rạch G về việc cưỡng chế thu
hồi đất đối với ông Trần Văn C;
- Không chấp nhận yêu cầu hủy Thông báo số 507/TB-UBND ngày 14 tháng
9 năm 2023 của Chủ tịch Ủy ban nhân dân thành phố Rạch G về việc không thụ
lý giải quyết khiếu nại.
Ngoài ra bản án còn tuyên về án phí và quyền kháng cáo theo luật định.
Ngày 15/01/2024 ông Trần Văn C kháng cáo toàn bộ bản án sơ thẩm. Đề
nghị Hội đồng xét xử chấp nhận đơn kháng cáo, sửa án sơ thẩm, hủy các quyết
định hành chính trên.
Tại phiên tòa người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp cho ông C trình bày:
Tòa án cấp sơ thẩm không đưa bà P, U và Kh tham gia tố tụng là vi phạm nghiêm
trọng thủ tục tố tụng; vì bà P và U đứng tên hợp đồng chuyển nhượng và bà Kh là
vợ của ông C nhưng không đưa vào tham gia tố tụng là vi phạm. Dự án Nam An
H thu hồi đất không phải thực hiện phát triển kinh tế, lợi ích công cộng theo Điều
62 Luật đất đai năm 2013; vì đây là dự án thương mại, được Thanh tra Chính phủ
kết luận. Phê duyệt dự án theo Quyết định 747/UBND chỉ phê duyệt dự án Nam
An H lớn hơn 10ha nhưng lại thực hiện thông qua HĐND dự án Nam An H và dự
án tái định cư Nam An H 100ha là vượt quá thẩm quyền của HĐND cấp tỉnh.
6
Quyết định điều chỉnh dự án khu dân cư Nam An H từ khu phố 3 và khu phố 5,
nay là khu phố 2 là không đúng quy định, nên đất của ông Cảnh nằm ngoài dự án.
Từ đó, người bảo vệ quyền lợi cho ông C yêu cầu sửa bản án sơ thẩm, hủy các
quyết định hành chính trên, hủy thông báo giải quyết khiếu nại.
Người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp cho người bị kiện trình bày: Dự án
khu dân cư Nam An H đã thể hiện trong bản đồ quy hoạch 1/500 từ trước; về khu
phố, diện tích, vị trí đất thu hồi thực hiện dự án khu dân cư Nam An H thể hiện
trên bản đồ quy hoạch; khi ban hành quyết định có nhầm lẫn khu phố nên UBND
tỉnh Kiên Giang điều chỉnh lại cho phù hợp khu phố 2; tại quyết định thu hồi đất
của ông C chỉ xác định diện tích, số thửa, số tờ tại thành phố Rạch G chứ không
ghi khu phố nên quyết định thu hồi đất của ông C là đúng quy định. Dự án được
HĐND tỉnh Kiên Giang thông qua bằng NQ 153, được UBND tỉnh phê duyệt; dự
án thu hồi đất để phát triển kinh tế, xã hội đúng theo quy định tại Điều 61, Điều
62 Luật đất đai năm 2013; thu hồi đất đúng trình tự, thủ tục, thẩm quyền và đúng
quy định của pháp luật. Giá đất bồi thường đã được Hội đồng thẩm định của tỉnh
thẩm định giá và UBND tỉnh điều chỉnh hệ số phê duyệt giá là đúng quy định. Đề
nghị bác đơn kháng cáo của ông C, giữ nguyên bản án sơ thẩm.
Bà Kh người đại diện theo ủy quyền của ông Cảnh trình bày: Dự án khu dân
cư Nam An H được xây dựng mới hoàn toàn, không phải chỉnh trang đô thị, dự
án thương mại; UBND thành phố Rạch G thu hồi đất vượt quá diện tích dự án
Nam An H được phê duyệt tại Quyết định 747/QĐUBND. Đề nghị chấp nhận
kháng cáo của ông C.
Đại diện Viện kiểm sát nhân dân cấp cao tại Thành phố Hồ Chí Minh có
quan điểm: Về thủ tục tố tụng, những người tiến hành tố tụng, các bên đương sự
đã chấp hành đúng quy định của Luật Tố tụng hành chính. Về nội dung kháng cáo
của ông C, cho rằng Quyết định thu hồi đất dự án Nam An H ghi Khu phố 3 và 5
nhưng đất của ông C thuộc Khu phố 2, nên đất của ông C nằm ngoài dự án là
chưa có cơ sở; vì đã được điều chỉnh tại Thông báo và Quyết định 2561 của
UBND tỉnh Kiên Giang; Dự án được HĐND tỉnh Kiên Giang thông qua nên
UBND thành phố Kiên Giang thu hồi đất là đúng theo quy định tại Điều 62 Luật
đất đai năm 2013. Việc thẩm định giá bồi thường, hỗ trợ bổ sung đúng quy định;
quyết định cưỡng chế đúng luật định; ông C khiếu nại quá thời hạn nên ban hành
Thông báo không giải quyết là phù hợp. Tòa án cấp sơ thẩm đã xem xét giải
quyết là có cơ sở; ông C kháng cáo nhưng không cung cấp được tài liệu mới để
chứng minh cho yêu cầu kháng cáo. Đề nghị Hội đồng xét xử bác đơn kháng cáo
của ông C, giữ nguyên bản án sơ thẩm.
NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN:
- Đơn kháng cáo của ông Trần Văn C đúng quy định của pháp luật, hợp lệ
nên được xem xét theo trình tự phúc thẩm.
- Căn cứ các tài liệu có trong hồ sơ vụ án được thẩm tra tại phiên tòa và căn
7
cứ vào kết quả tranh tụng tại phiên tòa thì thấy:
- Xét kháng cáo của ông Trần Văn C:
[1]. Diện tích đất thu hồi 134,50m
2
đất trồng CLN, thuộc thửa 07 + 08 + 09
+ 210, tờ bản đồ số 86, tại phường An H, thành phố Rạch G của bà Quách Thị P
đã xác nhận chuyển nhượng cho ông Trần Văn C nhưng chưa làm thủ tục cấp
giấy cho ông C. Như vậy, phần đất trên bà P đã chuyển nhượng cho ông C xong
và ông C là người sử dụng đất nên các quyết định về thu hồi đất, bồi thường, hỗ
trợ khi thu hồi đất đứng tên ông Trần Văn C là phù hợp. Ông C là người khởi
kiện các quyết định hành chính có liên quan trực tiếp đến quyền lợi và lợi ích hợp
pháp của ông C là có căn cứ, được quy định tại khoản 1 và khoản 2 Điều 3 Luật
Tố tụng hành chính năm 2015. Bà P, U và Kh không tranh chấp quyền lợi với ông
C có liên quan đến các quyết định hành chính, nên Tòa án cấp sơ thẩm không cần
thiết phải đưa bà P, U và Kh vào tham gia tố tụng với tư cách người có quyền lợi
và nghĩa vụ liên quan là có cơ sở và không vi phạm thủ tục tố tụng.
[2]. Căn cứ Nghị quyết số 153/2015/NQ-HĐND ngày 09/12/2015 của Hội
Đồng nhân dân tỉnh Kiên Giang, Quyết định chủ trương đầu tư số 112/QĐ-
UBND ngày 13/01/2016 của UBND tỉnh Kiên Giang; Quyết định số 747/QĐ-
UBND ngày 31/10/2016 của UBND thành phố Rạch G về việc phê duyệt Quy
hoạch chi tiết Khu dân cư Nam An Hòa, phường An Hòa, thành phố Rạch Giá,
tỉnh Kiên Giang, tỷ lệ 1/500. Ngày 04/7/2017 UBND thành phố Rạch G, tỉnh
Kiên Giang ban hành Quyết định số 385/QĐ-UBND, về việc thu hồi 134,50m
2
đất trồng CLN, thuộc thửa 07 + 08 + 09 + 210, tờ bản đồ số 86, tại phường An H,
thành phố Rạch G của bà Quách Thị P (ông Trần Văn C chưa tách giấy) đang sử
dụng để thực hiện dự án, nhằm mục đích phát triển kinh tế - xã hội vì lợi ích quốc
gia, công cộng là đúng theo quy định tại điểm d khoản 3 Điều 62 của Luật đất đai
năm 2013.
[3]. Về địa điểm thực hiện dự án, tại Quyết định chủ trương đầu tư số
112/QĐ-UBND ngày 13/01/2016 của UBND tỉnh Kiên Giang có ghi là Khu phố
3 phường An H, nhưng vị trí để thực hiện dự án được thể hiện trên sơ đồ đã được
phê duyệt quy hoạch chi tiết là Khu phố 2 (có diện tích đất của ông C bị thu hồi)
việc này có sự nhầm lẫn khi ban hành quyết định đã nêu tại Thông báo số 74 ngày
20/2/2017 của UBND thành phố Rạch G và Quyết định số 2561/QĐ-UBND ngày
26/10/2021 của UBND tỉnh Kiên Giang; tại Tòa hai bên đương sự cũng xác nhận
UBND thành phố Rạch G không chỉ thu hồi đất của ông C mà còn thu hồi đất của
nhiều hộ khác tại Khu phố 2, để thực hiện dự án. Do đó, ông Cảnh cho rằng việc
thu hồi đất của ông C nằm ngoài dự án khu dân cư Nam An H là không có cơ sở.
[4]. Dự án khu dân cư Nam An H được Hội Đồng nhân dân tỉnh Kiên Giang
thông qua tại Nghị quyết số 153/2015/NQ-HĐND ngày 09/12/2015; nên nguyên
tắc bồi thường về đất khi Nhà nước thu hồi đất phải theo quy định tại khoản 2
Điều 74 Luật đất đai năm 2013.
“Việc bồi thường được thực hiện bằng việc giao đất có cùng mục đích sử
dụng với loại đất thu hồi, nếu không có đất để bồi thường thì được bồi thường
bằng tiền theo giá đất cụ thể của loại đất thu hồi do Ủy ban nhân dân cấp tỉnh
quyết định tại thời điểm quyết định thu hồi đất”.
8
Đối chiếu với điều luật trên, UBND thành phố Rạch G không có đất để bồi
thường nên bồi thường cho ông C bằng tiền là phù hợp; giá đất của ông C bị thu
hồi do UBND tỉnh Kiên Giang quyết định tại thời điểm có quyết định thu hồi đất.
Do đó, ông C cho rằng ngày 26/10/2021 UBND tỉnh Kiên Giang mới có Quyết
định số 2561/QĐ-UBND, về việc điều chỉnh địa điểm dự án có cả Khu phố 2,
phường An H nên diện tích đất của ông C nằm trong dự án, phải bồi thường theo
giá đất tại thời điểm ngày 26/10/2021 là chưa phù hợp; vì Quyết định số 385/QĐ-
UBND ngày 04/7/2017 của UBND thành phố Rạch G thu hồi 134,50m
2
đất trồng
CLN của ông C từ ngày 04/7/2017. Mặt khác, UBND thành phố Rạch G căn cứ
Quyết định số 812/2017/QĐ-UBND ngày 05/14/2017 của UBND tỉnh Kiên
Giang, về phê duyệt hệ số điều chỉnh giá đất cụ thể để tính tiền bồi thường quyền
sử dụng đất đối với Dự án khu dân cư Nam An H; Quyết định số 1918/2018/QĐ-
UBND ngày 28/8/2018 của UBND tỉnh Kiên Giang, về điều chỉnh giá bồi thường
quyền sử dụng đất khi Nhà nước thu hồi đất, thực hiện Dự án xây dựng khu dân
cư Nam An H; từ đó, UBND thành phố Rạch G đã ban hành Quyết định số
1469/QĐ-UBND ngày 28/12/2018 bồi thường, hỗ trợ bổ sung theo giá đất hẻm và
Quyết định số 69/QĐ-UBND ngày 30/3/2020 hỗ trợ chuyển đổi nghề và tìm kiếm
việc làm nhân hệ số, hỗ trợ ổn định đời sống cho ông Cảnh tổng cộng là 310.944.000
đồng là phù hợp với Điều 4, Điều 5 Nghị định số 44/2014/NĐ-CP ngày 15/5/2014 của
Chính phủ quy định về giá đất; Điều 14 Quyết định số 22/2015/QĐ-UBND ngày
17/6/2015 của UBND tỉnh Kiên Giang, về việc quy định bồi thường, hỗ trợ và tái
định cư khi Nhà nước thu hồi đất trên địa bàn tỉnh Kiên Giang (đã được sửa đổi
bổ sung theo Quyết định số 18/2018/QĐ-UBND ngày 06/7/2018 của UBND tỉnh
Kiên Giang).
[5]. Về quyết định cưỡng chế thu hồi đất: Do không thực hiện việc giao đất
và nhận tiền bồi thường, hỗ trợ khi thu hồi đất, Chủ tịch UBND thành phố Rạch
G ban hành Quyết định số 255/QĐ-CC ngày 18/9/2023, về việc cưỡng chế thu
hồi đất đối với ông Trần Văn C; để giao đất cho chủ đầu tư thực hiện dự án là
đúng quy định tại Điều 71 của Luật Đất đai năm 2013. Chủ tịch Ủy ban nhân dân
thành phố Rạch G ra Thông báo số 507/TB-UBND ngày 14/9/2023, về việc
không thụ lý giải quyết khiếu nại để ông C khởi kiện tại Tòa án là phù hợp.
[6]. Từ những phân tích trên, Hội đồng xét xử phúc thẩm thấy lời trình bày
của người bảo vệ quyền lợi và người đại diện theo ủy quyền của ông C không phù
hợp với nhận định của Hội đồng xét xử nên không được chấp nhận; quan điểm
của đại diện Viện kiểm sát nhân dân cấp cao tại Thành phố Hồ Chí Minh phù hợp
với nhận định của Hội đồng xét xử nên được chấp nhận; không chấp nhận đơn
kháng cáo của ông C; giữ nguyên bản án hành chính sơ thẩm; ông C phải chịu án
phí hành chính phúc thẩm nhưng do người cao tuổi nên được miễn theo quy định
tại điểm đ khoản 1 Điều 12 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày
30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp,
quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án.
[7]. Các quyết định khác của bản án sơ thẩm không bị kháng cáo, kháng
nghị có hiệu lực pháp luật kể từ ngày hết thời hạn kháng cáo, kháng nghị.
Vì các lẽ trên,
9
QUYẾT ĐỊNH:
- Căn cứ khoản 1 Điều 241 Luật Tố tụng hành chính năm 2015.
I. Không chấp nhận đơn kháng cáo của ông Trần Văn C; giữ nguyên Bản
án hành chính sơ thẩm số: 04/2024/HC-ST ngày 08 tháng 01 năm 2024 của Tòa
án nhân dân tỉnh Kiên Giang như sau:
- Căn cứ khoản 4 Điều 32, điểm a khoản 2 Điều 116 Luật Tố tụng hành
chính năm 2015; Căn cứ điểm d khoản 3 Điều 62, khoản 2 Điều 74 Luật đất đai
năm 2013; Căn cứ Điều 4, Điều 5 Nghị định số 44/2014/NĐ-CP ngày 15/5/2014
của Chính phủ quy định về giá đất; Căn cứ điểm đ khoản 1 Điều 12 Nghị Quyết
số 326/2016/NQ-UBTVQH14 ngày 30 tháng 12 năm 2016 của Ủy ban Thường
vụ Quốc hội quy định về thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và
lệ phí của Tòa án.
Tuyên xử:
1. Bác toàn bộ yêu cầu khởi kiện của ông Trần Văn C:
- Không chấp nhận yêu cầu hủy Quyết định số 385/QĐ-UBND ngày 04
tháng 7 năm 2017 của Ủy ban nhân dân thành phố Rạch G, về việc thu hồi đất
của bà Quách Thị P (Trần Văn C chưa tách giấy);
- Không chấp nhận yêu cầu hủy Quyết định số 368/QĐ-UBND ngày 11
tháng 7 năm 2017 của Ủy ban nhân dân thành phố Rạch G, về việc bồi thường, hỗ
trợ cho hộ ông Trần Văn C;
- Không chấp nhận yêu cầu hủy Quyết định số 1469/QĐ-UBND ngày 28
tháng 12 năm 2018 của Ủy ban nhân dân thành phố Rạch G về việc điều chỉnh
bồi thường, hỗ trợ bổ sung cho ông Trần Văn C;
- Không chấp nhận yêu cầu hủy Quyết định số 69/QĐ-UBND ngày 30
tháng 3 năm 2020 của Ủy ban nhân dân thành phố Rạch G về việc bồi thường, hỗ
trợ bổ sung cho ông Trần Văn C;
- Không chấp nhận yêu cầu hủy Quyết định số 255/QĐ-CC ngày 18 tháng
9 năm 2023 của Chủ tịch Ủy ban nhân dân thành phố Rạch G về việc cưỡng chế
thu hồi đất đối với ông Trần Văn C;
- Không chấp nhận yêu cầu hủy Thông báo số 507/TB-UBND ngày 14
tháng 9 năm 2023 của Chủ tịch Ủy ban nhân dân thành phố Rạch G về việc
không thụ lý giải quyết khiếu nại.
2. Án phí hành chính sơ thẩm: Ông Trần Văn C được miễn.
II. Án phí hành chính phúc thẩm: Ông Trần Văn C được miễn.
III. Bản án phúc thẩm có hiệu lực pháp luật kể từ ngày tuyên án./.
Nơi nhận:
- Tòa án nhân dân tối cao;
- VKSND cấp cao tại Tp. Hồ Chí Minh;
- TAND tỉnh Kiên Giang;
TM. HỘI ĐỒNG XÉT XỬ PHÚC THẨM
THẨM PHÁN - CHỦ TỌA PHIÊN TÒA
10
- VKSND tỉnh Kiên Giang;
- Cục THADS tỉnh Kiên Giang;
- Các đương sự;
- Lưu VP, HS, NTTP.
Đặng Văn Ý
Tải về
Bản án số 1304/2024/HC-PT
Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để tải file. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!
Bản án số 1304/2024/HC-PT
Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để tải file. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!
Bản án/ Quyết định cùng đối tượng
1
Ban hành: 30/12/2024
Cấp xét xử: Phúc thẩm
2
Ban hành: 30/12/2024
Cấp xét xử: Phúc thẩm
3
Ban hành: 28/12/2024
Cấp xét xử: Phúc thẩm
4
Ban hành: 27/12/2024
Cấp xét xử: Phúc thẩm
5
Ban hành: 26/12/2024
Cấp xét xử: Phúc thẩm
6
Ban hành: 26/12/2024
Cấp xét xử: Phúc thẩm
7
Ban hành: 25/12/2024
Cấp xét xử: Phúc thẩm
8
Ban hành: 25/12/2024
Cấp xét xử: Phúc thẩm
9
Ban hành: 25/12/2024
Cấp xét xử: Phúc thẩm
10
Ban hành: 25/12/2024
Cấp xét xử: Phúc thẩm
11
Ban hành: 24/12/2024
Cấp xét xử: Phúc thẩm
12
Ban hành: 24/12/2024
Cấp xét xử: Phúc thẩm
13
Ban hành: 24/12/2024
Cấp xét xử: Phúc thẩm
14
Ban hành: 24/12/2024
Cấp xét xử: Phúc thẩm
15
Ban hành: 24/12/2024
Cấp xét xử: Phúc thẩm
16
Ban hành: 23/12/2024
Cấp xét xử: Phúc thẩm
17
Ban hành: 23/12/2024
Cấp xét xử: Phúc thẩm
18
Ban hành: 23/12/2024
Cấp xét xử: Phúc thẩm
19
Ban hành: 23/12/2024
Cấp xét xử: Phúc thẩm