Bản án số 2283/2025/DS-PT ngày 10/06/2025 của TAND tỉnh Bến Tre về tranh chấp hợp đồng thuê quyền sử dụng đất

  • Thuộc tính
  • Nội dung
  • VB gốc
  • VB liên quan
  • Lược đồ
  • Đính chính
  • Án lệ
  • BA/QĐ cùng nội dung
  • Tải về
Tải văn bản
Báo lỗi
  • Gửi liên kết tới Email
  • Chia sẻ:
  • Chế độ xem: Sáng | Tối
  • Thay đổi cỡ chữ:
    17

Thuộc tính Bản án 2283/2025/DS-PT

Tên Bản án: Bản án số 2283/2025/DS-PT ngày 10/06/2025 của TAND tỉnh Bến Tre về tranh chấp hợp đồng thuê quyền sử dụng đất
Quan hệ pháp luật: Tranh chấp hợp đồng thuê quyền sử dụng đất
Cấp xét xử: Phúc thẩm
Tòa án xét xử: TAND tỉnh Bến Tre
Số hiệu: 2283/2025/DS-PT
Loại văn bản: Bản án
Ngày ban hành: 10/06/2025
Lĩnh vực: Dân sự
Áp dụng án lệ:
Đã biết

Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để xem áp dụng án lệ. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!

Đính chính:
Đã biết

Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để xem đính chính. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!

Thông tin về vụ/việc: NGUYỄN TRUNG T TRANH CHẤP HỢP ĐỒNG THUÊ QUYỀN SỬ DỤNG ĐẤT VỚI VÕ THỊ C
Tóm tắt Bản án

Nội dung tóm tắt đang được cập nhật, Quý khách vui lòng quay lại sau!

Tải văn bản

TÒA ÁN NHÂN DÂN
TỈNH BẾN TRE
Bản án số: 283/2025/DS-PT
Ngày 10-6-2025
V/v tranh chấp hợp đồng thuê
quyền sử dụng đất
CỘNG HÒA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM
Độc lập - Tự do - Hạnh phúc
NHÂN DANH
NƯỚC CỘNG HÒA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM
TÒA ÁN NHÂN DÂN
TỈNH BẾN TRE
- Thành phần Hội đồng xét xử phúc thẩm gồm :
Thẩm phán - Chủ tọa phiên tòa: Ông Huỳnh Ngọc Dũng
Các Thẩm phán: Ông Nguyễn Hữu Lương
Bà Nguyễn Thị Rẻn
- Thư ký phiên tòa: Ông Võ Tấn Vũ - Thư ký Tòa án nhân dân tỉnh Bến Tre.
- Đại diện Viện Kiểm sát nhân dân
tỉnh Bến Tre tham gia phiên tòa:
Thị Hồng Vân - Kiểm sát viên.
Ngày 10 tháng 6 năm 2025, tại trụ sở Tòa án nhân dân tỉnh Bến Tre xét xử phúc
thẩm công khai vụ án thụ lý số: 109/2025/TLPT-DS ngày 09/4/2025 về “Tranh chấp
hợp đồng thuê quyền sử dụng đất”.
Do Bản án n sự thẩm số: 27/2025/DS-ST ngày 12/02/2025 của Tòa án
nhân dân huyện Chợ Lách bị kháng cáo.
Theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử phúc thẩm số: 1413/2025/QĐ-PT ngày
25/4/2025 giữa các đương sự:
1. Nguyên đơn:
1.1. Ông Nguyễn Trung T, sinh năm 1985
1.2. Bà Lê Hồng P, sinh năm 1983
Địa chỉ: Khu phố H, phường A, Thị xã T, tỉnh Tây Ninh.
Người đại diện theo ủy quyền của nguyên đơn: Nguyễn Trần Ngọc N, sinh
năm 2001
Địa chỉ: Ấp T, xã T, huyện M, tỉnh Bến Tre.
Địa chỉ liên hệ: Snhà C, Đường Đ, Khu phố C, Phường G, Thành phố B, tỉnh
Bến Tre.
Người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của nguyên đơn: Luật Võ Thanh D
- Đoàn Luật sư tỉnh B.
2. Bị đơn:
2.1. Ông Võ Văn C, sinh năm 1967
2
2.2. Bà Trần Thị Thúy V, sinh năm 1963
Địa chỉ: Ấp L, xã T, huyện C, tỉnh Bến Tre.
3. Người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan: Võ Thị H, sinh năm 1969
Địa chỉ: Ấp L, xã T, huyện C, tỉnh Bến Tre.
4. Người kháng cáo: Nguyên đơn ông Nguyễn Trung T, bà Lê Hồng P.
NỘI DUNG VỤ ÁN:
Theo đơn khởi kiện của nguyên đơn ông Nguyễn Trung T, Hồng P
trong quá trình tố tụng, người đại diện theo ủy quyền của nguyên đơn trình bày:
Trước đây, ông T và bà P có cho vợ chồng ông Võ Văn C, bà Trần Thị Thúy
V thuê đất và nhà trên đất thông qua hợp đồng thuê đất ntrên đất được
chứng thực ngày 03 tháng 11 năm 2020 tại Ủy ban nhân dân T, huyện C, tỉnh Bến
Tre, số chứng thực 679, quyển số 01/2020-SCT/HD,GD.
Phần đất mà nguyên đơn cho bị đơn thuê thuộc thửa đất số 210, tờ bản đồ số
06, diện tích 439,7m
2
, tọa lạc tại ấp L, T, huyện C, tỉnh Bến Tre. Phần đất này
hiện Sở Tài nguyên Môi trường tỉnh B cấp giấy chứng nhận cho ông Nguyễn
Trung T, Lê Hồng P ngày 20/10/2020 theo giấy chứng nhận số vào sổ cấp giấy
chứng nhận CS10364, số phát hành giấy chứng nhận CX 777243. Tại thời điểm cho
thuê, trong hợp đồng nêu nguyên đơn cho ông C V thuê phần đất này với
giá 4.000.000đồng/tháng và phương thức thanh toán là thanh toán bằng tiền mặt.
Theo nhợp đồng mà hai bên đã thỏa thuận thì thời hạn mà nguyên đơn cho
ông C V thuê 02 năm kể từ ngày hợp đồng được công chứng, chứng thực.
Như vậy, theo như hợp đồng thì tính đến ngày 03 tháng 11 năm 2022 là đã hết thời
hạn cho thuê đất nhà trên đất. Hai bên không thực hiện gia hạn hợp đồng nêu trên.
Đến thời điểm hiện nay ông C và bà V vẫn còn sinh sống tại phần đất và nhà
trên đất nguyên đơn đã cho hai ông thuê mặc hai ông bà cũng không trả
tiền thuê đất nhà trên đất cho nguyên đơn trong suốt thời gian vừa qua. Nguyên
đơn đã nhiều lần yêu cầu ông C và bà V ra khỏi đất và nhà trên đất, hoàn trả lại cho
nguyên đơn để nguyên đơn vào quản lý, sử dụng nhưng hai ông không đồng ý
thực hiện.
Nguyên đơn nhận thấy rằng, việc làm của ông C và bà V đã vi phạm về nghĩa
vụ trong hợp đồng mà các bên đã thỏa thuận với nhau. Việc vi phạm này của ông C
và bà V gây ảnh hưởng rất nghiêm trọng đến quyền và lợi ích hợp pháp của nguyên
đơn.
Vì vậy, nay nguyên đơn có yêu cầu như sau:
Buộc ông Văn C Trần Thị Thúy V ra khỏi đất nhà trên đất thuộc
thửa đất số 210, tờ bản đồ số 06, tọa lạc tại ấp L, xã T, huyện C, tỉnh Bến Tre, diện
tích 439,7m
2
để trả lại cho nguyên đơn phần đất và căn nhà nói trên. Đối với khoảng
tiền thuê đất và nhà ở trên đất mà ông C và bà V đã nợ, nguyên đơn không yêu cầu
Tòa án giải quyết.
3
Trong quá trình tố tụng, bị đơn ông Võ Văn C, bà Trần Thị Thúy V; người có
quyền lợi, nghĩa vụ liên quan bà Võ Thị H vắng mặt nên không có lời trình bày.
Do không tiến hành hòa giải được, Tòa án nhân dân huyện Chợ Lách đã đưa
vụ án ra xét xử.
Tại Bản án dân sự thẩm số: 27/2025/DS-ST ngày 12/02/2025 của Tòa án
nhân dân huyện Chợ Lách đã áp dụng các Điều 422, 472, 482, 500, 501, 502 Bộ luật
Dân sự năm 2015; Điều 129, 131 Luật Nhà ở năm 2014; Điều 26, Điều 35, Điều 39,
Điều 147, khoản 4 Điều 277, điểm b khoản 2 Điều 227, khoản 3 Điều 228 Bộ luật
tố tụng Dân sự năm 2015; Điều 23 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày
30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu,
nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án tuyên xử:
Chấp nhận một phần yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn ông Nguyễn Trung T,
Lê Hồng P đối với và ông Võ Văn C, Trần Thị Thúy V.
Ông Văn C, bà Trần Thị Thúy V được quyền sử dụng đất đối với phần đất
hiệu (1) thuộc một phần thửa đất số 210, tờ bản đồ số 06, diện tích 148,3m
2
,
loại đất ONT tọa lạc tại ấp L, xã T, huyện C, tỉnh Bến Tre.
Buộc ông Văn C, Trần ThThúy V phải nghĩa vụ giao trả phần diện
tích còn lại đối với thửa đất số 210, tờ bản đồ số 06, tọa lạc tại ấp L, xã T, huyện C,
tỉnh Bến Tre cho ông Nguyễn Trung T, bà Lê Hồng P.
(kết quả đo đạc hiện trạng thửa đất kèm theo bộ phận không thể tách
rời bản án).
Buộc ông Văn C, Trần Thị Thúy V phải nghĩa vụ trả cho ông Nguyễn
Trung T, bà Lê Hồng P số tiền 66.735.000 đồng
Kiến nghị Sở Tài nguyên Môi trường tỉnh B thu hồi hoặc điều chỉnh giấy
chứng nhận quyền sử dụng đất có số vào sổ cấp giấy chứng nhận CS10364, số phát
hành giấy chứng nhận CX 777243 đã cấp cho ông Nguyễn Trung T, bà Nguyễn Thị
P1 ngày 20/10/2020 đối với thửa đất số 210, tờ bản đồ số 6, diện tích 439,7m
2
toạ
lạc tại ấp L, xã T, huyện C, tỉnh Bến Tre để cấp lại cho ông Võ Văn C, bà Trần Thị
Thúy V cho phù hợp với quyết định của bản án.
Ngoài ra, bản án còn tuyên về án phí, chi phí tố tụng, nghĩa vụ chậm thi hành
án và quyền kháng cáo của các đương sự.
Ngày 19/02/2025 , nguyên đơn ông Nguyễn Trung T, Hồng P kháng
cáo toàn bộ bản án sơ thẩm, đề nghị cấp phúc thẩm sửa bản án sơ thẩm, chấp nhận
yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn.
Tại phiên tòa phúc thẩm, người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của nguyên
đơn trình bày: Cấp sơ thẩm tuyên giao đất cho bị đơn và buộc bị đơn trả tiền giá trị
quyền sử dụng đất là vượt quá yêu cầu của đương sự vì bị đơn không có yêu cầu gì
trong vụ án. Trước đây, nguyên đơn đã tranh chấp hợp đồng thuê, bị đơn chấp nhận
trả tiền thuê nhưng không thực hiện nên nguyên đơn mới kiện trong vụ án này để
đòi lại tài sản nhà đất cho thuê. Việc giao đất trtiền cũng không thi hành án được
4
bị đơn không có điều kiện, thực tế bị đơn đã không trả tiền thuê trong vụ án trước,
gây ảnh hưởng đến quyền lợi của nguyên đơn. Ngoài ra, nguyên đơn chưa yêu cầu
giải quyết stiền thuê còn nợ, không phải không yêu cầu như bản án thẩm
nhận định. Theo nguyên đơn biết thì bị đơn có đất ở nơi khác, hơn nữa cấp sơ thẩm
cho rằng nguyên đơn không nhu cầu nhà không phù hợp, làm ảnh hưởng đến
quyền lợi ích hợp pháp của nguyên đơn bởi đây hợp đồng thuê tài sản. Do
đó, đề nghị Hội đồng xét xử chấp nhận toàn bộ yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn,
buộc bị đơn di dời tài sản, trả lại nhà đất thuê của nguyên đơn.
Kiểm sát viên Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Bến Tre tham gia phiên tòa phát
biểu ý kiến:
Về tố tụng: Những người tiến hành tố tụng, những người tham gia tố tụng đã
tuân thủ đúng các quy định của Bộ luật Tố tụng Dân sự năm 2015.
Về nội dung: Đề nghHội đồng xét xử tạm ngừng phiên tòa để yêu cầu
quan có thẩm quyền xác định rõ kích thước, tứ cận của phần diện tích 143,8m
2
được
hiệu (1) phần đất căn nhà của bị đơn để đảm bảo cho việc thi hành án sau
này.
NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN:
Căn cứ vào các tài liệu, chứng cứ có trong hồ đã được thẩm tra công khai
tại phiên tòa; kết quả tranh tụng tại phiên tòa; ý kiến đề nghị của Kiểm sát viên; xét
kháng cáo của ông Nguyễn Trung T, bà Lê Hồng P; Hội đồng xét xử nhận định:
[1] Nguyên đơn căn cứ hợp đồng thuê nhà đất được chứng thực ngày
03/11/2020 tại Ủy ban nhân dân xã T, huyện C cho rằng bị đơn vi phạm nghĩa vụ
hợp đồng thuê nên yêu cầu bị đơn trả lại tài sản là nhà và quyền sử dụng đất thuê.
[2] Theo Văn bản số 1256/CNCL–TTLT ngày 06/5/2024 về việc cung cấp d
liệu đất đai của Chi nhánh Văn phòng đăng ký đất đai huyện C (sau đây gọi Chi
nhánh) thì:
Thửa đất số 210 được cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, quyền sở hữu
nhà tài sản khác gắn liền với đất (giấy chứng nhận) lần đầu số vào số
CH05927, cấp ngày 22 tháng 5 năm 2013, tên người sử dụng đất: Bà Nguyễn Thị Ú.
Ngày 14 tháng 7 năm 2017, thửa đất số 210 nêu trên được cấp giấy chứng nhận
số vào số CS08088, tên người sử dụng đất: Võ Thị Hồng H1 (theo thủ tục nhận tặng
cho). Ngày 26 tháng 11 năm 2018, thửa đất số 210 được cấp giấy chứng nhận có số
vào số CS09073, tên người sử dụng đất: Bà Võ Thị H (thủ tục nhận tặng cho). Ngày
20 tháng 10 năm 2020, thửa đất số 210 được cấp giấy chứng nhận số vào số
CS10364, tên người sử dụng đất: ông Nguyễn Trung T Hồng P (thủ tục cấp
nhận chuyển nhượng). Đồng thời, trong vụ án này các bên đương sự không ai yêu
cầu về việc tranh chấp đối với quyền sử dụng đất thuộc thửa 210 nên có căn cứ xác
định nguyên đơn có các quyền của người sử dụng đất.
[3] Đối với hợp đồng thuê nhà đất:
Nguyên đơn cung cấp hợp đồng thuê đất và nhà trên đất ngày 03 tháng 11
năm 2020.
5
Về hình thức hợp đồng được lập thành văn bản đúng quy định, có đầy đủ chữ
của bên cho thuê bên thuê được chứng thực vào ngày 03 tháng 11 năm 2020
tại Ủy ban nhân dân T, huyện C, tỉnh Bến Tre, số chứng thực 679, quyển số
01/2020-SCT/HĐ,GD. Về nội dung các thỏa thuận trong hợp đồng không vi phạm
điều cấm của luật, không trái đạo đức xã hội.
Tại Quyết định số 26/2022/QĐCNHGT ngày 20/4/2022 của Tòa án nhân dân
huyện Chợ Lách việc công nhận kết quả hòa giải thành tại Tòa án, tại phần Quyết
định có nêu nội dung “Ông Võ Văn C và bà Trần Thị Thúy V tự nguyện đồng ý liên
đới hoàn trả cho ông Nguyễn Trung T Hồng P số tiền thuê nhà quyền
sử dụng đất tính đến hết tháng 3 năm 2022 (tổng cộng 12 tháng) với số tiền
48.000.000đ”. Từ đó, có căn cứ xác định giữa hai bên xác lập hợp đồng thuê nhà,
đất trên thực tế. Hơn nữa, Tòa án đã tiến hành tống đạt hợp lệ thông báo thụ vụ
án, thông báo hòa giải nhưng bị đơn vắng mặt không đến Tòa án để phản đối hoặc
để chứng minh bị lừa đối, ép buộc khi ký hợp đồng hoặc đã thực hiện xong nghĩa vụ
trả tiền thuê theo hợp đồng.
Như vậy, yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn yêu cầu giao lại tài sản cho thuê
nhà đất căn cứ được Hội đồng xét xử chấp nhận. Cấp thẩm cho rằng bị
đơn khó khăn vchỗ nên giao cho bị đơn phần đất hiệu (1) và buộc bị đơn
hoàn trả giá trị quyền sử dụng đất cho nguyên đơn không phù hợp, bởi đây là
hợp đồng thuê tài sản, bên thuê vi phạm nghĩa vụ làm ảnh hưởng đến quyền lợi của
bên cho thuê nên yêu cầu của nguyên đơn là chính đáng.
[4] Đối với số tiền thuê nhà đất bị đơn còn nợ, trong vụ án này nguyên đơn
không có yêu cầu giải quyết nên cấp sơ thẩm không xem xét là phù hợp. Tuy nhiên
việc lập luận “nguyên đơn không yêu cầu do tự nguyện vì vậy cần ghi nhận” có thể
dẫn đến nhầm lẫn trong cách hiểu. Do đó, cấp phúc thẩm xác định đối với số tiền
thuê nhà đất còn nợ, nguyên đơn không yêu cầu giải quyết nên Tòa án không xem
xét.
Từ những nhận định trên, cấp thẩm chấp nhận yêu cầu khởi kiện của nguyên
đơn phù hợp, tuy nhiên việc giao cho bị đơn một phần đất, buộc bđơn trả tiền giá
trị quyền sử dụng đất không phù hợp. Kháng cáo của bị đơn là căn cứ nên được
chấp nhận, sửa bản án sơ thẩm, buộc bị đơn di dời tài sản, trả lại nđất cho nguyên
đơn.
[5] Đề nghị của Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Bến Tre phù hợp với nhận định
của Hội đồng xét xử nên được chấp nhận.
[6] Về án phí phúc thẩm: Do kháng cáo được chấp nhận nên Nguyễn Trung
T, bà Lê Hồng P không phải chịu án phí theo quy định.
Vì các lẽ trên,
QUYẾT ĐỊNH:
Căn cứ khoản 2 Điều 308, Điều 309 Bộ luật Tố tụng Dân sự năm 2015;
Chấp nhận kháng cáo của Nguyễn Trung T, bà Lê Hồng P;
6
Sửa Bản án thẩm số: 27/2025/DS-ST ngày 12/02/2025 của Tòa án nhân
dân huyện Chợ Lách, tỉnh Bến Tre.
Áp dụng các Điều 422, 472, 482, 500, 501 và 502 Bộ luật Dân sự năm 2015;
Điều 129, 131 Luật Nhà năm 2014; Điều 26, Điều 35, Điều 39, Điều 147, khoản
4 Điều 277, điểm b khoản 2 Điều 227, khoản 3 Điều 228 Bộ luật tố tụng Dân sự năm
2015 Điều 23 Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban
Thường vụ Quốc hội quy định về án phí và lệ phí Tòa án .
Tuyên xử:
[1] Chấp nhận yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn ông Nguyễn Trung T, bà
Hồng P đối với và ông Võ Văn C, Trần Thị Thúy V.
Buộc ông Văn C Trần Thị Thúy V di dời tài sản ra khỏi nhà và đất
(phần đất có diện tích 439,7m
2
) thuộc thửa đất số 210, tbản đồ số 06, tọa lạc tại ấp
L, T, huyện C, tỉnh Bến Tre đtrả lại cho ông Nguyễn Trung T, Lê Hồng P
phần đất và căn nhà trên đất.
(kết quả đo đạc hiện trạng thửa đất kèm theo bộ phận không thể tách
rời bản án).
[2] Về chi phí tố tụng: Buộc ông Văn C, Trần Thị Thúy V phải nghĩa
vụ chịu có nghĩa vụ trả lại cho ông Nguyễn Trung T, Hồng P số tiền
4.353.000 đồng.
[3] Về án phí:
[3.1] Về án phí sơ thẩm:
Buộc ông Văn C, Trần Thị Thúy V phải có nghĩa vụ chịu 300.000đồng.
Hoàn trả lại cho ông Nguyễn Trung T, bà Hồng P số tiền tạm ứng án p
đã nộp 300.000 đồng theo biên lai thu tạm ứng án phí, lệ phí Tòa án số 0001291
ngày 21/12/2023 của Chi cục thi hành án dân sự huyện Chợ Lách, Bến Tre.
[3.2] Về án phí phúc thẩm:
Hoàn trả cho ông Nguyễn Trung T, bà Lê Hồng P mỗi 300.000 đồng theo các
biên lai thu tạm ứng án phí, lệ phí tòa án số 0009020 1009019 cùng ngày 21 tháng
02 năm 2025 của Chi cục thi hành án dân sự huyện Chợ Lách, tỉnh Bến Tre.
Trường hợp bản án được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật Thi hành án
dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự quyền
thỏa thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị
cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các Điều 6, 7, 7a, 7b và 9 của Luật Thi hành
án dân sự; thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật Thi
hành án dân sự.
Bản án phúc thẩm có hiệu lực pháp luật kể từ ngày tuyên án.
7
Nơi nhận:
- VKSND tỉnh Bến Tre;
- TAND huyện Chợ Lách;
- Chi cục THADS huyện Chợ Lách;
- Phòng KTNV&THA TAND tỉnh;
- Các đương sự;
- Lưu: VT, hồ sơ vụ án.
TM. HỘI ĐỒNG XÉT XỬ PHÚC THẨM
THẨM PHÁN - CHỦ TỌA PHIÊN TÒA
Huỳnh Ngọc Dũng
Tải về
Bản án số 2283/2025/DS-PT Bản án số 2283/2025/DS-PT

Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để tải file. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!

Bản án số 2283/2025/DS-PT Bản án số 2283/2025/DS-PT

Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để tải file. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!

Bản án/ Quyết định cùng đối tượng

Bản án cùng lĩnh vực

Bản án mới nhất