Bản án số 91/2025/DSPT ngày 17/06/2025 của TAND tỉnh Thái Nguyên về tranh chấp quyền sử dụng đất

  • Thuộc tính
  • Nội dung
  • VB gốc
  • VB liên quan
  • Lược đồ
  • Đính chính
  • Án lệ
  • BA/QĐ cùng nội dung
  • Tải về
Tải văn bản
Báo lỗi
  • Gửi liên kết tới Email
  • Chia sẻ:
  • Chế độ xem: Sáng | Tối
  • Thay đổi cỡ chữ:
    17

Thuộc tính Bản án 91/2025/DSPT

Tên Bản án: Bản án số 91/2025/DSPT ngày 17/06/2025 của TAND tỉnh Thái Nguyên về tranh chấp quyền sử dụng đất
Quan hệ pháp luật: Tranh chấp quyền sử dụng đất
Cấp xét xử: Phúc thẩm
Tòa án xét xử: TAND tỉnh Thái Nguyên
Số hiệu: 91/2025/DSPT
Loại văn bản: Bản án
Ngày ban hành: 17/06/2025
Lĩnh vực: Dân sự
Áp dụng án lệ:
Đã biết

Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để xem áp dụng án lệ. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!

Đính chính:
Đã biết

Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để xem đính chính. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!

Thông tin về vụ/việc: Nguyễn Duy Đoán- Trần Quế Thiêm
Tóm tắt Bản án

Nội dung tóm tắt đang được cập nhật, Quý khách vui lòng quay lại sau!

Tải văn bản

1
TÒA ÁN NHÂN DÂN
TỈNH THÁI NGUYÊN
Bản số: 91/2025/DSPT
Ngày: 17/6/2024
V/v “Tranh chấp quyền sử
dụng đất”
CỘNG HÒA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM
Độc lập - Tự do - Hạnh phúc
NHÂN DANH
NƯỚC CỘNG HÒA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM
A ÁN NN N TỈNH THÁI NGUN
Với thành phần Hội đồng xét xử phúc thẩm gồm có:
Thẩm phán - Chủ tọa phiên tòa: Ông Hoàng Văn Giang.
Các Thẩm phán: Bà Nguyễn Thị Thuỷ và ông Nguyễn Văn Quế.
Thư phiên tòa: ch Ngọc - Thư Tòa án nhân dân tỉnh Thái
Nguyên.
Đại diện Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Thái Nguyên tham gia phiên tòa:
Thị Năm - Kiểm sát viên.
Ngày 17/6/2025 tại trụ sở Tán nhân dân tỉnh Thái Nguyên tiến hành xét
xử phúc thẩm công khai vụ án dân sự thụ số 184/2024/TLPT-DS ngày 28 tháng
10 năm 2024 về việc “Tranh chấp quyền sử dụng đất” do bản án dân sự thẩm
số: 92/2024/DS-ST ngày 06 tháng 9 năm 2024 của Toà án nhân dân thành phố T,
tỉnh Thái Nguyên bị kháng cáo.
Theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 356/2024/QĐPT-DS ngày 18 tháng
12 năm 2024 giữa các đương sự:
* Nguyên đơn: Ông Nguyễn Duy Đ, sinh năm 1962.
Địa chỉ: Tổ 12, phường Ph, thành phố T, tỉnh Thái Nguyên.
(Có mặt)
Người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp cho ông Nguyễn Duy Đ: Bà Thiệu
Thị Thanh H1 Luật sư, văn phòng luật Thái Đoàn Luật tỉnh Thái
Nguyên.
(Có mặt)
* Bị đơn có yêu cầu phản t: Ông Trần Quế Th, sinh năm 1963.
Địa chỉ: Tổ 12, phường Ph, thành phố T, tỉnh Thái Nguyên.
Người được ủy quyền: Ông Phan Quang H, sinh năm 1988.
2
Địa chỉ: Tổ 1, phường C, thành phố T, tỉnh Thái Nguyên.
(Có mặt)
* Người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan:
1. Bà Phạm Thị Thái H1, sinh năm 1965.
Địa chỉ: Tổ 12, phường Ph, thành phố T, tỉnh Thái Nguyên.
(Vắng mặt)
2. Bà Nguyễn Thị H2, sinh năm 1972;
Địa chỉ: Tổ 12, phường Ph, thành phố T, tỉnh Thái Nguyên.
Người được ủy quyền: Bà Hoàng Thị H3, sinh năm 1988;
Địa chỉ: Số 1, H4, thành phố T, tỉnh Thái Nguyên (Có mặt)
NỘI DUNG VỤ ÁN
* Theo đơn khởi kiện, bản tự khai, biên bản ghi lời khai, bản án sơ thẩm
tại phiên tòa, nguyên đơn trình bày:
Gia đình ông được cấp quyền sử dụng đất đối với diện tích 600m
2
tại 02 thửa
đất số 1175, 296 tờ bản đồ số 6, địa chỉ: Phường Ph, thành phố T, tỉnh Thái
Nguyên, theo Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất số BI 395536 ngày 26/3/2012
của Ủy ban nhân dân thành phố T, tỉnh Thái Nguyên.
Về nguồn gốc đất trên là của Hợp tác xã nông nghiệp Phú Thọ bán cho ông
L, với diện tích ban đầu 620m
2
đất trồng cây lâu năm. Năm 2000 ông mua lại
của ông Sơn L, khi mua bán không tiến hành đo đạc lại thửa đất, ông L chỉ
giao các giấy tờ liên quan đến thửa đất. Về vị trí, ranh giới thửa đất thì ông cũng
biết, phía Đông giáp đường xóm, phía Bắc giáp nhà ông Th, phía Nam giáp nhà
ông Ch (sau này là rãnh thoát nước), phía Tây giáp đất nhà ông Nguyễn Duy C2
(bố ông). Khi ông kê khai được cấp GCNQSD đất thì chỉ được cấp 600m
2
,
trong đó có (150m
2
, thửa số 1175, loại đất ở tại đô thị450m
2
, thửa số 296, loại
đất trồng cây lâu năm).
Sau khi mua đất năm 2000, đến năm 2002 ông xây 01 dãy nhà trọ 07 phòng
giáp với đường m trên thửa đất 296 hiện nay. Khoảng năm 2003-2004 (ông
không nhớ chính xác), nhà ông Th xây tường rào bằng gạch thay thế hàng rào
găng trước đó giáp với thửa đất 1175 của nhà ông, khi nhà ông Th xây thì ông biết
không ý kiến gì. Khoảng 01 năm sau thì ông xây phòng trtường giáp
với hàng rào gạch nhà ông Th. Hiện nay, ông đã phá nhà trọ này đi, chỉ để lại bức
tường giáp với tường rào nhà ông Th để ngăn cách giữa hai nhà. Năm 2007, ông
làm đơn xin đề nghị cấp GCNQSD đất, ông không thấy quan thẩm quyền
đo đạc lại thửa đất, mà chỉ biết sau này ông được cấp GCNQSD đất như hiện nay
3
và hai gia đình sử dụng đất n định. Năm 2021, ông Th xây bể phốt giáp với thửa
đất số 295 thì ông thấy nhà ông Th xây lấn sang thửa đất này của nhà ông. Ông
mời đơn vị đo đạc Thái An đến để kiểm tra, đo đạc lại thì thấy nhà ông Th xây
hàng rào một phần nhà vệ sinh lấn sang thửa đất số 1175, tờ bản đồ số 6 của
nhà ông với diện tích 2,7m
2
. Do vậy, ông làm đơn đến Ủy ban nhân dân phường
Ph để giải quyết nhưng không thành, ông Th đã lấp bể phốt này đi. Do đó ông đã
khởi kiện yêu cầu ông Th trả lại phần diện tích đã lấn chiếm sang thửa đất số 1175
của gia đình ông là 2,7m
2
. Tòa án tiến hành đo đạc lại thửa đất, xác định nhà ông
Th xây lấn sang đất nhà ông 08m
2
. Nay, ông yêu cầu ông Th trả lại cho ông phần
diện tích đã lấn chiếm sang thửa đất số 1175 của gia đình ông là 08m
2
và tháo dỡ
toàn bộ công trình xây dựng lấn chiếm trên đất.
Trong quá trình giải quyết tại Toà án ông Trần Quế Th yêu cầu phản tố đề
nghị công nhận diện tích 08m
2
đất tranh chấp của ông Trần Quế Th. Ông không
nhất trí với yêu cầu phản tố của ông Th.
* Bị đơn ông Trần Quế Th trình bày:
Nhà ông được cấp quyền sử dụng đất đối với thửa đất số 294, tờ bản đồ số 6,
địa chỉ: Phường Ph, thành phố T, tỉnh Thái Nguyên, theo Giấy chứng nhận quyền
sử dụng đất số 724084 do Ủy ban nhân dân tỉnh Thái Nguyên cấp ngày 28/9/1999
với diện tích 111m
2
. Về nguồn gốc thửa đất là ông mua của ông Nguyễn Duy C2
(bố của ông Nguyễn Duy Đ) vào năm 1991, vị trí thửa đất phía trước giáp đường
Phú Xá, phía sau giáp đất ruộng Hợp tác xã, một phía giáp với nhà ông C2, một
phía giáp đường xóm. Khi mua ông ông C2 có viết Đơn xin bán nhà hoa
màu, trong giấy tờ mua bán hai bên không ghi diện tích thửa đất mua bán. Nhưng
ông C2 chỉ vị trí thửa đất cho ông, hai bên cùng xác định ranh giới thửa đất hai
nhà với nhau. Sau khi mua xác định ranh giới thửa đất xong ông xây một
hàng rào lửng để ngăn đất tràn xuống ruộng xây 01 nhà vệ sinh phần c
giáp đất nhà ông, nhà ông C2 ruộng của hợp tác xã. Ông C2 ra xem ông làm
và nhất trí với ranh giới nàysử dụng ổn định từ đó đến nay. Quá trình sử dụng
ông xây cao lên ốp gạch cho sạch. Còn về phía ông Đ mua đất ruộng của
Hợp tác lấp đất xây nhà trọ, phần tường của nhà trọ xây giáp với hàng
rào của nhà ông. Khoảng năm 2021-2022, ông Đ phá nhà trọ đi, bờ tường của nhà
trọ ông Đ xây ông Đ vẫn để nguyên như hiện nay làm ranh giới giữa hai nhà. Ông
xác định, ông sử dụng thửa đất ông mua theo đúng vị trí, ranh giới ông C2 đã chỉ
cho ông. Ông sdụng ổn định từ năm 1991 đến nay, không tranh chấp với ai. Nay
ông Đ cho rằng nhà ông lấn chiếm diện tích 08m
2
và khởi kiện yêu cầu ông phải
trả, ông không nhất trí đồng thời ông có yêu cầu phản tố đề nghị Tòa án công
nhận phần diện tích đất 08m
2
đất đang tranh chấp thuộc quyền sử dụng của
ông.
4
* Người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan bà Nguyễn Thị H2: Không viết bản
tự khai, Hạnh nhất trí với việc khởi kiện quan điểm như ông Nguyễn Duy
Đ.
* Người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan bà Phạm Thị Thái H1: Ý kiến trình
bày giống của ông Trần Quế Th.
Tại bản án số: 92/2024/DS-ST ngày 06 tháng 9 năm 2024 của Toà án nhân
dân thành phố T, tỉnh Thái Nguyên, quyết định:
Căn cứ khoản 9 Điều 26, khoản 1 Điều 35, khoản 1 Điều 39, Điều 147, Điều
157, Điều 165, Điều 227, Điều 228, Điều 271, Điều 273 Bộ luật tố tụng dân sự
năm 2015;
Căn cứ Điều 175, Điều 236 Bộ luật dân sự năm 2015;
Căn cứ Điều 106 Luật đất đai năm 2003;
Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH, ngày 30 tháng 12 năm 2016 của Ủy ban
Thường vụ Quốc hội Quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản s
dụng án phí và lệ phí Tòa án;
Tuyên xử
1. Không chấp nhận yêu cầu khởi kiện của ông Nguyễn Duy Đ về việc buộc
ông Trần Quế Th trả lại ông diện tích 08m
2
đất, tại thửa đất số 1175, tờ bản đồ số
6, địa chỉ tổ 12, Phường Ph, thành phố T tháo dỡ toàn bộ công trình xây dựng
trên đất.
2. Chấp nhận yêu cầu phản tố của ông Trần Quế Th: Công nhận phần diện
tích 08m
2
đất ở thuộc thửa đất số 1175, tờ bản đồ số 6, địa chỉ Tổ 12, phường Ph,
thành phố T, tỉnh Thái Nguyên thuộc quyền sử dụng của ông Trần Quế Th. (vị trí
thửa đất theo đồ do công ty cổ phần địa ốc Hanlands đo đạc các điểm 5, 6,
7, 8, E, 5) (có sơ đồ kèm theo).
- Về thủ tục đăng biến động đất đai: Ông Nguyễn Duy Đông Trần Quế
Th quyền và nghĩa vụ liên hệ quan nhà nước thẩm quyền để thực hiện
đăng ký biến động đất đai theo quy định của pháp luật.
3. Về chi phí tố tụng:
Ông Nguyễn Duy Đ phải chịu chi phí xem xét thẩm định, đo đạc và định g
tài sản là 10.000.000đ (mười triệu đồng). Ông Đ đã thanh tn xong.
Ngoài ra, bản án còn quyết định về án phí, quyền kháng cáo của các bên đương
sự.
Ngày 19/9/2024 ông Nguyễn Duy Đ kháng cáo, yêu cầu huỷ bản án số
92/2024/DS-ST ngày 06 tháng 9 năm 2024 của Toà án nhân dân thành phố T, tỉnh
Thái Nguyên. Chấp nhận yêu cầu của nguyên đơn, buộc ông Trần Quế Th trả lại
5
ông Nguyễn Duy Đ diện tích 08m
2
đất tại thửa số 1175 tờ bản đồ số 6, tại địa chỉ
tổ 12, Phường Ph, thành phố T và phải tháo dỡ toàn bộ công trình trên đất.
Nội dung kháng cáo, ông Đ cho rằng vị trí tường rào được xây dựng từ trước
do gia đình ông Th y không phải là danh giới thực địa do hai bên thoả thuận
chỉ là ranh giới tạm thời trước khi gia đình ông được cấp GCNQSDĐ. Năm 2012
gia đình ông được cấp GCNQSDĐ gia đình ông mới biết chính xác diện tích đất,
ranh giới ca gia đình ông trên bản đồ. Năm 2021 gia đình ông Th xây bể phốt đã
lấn sang diện tích đất trên bản đồ. Ông đã sử dụng vượt quá diện tích đã được cấp
GCNQSDĐ lấn chiếm sang diện tích đất thuộc quyền quản lý, s dng ca ông Vũ
Sơn L (Trưc đó là của HTX Phú Th).
Tại phiên tòa phúc thẩm nguyên đơn vẫn giữ nguyên yêu cầu kháng cáo n
nêu trên.
Người bảo vquyền lợi ích hợp pháp cho nguyên đơn phát biểu ý kiến
tranh luận: Đề nghị Hội đồng xét xử sửa án thẩm theo hướng, chấp nhận yêu
cầu khởi kiện của nguyên đơn, buộc bị đơn trả lại cho nguyên đơn 8m
2
tại thửa số
1175, tờ bản đồ số 6, tại địa chỉ tổ 12, Phường Ph, thành phố T phải tháo dỡ
toàn bộ công trình trên đất.
Nguyên đơn nhất trí với ý kiến của người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp,
không có ý kiến bổ sung.
Người đại diện theo ủy quyền của bị đơn có yêu cầu phản tố phát biểu ý kiến
tranh luận: Không đồng ý với quan điểm của người bảo vệ quyền lợi ích hợp
pháp cho nguyên đơn và nguyên đơn. Đề nghị Hội đồng xét xử giữ nguyên quyết
định của bản án sơ thẩm.
Người được ủy quyền của người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan phát biểu
ý kiến tranh luận: Đề nghị Hội đồng t xử buộc bđơn trả lại cho gia đình
Hạnh 8m
2
tại thửa số 1175, tờ bản đồ số 6, tại địa chỉ tổ 12, Phường Ph, thành phố
T và phải tháo dỡ toàn bộ công trình trên đất.
Quan điểm của Kiểm sát viên tại phiên toà: Trong quá trình giải quyết vụ án
từ khi thụ vụ án cho đến trước khi nghị án Thẩm phán Hội đồng xét xử đã
thực hiện đầy đủ các quy định của pháp luật tố tụng dân sự. Về nội dung: Căn cứ
khoản 1 Điều 308 Bộ luật tố tụng dân sự đề nghị Hội đồng xét xử bác đơn kháng
cáo của nguyên đơn ông Nguyễn Duy Đ; Giữ nguyên bản án dân s thẩm số
92/2024/DS-ST ngày 06 tháng 9 năm 2024 của Toà án nhân dân thành phố T, tỉnh
Thái Nguyên.
Đề nghị miễn án phí dân sự phúc thẩm cho ông Nguyễn Duy Đ do là người
cao tuổi.
NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN
6
Sau khi nghiên cứu các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và đã được thẩm tra tại
phiên toà, căn cứ vào kết quả tranh luận tại phiên toà. Hội đồng xét xử nhận định:
[1] Về thủ tục tố tụng:
Nguyên đơn kháng cáo trong hạn luật định, được xem xét theo trình tự phúc
thẩm.
[2] Về nội dung:
Xét yêu cầu khởi kiện và nội dung kháng cáo của nguyên đơn, Hội đồng xét
xử thấy:
Nguồn gốc đất của ông Nguyễn Duy Đ: Năm 2000 ông Nguyễn Duy Đ mua
lại của ông Sơn L, hai bên không tiến hành đo đạc diện tích, năm 2002 ông
Nguyễn Duy Đ xây 01 dãy nhà trọ 07 phòng giáp với đường xóm, đến khoảng
năm 2004 thì xây phòng trọ tường giáp với hàng rào gạch nhà ông Th. Hiện
nay, ông đã phá nhà trọ này đi, chỉ đlại bức tường giáp với tường rào nhà ông
Th để ngăn cách giữa hai nhà. Năm 2012 ông Nguyễn Duy Đ Nguyễn Thị
H2 được Ủy ban nhân dân thành phố T, tỉnh Thái Nguyên cấp Giấy chứng nhận
quyền sử dụng đất số BI 395536 ngày 26/3/2012 tại thửa số 1175, diện tích 150m
2
,
loại đất ở tại đô thị và thửa số 296, diện tích 450m
2
, loại đất trồng cây lâu năm.
V ngun gốc đt ca ông Trn Quế Th: Năm 1991 gia đình ông Th mua của
ông Nguyễn Duy C2 (bố của ông Nguyễn Duy Đ), vị trí thửa đất phía trước giáp
đường Phú Xá, phía sau giáp đất ruộng Hợp tác xã, một phía giáp với nhà ông C2,
một phía giáp đường xóm. Khi mua ông ông C2 viết Đơn xin bán nhà
hoa màu, trong giấy tờ mua bán hai bên không ghi diện tích thửa đất mua bán.
Sau khi nhận chuyển nhượng đất của ông C2, gia đình ông Th đã xây một hàng
rào và làm nhà vệ sinh cuối thửa đất giáp ranh với thửa đất của ông Xuân L,
(sau nay ông L bán cho ông Đ) và sử dụng từ đó cho đến nay. Năm 1999 gia đình
ông Th được Ủy ban nhân dân tỉnh Thái Nguyên cấp Giấy chứng nhận quyền sử
dụng đất số 724084 ngày 28/9/1999 với diện tích 111m
2
, loại đất sử dụng (T),
thửa số 294, tờ bản đồ số 6. Đến năm 2021 gia đình ông Th sửa chữa nhà vệ sinh
đào hố ga xây cho cao thêm tường rào đã làm từ năm 1994 1995 txảy
ra tranh chấp.
Trong giai đoạn chuẩn bị xét xử, Toà án cấp thẩm đã thu thập tài liệu
chứng cứ về hồ cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất của ông Trần Quế Th
ông Nguyễn Duy Đ. Đồng thời thẩm định tại chỗ xác định diện tích đất đang
tranh chấp 08 m
2
. Bên cạnh đó còn thu thập trích lục bản đồ địa chính đo
đạc năm 1995, thửa 294 diện tích 132m
2
; trích lục bản đồ địa chính đo đạc năm
2013, thửa 294 diện tích 132m
2
; trích lục bản đồ địa chính đo đạc năm 2015,
thửa 294 diện tích 128m
2
. Tại văn bản số 2252/STNMT-VPĐKĐĐ ngày
07/6/2024 nội dung “….- Về lý do bản đồ địa chính sự thay đổi về diện tích,
7
hình thể, kích thước thửa đất qua các thời kỳ: bản đồ địa chính thể hiện hiện trạng
sử dụng đất tại thời điểm đo đạc. Hình thể, kích thước thửa đất được thể hiện trên
bản đồ địa chính theo dẫn đạc của chủ sử dụng đất, do vậy Sở tài nguyên và môi
trường không có căn cứ để xác định lý do sự thay đổi về diện tích, hình thể, kích
thước thửa đất qua các thời kỳ đo đạc bản đồ địa chính.”
Theo văn bản số 224/UBND-VP ngày 28/6/2024 của Uỷ ban nhân dân
Phường Ph, thành phố T xác định.
* Nguồn gốc thửa đất 294 và 1175 tờ bản đồ số 6:
+ Thửa đất số 294, tờ bản đồ số 6 nguồn gốc do ông Trần Quế Th nhận
chuyển nhượng quyền sử dụng đất của ông Nguyễn Duy C2 tnăm 1991 (Có đơn
xin bán nhà và hoa màu được UBND phường Phú Xá xác nhận).
+ Thửa đất số 1175, tờ bản đồ số 6 nguồn gốc do ông Nguyễn Duy Đ nhận
chuyển nhượng của ông Sơn L tnăm 2000 (Nhận chuyển nhượng đất nông
nghiệp) sau đó chuyển mục đích sdụng lên đất ODT năm 2012 được cấp Giấy
chứng nhận quyền sử dụng đất).
* Đối soát thửa đất số 294, 1175, tờ bản đồ số 6, Ủy ban nhân dân phường
Phú Xá xác định:
Thửa đất số 294 tờ bản đồ số 6 thể hiện tại:
- Bản đồ 299: Thửa đất số 237, tờ bản đồ số 9, diện tích 144m
2
đất T.
- Bản đồ địa chính đo đạc năm 2016: Thửa đất s294, tờ bản đsố 6 diện
tích 128,2m
2
.
Thửa đất số 1175 tờ bản đồ số 6 thể hiện tại:
- Bản đ299: Một phn tha đt số 19, tbản đồ s 9, diện tích 620m
2
đất LM.
- Bản đồ địa chính đo đạc năm 2016: Thửa đất số 1175, tờ bản đồ số 6 diện
tích 145m
2
.
Quá trình giải quyết vụ án, Toà án nhân dân thành phố T đã tiến hành thẩm
định tại chỗ đối với thửa đất đang có tranh chấp. Kết quả thẩm định cho thấy diện
tích đất tranh chấp 08m
2
; Trên phần diện tích đất tranh chấp có mt phần
công trình phụ của gia đình ông Th xây, sửa năm 2021, không mái, nền lát
gạch hoa vuông; 01 bờ tường xây sát tường nhà ông Đ ốp gạch trắng. Thực
trạng sử dụng đất của cả ông Th ông Đ không phù hợp với bản đồ địa chính
hồ sơ pháp lý.
Từ đó cho thấy, cả 02 gia đình ông Đ ông Th nhận chuyển nhượng của
người khác. C 02 gia đình sử dng ổn định cho đến năm 2021 gia đình ông Trn
Quế Th xây thêm chiu cao ca bức tường đã xây năm 1994, 1995, sa cha nhà
v sinh thì phát sinh tranh chp. Theo kết qu thẩm đnh do Toà án thc hin trong
quá trình gii quyết v án, thửa đất s 1175, t bản đ s 6 gia đình ông Nguyn
8
Duy Đ đang thực tế qun lý và s dng 132,9m
2
, gia đình ông Trn Quế Th đang
thc tế qun lý và s dng 118,6m
2
.
Ti cp phúc thẩm nguyên đơn yêu cầu thẩm định li. Kết qu thẩm định li
cho thy: Không có s thay đổi v din tích. Tuy nhiên, kết qu thẩm định đã cho
thy ti v trí tranh chp các bức tường do c 02 bên xây dng s dng n
định t trước.
Thc trng s dụng đất ca c 02 gia đình t khi nhn chuyển nhượng đến
nay không phù hp vi bản đồ đa chính, không phù hp Giy chng nhn quyn
s dụng đất đã cấp. Vi thc trng s dụng đất của 02 gia đình được các bên tha
nhn sau khi ông Đ nhn chuyển nhượng quyn s dụng đất ca ông Vũ Xuân L,
thì gia đình ông Th đã xây tường cui thửa đt của gia đình ông Th, đến năm
2004 gia đình ông Đ xây phòng trọ có tường giáp với hàng rào gạch nhà ông Th,
thời điểm các đương s tha nhn ranh giới trước c thời điểm gia đình ông
Nguyễn Duy Đ đưc cp Giy chng nhn quyn s dụng đất vào năm 2012. Do
vy, cn tha nhn din tích theo thc tế đang sử dng là đúng pháp luật.
Điu 175 B lut dân s v ranh gii gia các bt động sản quy định:
“1. Ranh giới gia các bất động sn lin k được xác định theo tha thun
hoc theo quyết định của cơ quan nhà nước có thm quyn.”
Ông Nguyễn Duy Đ người kháng cáo, ti cp phúc thm ông Đ không
cung cấp được tài liu, chng c nào b sung có th làm thay đi ni dung ca v
án. Bn án dân s thẩm s 92/2024/DS-ST ngày 06 tháng 9 năm 2024 của T
án nhân dân thành phố T là đúng quy định pháp lut.
Do vậy, không cơ sở để chp nhn kháng o ca ông Nguyễn Duy Đ.
Về án phí: Căn cứ Điểm đ, khoản 1 điều 12, Khoản 1 điều 29 Nghị quyết số
326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội quy
định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản sử dụng án phí lệ phí Tòa
án: Ông Nguyễn Duy Đ là người cao tuổi, do vậy cần miễn toàn bộ án phí dân sự
phúc thẩm đối với ông Nguyễn Duy Đ là đúng pháp luật.
Ông Nguyễn Duy Đ phải chịu chi phí thẩm định tại cấp phúc thẩm
4.400.000 đồng (đã thực hiện xong).
Từ những phân tích nêu trên;
Đề nghị của người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp cho ông Nguyễn Duy
Đ là không có cơ sở.
Xét đề nghị của đại diện Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Thái Nguyên tại phiên
tòa về đường lối giải quyết vụ án có căn cứ pháp luật cần chấp nhận.
Vì các lẽ trên,
QUYẾT ĐỊNH
9
Áp dụng khoản 1 Điều 308, Khoản 1 Điều 148 của Bộ luật ttụng dân sự
năm 2015; Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban
Thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản sử
dụng án phí, lệ phí Tòa án.
Không chấp nhận kháng cáo của nguyên đơn ông Nguyễn Duy Đ, giữ
nguyên bản án sơ thẩm.
Tuyên xử:
1. Giữ nguyên bản án dân sự thẩm số: 92/2024/DS-ST ngày 06 tháng 9
năm 2024 của Toà án nhân dân thành phố T, tỉnh Thái Nguyên.
2. Án phí: Miễn án phí dân sự phúc thẩm đối với ông Nguyễn Duy Đ do
người cao tuổi.
3. Ông Nguyễn Duy Đ phi chu chi phí thẩm định ti cp phúc thm
4.400.000 đồng (đã thực hin xong).
4. Bn án phúc thm hiu lc pháp lut k t ngày tuyên án.
Nơi nhận:
- VKSND tỉnh Thái Nguyên;
- TAND thành phố T;
- Chi cc THADS thành ph T;
- Các đương sự;
- Lưu hồ sơ vụ án.
TM. HỘI ĐỒNG XÉT XỬ PHÚC THẨM
THẨM PHÁN - CHỦ TỌA PHIÊN TÒA
Hoàng Văn Giang
Tải về
Bản án số 91/2025/DSPT Bản án số 91/2025/DSPT

Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để tải file. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!

Bản án số 91/2025/DSPT Bản án số 91/2025/DSPT

Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để tải file. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!

Bản án/ Quyết định cùng đối tượng

Bản án cùng lĩnh vực

Bản án mới nhất