Bản án số 329/2025/DS-PT ngày 19/06/2025 của TAND tỉnh Bình Dương về tranh chấp hợp đồng thuê quyền sử dụng đất

  • Thuộc tính
  • Nội dung
  • VB gốc
  • VB liên quan
  • Lược đồ
  • Đính chính
  • Án lệ
  • BA/QĐ cùng nội dung
  • Tải về
Tải văn bản
Báo lỗi
  • Gửi liên kết tới Email
  • Chia sẻ:
  • Chế độ xem: Sáng | Tối
  • Thay đổi cỡ chữ:
    17

Thuộc tính Bản án 329/2025/DS-PT

Tên Bản án: Bản án số 329/2025/DS-PT ngày 19/06/2025 của TAND tỉnh Bình Dương về tranh chấp hợp đồng thuê quyền sử dụng đất
Quan hệ pháp luật: Tranh chấp hợp đồng thuê quyền sử dụng đất
Cấp xét xử: Phúc thẩm
Tòa án xét xử: TAND tỉnh Bình Dương
Số hiệu: 329/2025/DS-PT
Loại văn bản: Bản án
Ngày ban hành: 19/06/2025
Lĩnh vực: Dân sự
Áp dụng án lệ:
Đã biết

Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để xem áp dụng án lệ. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!

Đính chính:
Đã biết

Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để xem đính chính. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!

Thông tin về vụ/việc: Tranh chấp hợp đồng thuê quyền sử dụng đất giữa nguyên đơn ông Trần Thanh T, bị đơn ông Vũ Minh Đ, bà Xông Thị Bích H
Tóm tắt Bản án

Nội dung tóm tắt đang được cập nhật, Quý khách vui lòng quay lại sau!

Tải văn bản

TÒA ÁN NHÂN DÂN
TỈNH BÌNH DƯƠNG
Bản án số: 329/2025/DS-PT
Ngày: 19 - 6 - 2025
V/v tranh chấp hợp đồng ủy quyền
CỘNG HÒA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM
Độc lập - Tự do - Hạnh phúc
NHÂN DANH
NƯỚC CỘNG HÒA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM
TÒA ÁN NHÂN DÂN TỈNH BÌNH DƯƠNG
- Thành phần Hội đồng xét xử phúc thẩm gồm có:
Thẩm phán - Chủ tọa phiên tòa:
Các Thẩm phán:
Ông Nguyễn Văn Thanh.
Ông Lê Hoàng Vương;
Bà Đinh Thị Mộng Tuyết.
- Thư phiên tòa: Bà Nguyễn Thị Thùy Trang - Thư ký Tòa án nhân dân
tỉnh Bình Dương.
- Đại diện Viện Kiểm sát nhân dân tỉnh Bình Dương tham gia phiên tòa:
Ông Lê Trung Kiên - Kiểm sát viên.
Ngày 19 tháng 6 năm 2025, tại trụ sở Tòa án nhân dân tỉnh Bình Dương
xét xử phúc thẩm công khai vụ án dân sự thụ số 182/2025/TLPT-DS ngày 09
tháng 5 năm 2025 về việc “Tranh chấp hợp đồng thuê quyền sử dụng đất”.
Do Bản án dân sự thẩm số 29/2025/DS-ST ngày 12 tháng 3 năm 2025
của Tòa án nhân dân thành phố Dĩ An, tỉnh Bình Dương bị kháng cáo.
Theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử phúc thẩm s329/2025/QĐPT-DS
ngày 05 tháng 6 năm 2025, giữa các đương sự:
- Nguyên đơn: Ông Trần Thanh T, sinh năm 1979; địa chỉ: sA, khu phố
T, phường D, thành phố D, tỉnh Bình Dương; chỗ hiện nay: Ô, B, khu dân
cư Đ, phường T, thành phố D, tỉnh Bình Dương, có mặt.
- Bị đơn:
1. Ông Vũ Minh Đ, sinh năm 1969, có mặt;
2. Bà Xông Thị Bích H, sinh năm 1983, có mặt;
Ông Đ, H địa chỉ thường trú tại: số E, đường T, khu phố T, phường D, thành
phố D, tỉnh Bình Dương; chỗ hiện nay: sF, hẻm A, đường N, khu phố T,
phường D, thành phố D, tỉnh Bình Dương.
- Người kháng cáo: Bị đơn ông Vũ Minh Đ.
NỘI DUNG VỤ ÁN:
2
- Tại đơn khởi kiện ngày 13/9/2024, trong quá trình tố tụng và tại phiên tòa
phúc thẩm, nguyên đơn là ông Trần Thanh T trình bày:
Ngày 01/4/2024, ông T thỏa thuận cùng vợ chồng ông Minh Đ, Xông
Thị Bích H bị đơn thkhu đất có diện tích 832,8m
2
thuộc thửa đất số 1719, t
bản đồ 27 tại hẽm s340, đường N, khu phố T, phường D, thành phố D, tỉnh Bình
Dương nhằm mục đích mở quán phê. Thời điểm ông T, ông Đ thỏa thuận thì
khu đất cho thuê vợ chồng ông Vũ Minh Đ, bà Xông Thị Bích H đã được Sở Tài
nguyên Môi trường tỉnh B cấp Giấy chứng nhận quyền sdụng đất số DG
812715, ngày 10/3/2023, mục đích sử dụng đất đất nông nghiệp trồng cây lâu
năm. Sau khi thống nhất thì giữa ông T ông Đ lập hợp đồng thuê quyền sử
dụng đất có các nội dung:
Thời hạn thuê 06 năm, tính từ ngày 01/6/2024 kết thúc vào ngày
01/6/2029. Tiền đặt cọc trước 20.000.000đ (hai mươi triệu đồng), số tiền này
sẽ được ông Đ trả lại cho ông T sau khi kết thúc hợp đồng thuê đất. Tiền thuê đất
được thanh toán định kỳ hàng tháng theo giá thuê như sau: Năm đầu tiên giá
10.000.000đ/tháng; năm thứ hai (2025 đến 2026) 12.000.000đ/tháng; năm thứ
ba (2026 đến 2027) 13.200.000đ/tháng 02 năm cuối cùng (2027 đến 2029)
14.500.000đ/tháng. Tại thời điểm hợp đồng thuê trên đất một số cây trồng
lâu năm của ông Đ, H (không kiểm đếm cụ thể), ông T giữ lại được cây nào
thì giữ cho ông Đ, H còn cây nào không giữ được thì thể cuốc đi hoặc cắt
bỏ mà không phải bồi thường cho ông Đ, bà H. Hợp đồng thuê tuy bà H (vợ ông
Đ) không ký tên nhưng trên thực tế ông T đã chuyển khoản số tiền cọc
20.000.000đ vào tài khoản của bà H.
Thực hiện hợp đồng thuê, đầu tháng 4/2024, ông T tiến hành xây dựng các
chòi lá, công trình tạm trên đất để kinh doanh phê nhưng không xin phép chính
quyền địa phương phường D, thành phố D, công trình đã thi công đạt khoản 30%.
Đến ngày 26/4/2024, Đội Quản trật tự đô thị thuộc Ủy ban nhân dân phường
D, thành phố D phát hiện ông T xây dựng trái phép trên đất nông nghiệp nên đến
lập biên bản yêu cầu dừng thi công công trình tạm trên đất. Ông T không thừa
nhận vi phạm hành chính nên giữa ông T và cán bộ đoàn kiểm tra của phường đã
xảy ra cải vã, sau đó Ủy ban nhân dân phường D mời chủ đất là ông Minh Đ
lên phường làm việc buộc ông Đ phải tháo dỡ công trình xây dựng trái phép
trên đất nông nghiệp. Ông T đã chấp hành dừng việc làm quán, tháo dỡ công trình
dọn đồ đạc đi khỏi khu đất thuê của ông Đ, bà H nhưng chưa kinh doanh, buôn
bán được ngày nào. Ông T đã liên hệ ông Đ, bà H nhiều lần để xin nhận lại số tiền
cọc 20.000.000đ nhưng các bị đơn không chấp nhận trả cọc. Do quyền và lợi ích
bị xâm phạm, ông Trần Thanh T khởi kiện yêu cầu Tòa án giải quyết: Tuyên bố
hợp đồng thuê đất giữa ông Trần Thanh T vợ chồng ông Vũ Minh Đ, bà Xông
Thị Bích H ngày 01/4/2024 hiệu, buộc ông Minh Đ Xông Thị Bích
H trả lại cho tôi tiền đặt cọc là 20.000.000đ (hai mươi triệu đồng).
- Tại bản tự khai ngày 09/12/2024, quá trình tố tụng bị đơn ông Vũ Minh
ĐXông Thị Bích H trình bày: Bị đơn ông Minh ĐXông Thị Bích
H xác định nội dung thỏa thuận hợp đồng thuê đất diện tích 832,8m
2
tại hẻm C,
3
đường N, khu phố T, phường D, thành phố D, tỉnh Bình Dương giữa ông Minh
Đ ông Trần Thanh T, mục đích thuê ông T mở quán kinh doanh phê, giải
khát, thời hạn thuê, giá thuê hàng tháng, tiền đặt cọc trước, xử tài sản cây
trồng trên đất như nguyên đơn đã khai trong quá trình tố tụng là đúng. Do ông T
tự ý xây dựng công trình nhà tạm trên đất nông nghiệp nhưng không xin phép
chính quyền địa phương nên bị Đội Quản lý trật tự đô thị phường D kiểm tra, lập
biên bản vi phạm buộc tháo dỡ công trình theo biên bản vi phạm ngày
26/4/2024. Do ông T kéo dài thời hạn tháo dỡ công trình ttháng 5/2024 đến
tháng 10/2024 mới di dời toàn bộ đồ đạc ra khỏi đất thuê trong quá trình thi
công công trình tạm ông T đã đào, cuốc bứng một số cây trồng của ông Đ tạo
thành các hố đất sâu, tháo dỡ cổng rào, hàng rào của ông Đ nhưng khi dọn đồ ra
khỏi đất thì ông T không khôi phục lại tình trạng ban đầu trước khi thuê đất (san
lấp các hđất, xây dựng lại cổng rào .v.v) cho ông Đ. Do đó ông Đ đồng ý hủy
hợp đồng thuê đất ngày 01/4/2024 nhưng không đồng ý trả lại số tiền cọc
20.000.000đ theo yêu cầu khởi kiện của ông T. Xông Thị Bích H thống nhất
lời trình bày và yêu cầu của ông Vũ Minh Đ.
Tại Bản án dân sự thẩm số 29/2025/DS-ST ngày 12 tháng 3 năm 2025
của Tòa án nhân dân thành phố Dĩ An, tỉnh Bình Dương đã quyết định:
1. Chấp nhận yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn ông Trần Thanh T đối với
bị đơn ông Vũ Minh Đ và bà Xông Thị Bích H.
- Hợp đồng thuê quyền s dụng đất lập ngày 01/4/2024 giữa ông Trần
Thanh T với ông Vũ Minh Đ và bà ng Thị Bích H vô hiệu.
- Buộc ông Minh Đ Xông Thị Bích H trả cho ông Trần Thanh T
số tiền đặt cọc là 20.000.000đ (hai mươi triệu đồng).
Ngoài ra, án sơ thẩm còn tuyên về nghĩa vụ do chậm thi hành án về tiền, nghĩa v
chịu án phí sơ thẩm và quyền kháng cáo của các đương sự.
Sau khi bản án thẩm, ngày 25/3/2025, bị đơn ông Minh Đ1
kháng cáo toàn bộ bản án sơ thẩm, yêu cầu Tòa án cấp phúc thẩm sửa án sơ thẩm
theo hướng không chấp nhận yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn vviệc đòi lại số
tiền đặc cọc 20.000.000đ.
Tại phiên tòa phúc thẩm, bị đơn giữ nguyên yêu cầu kháng cáo, không cung
cấp thêm tài liệu, chứng cứ nào khác chứng minh cho yêu cầu kháng cáo. Nguyên
đơn giữ nguyên yêu cầu khởi kiện. Các đương sự không thỏa thuận được với nhau
về việc giải quyết vụ án.
Đại din Vin Kim sát nhân dân tnh Bình Dương phát biểu quan điểm:
Về tố tụng: Những người tiến hành tố tụng người tham gia tố tụng đã
thực hiện đúng quy định của Bộ luật Tố tụng dân sự nên không kiến nghị khắc
phục gì thêm.
Về nội dung: Bị đơn ông Vũ Minh Đ kháng cáo yêu cầu sửa một phần bản
án thẩm không chấp nhận yêu cầu khởi kiện đòi lại tiền cọc thuê đất của nguyên
đơn nhưng người kháng cáo không cung cấp được tài liệu, chứng cứ khác để
4
chứng minh cho yêu cầu kháng cáo. Đề nghị Hội đồng xét xử không chấp nhận
yêu cầu kháng cáo của bị đơn ông Vũ Minh Đ, giữ nguyên bản án sơ thẩm.
Sau khi nghiên cứu các tài liệu chứng cứ trong hồ vụ án đã được thẩm
tra tại phiên tòa, căn cứ vào kết quả tranh tụng tại phiên tòa, lời trình bày của các
đương sự, ý kiến của Kiểm sát viên.
NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN:
[1] Về tố tụng: Kháng cáo của bị đơn ông Minh Đ trong hạn luật định.
Căn cứ Điều 293 của Bộ luật Tố tụng dân sự, Tòa án cấp phúc thm thụ lý và xét
xử vụ án theo quy định.
[2] Về nội dung: Ngày 01/4/2024, giữa ông Trần Thanh T ông Vũ Minh
Đ hợp đồng thuê quyền sdụng đất đối với khu đất trồng cây lâu năm thuộc
thửa 1719, tờ bản đồ 27, diện tích 832,8m
2
tại hẻm C đường N, khu phố T, phường
D, thành phố D, tỉnh Bình Dương. Nội dụng: Khu đất nói trên thuộc quyền sử
dụng hợp pháp của vợ chồng ông Vũ Minh Đ, bà Xông Thị Bích H cho ông Trần
Thanh T thuê trong thời hạn 06 năm từ ngày 01/6/2024 đến ngày 01/6/2029, tiền
thuê hàng tháng từ 10.000.000đ/tháng (năm đầu) tăng theo hàng năm đến 02
năm cuối là 14.500.000đ/tháng. Ông T đã đặt cọc số tiền 20.000.000đ cho ông Đ
để tiến hành thi công xây dựng nhà tạm bán cà phê. Trong quá trình thi công, xây
dựng được 30% giá trị công trình thì ông T bị Đội Quản lý trật tự đô thị phường
D đến lập biên bản vi phạm hành chính do xây dựng công trình nhà tạm trên đất
nông nghiệp nhưng không giấy phép của quan Nhà nước thẩm quyền nên
đình chỉ công trình và buộc chủ sử dụng đất là ông Vũ Minh Đ phải tháo dỡ công
trình đã xây dựng. Ông T đã tháo dỡ công trình dọn đi nơi khác nhưng yêu cầu
ông Đ, H trả lại số tiền cọc 20.000.000đ không được ông Đ, H chấp nhận
nên phát sinh tranh chấp.
[3] Xét thấy, Hợp đồng thuê đất kết giữa bên A (Bên cho thuê đất)
ông Võ Minh Đ1 và vợ là bà Xông Thị Bích H, bên B (Bên thuê đất) là ông Trần
Thanh T do hai bên tự giao dịch ngày 01/4/2024 chưa được công chứng, chứng
thực. Các bên cũng thừa nhận, mặc Xông Thị Bích H vợ của ông Đ1
không xác nhận vào hợp đồng thuê đất nói trên nhưng thực tế sau khi thỏa
thuận, ông T đã chuyển số tiền đặt cọc 20.000.000đ vào tài khoản của H. Do
đó việc nguyên đơn ông Trần Thanh T khởi kiện buộc H trách nhiệm liên
đới với ông Vũ Minh Đ đối với hợp đồng thuê quyền sử dụng đất ngày 01/4/2024
giữa ông T ông Đ đã kết H phải trách nhiệm liên đới với số tiền
đặt cọc 20.000.000đ là có căn cứ.
[4] Khi thuê đất, ông Đ, bà H đã cho ông T xem bản chính giấy chứng nhận
quyền sử dụng đất đối với thửa đất cho thuê ông T cũng biết rõ phần đất thuê
loại đất nông nghiệp trồng cây lâu năm, không được phép xây dựng nhà và
công trình vật kiến trúc phụ trợ. Việc ông T xây dựng công trình phụ, nhà tạm
trên đất nông nghiệp làm quán cà phê là trái mục đích sử dụng, vi phạm quy định
tại Khoản 1 Điều 6, Khoản 3 Điều 12 của Luật Đất đai năm 2013 Điều 501 của
Bộ luật Dân sự. Hợp đồng thuê quyền sử dụng đất giữa các đương sự viết giấy
5
tay, không được công chứng theo quy định Điều 502 Bộ luật Dân sự không tuân
thủ về mặt hình thức. Tòa án sơ thẩm đã nhận định hợp đồng thuê quyền sử dụng
đất giữa ông T vợ chồng ông Đ, H bhiệu theo quy định tại Điều 408
của Bộ luật Dân sự căn cứ. Do đó cần tuyên bố hợp đồng thuê quyền sử dụng
đất xác lập giữa ông Trần Thanh T ông Minh Đ ngày 01/4/2024 đối với
thửa đất 1719, tbản đồ 27 tại phường D, thành phố D, tỉnh Bình Dương bị
hiệu toàn bộ và xử lý hậu quả của hợp đồng vô hiệu theo quy định pháp luật.
[5] Về xlý hậu quả của hợp đồng hiệu: Theo quy định tại Điều 131 của
Bộ luật Dân sự, khi giao dịch dân shiệu thì các bên phải khôi phục lại tình
trạng ban đầu, hoàn trả cho nhau những gì đã nhận, do đó ông Đ, bà H phải trả lại
số tiền đặt cọc đã nhận của ông T 20.000.000đ là đúng quy định pháp luật.
[6] Xét về yếu tố lỗi m cho hợp đồng thuê đất ngày 01/4/2024 vô hiệu: L
dẫn đến làm hợp đồng thuê quyền sử dụng đất giữa ông T và vợ chồng ông Đ, bà
H hiệu ngang nhau nên không phát sinh trách nhiệm bồi thường. Theo nội
dung thỏa thuận tại hợp đồng thuê đất, thời gian thuê đất tính từ ngày 01/6/2024,
tuy nhiên đến ngày 26/4/2024 Ủy ban nhân dân phường D phát hiện việc xây dựng
trái phép trên đất nông nghiệp nên đã lập biên bản đình chỉ công trình buộc
ông T dừng việc xây dựng quán cà phê. Việc bđình chỉ công trình đang thi công
trong thời gian ông T chưa kinh doanh chưa đến thời hạn bắt đầu thuê đất
(trước ngày 01/6/2024) nên chưa phát sinh việc thanh toán tiền thuê đất giữa các
bên nên chưa xảy ra thiệt hại cho bên thuê và bên cho thuê quyền sdụng đất. Do
đó, Tòa cấp sơ thẩm không đặt ra giải quyết bồi thường thiệt hại do hậu quả phát
sinh từ hợp đồng vô hiệu là có căn cứ.
[7] Quá trình tố tụng tại cấp sơ thẩm, bị đơn ông Vũ Minh Đ, bà Xông Thị
Bích H không có yêu cầu phản t đối với nguyên đơn ông Trần Thanh T về việc
yêu cầu nguyên đơn bồi thường thiệt hại phát sinh do quá trình thực hiện hợp đồng
thuê đất gây ra, không cung cấp tài liệu, chứng cứ chứng minh có thiệt hại tài sản
xảy ra. Do vậy, bị đơn ông Minh Đ kháng cáo cho rằng Tòa án cấp thẩm
xử buộc bđơn trả lại cho nguyên đơn 20.000.000đ tiền đặt cọc nhưng không xem
xét buộc nguyên đơn bồi thường thiệt hại cho bị đơn nhưng không đưa ra được tài
liệu, chứng cứ chứng minh cho yêu cầu kháng cáo nên không căn cứ chấp nhận
kháng cáo của b đơn Vũ Minh Đ.
[8] Quan điểm của Kiểm sát viên tham gia phiên tòa về nội dung vụ án
phù hợp nên được chấp nhận.
[9] Về án phí dân sự phúc thẩm: Bị đơn ông Minh Đ phải chịu do kháng
cáo không được chấp nhận.
Vì các lẽ trên,
QUYẾT ĐỊNH:
- Căn cứ khoản 1 Điều 148, khoản 1 Điều 308 và Điều 313 của Bộ luật Tố
tụng dân sự;
6
- Căn cứ Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy
ban Thường vụ Quốc hội quy định vmức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản
sử dụng án phí và lệ phí Tòa án,
1. Không chấp nhận kháng cáo của bị đơn ông Vũ Minh Đ.
2. Giữ nguyên Bản án dân sự thẩm số 29/2025/DS-ST ngày 12 tháng 3
năm 2025 của Tòa án nhân dân thành phố Dĩ An, tỉnh Bình Dương.
3. Về án phí dân sự phúc thẩm: Ông Minh Đ phải chịu 300.000đ (ba
trăm nghìn đồng) được khấu trừ hết vào số tiền đã nộp tạm ứng án phí phúc thẩm
tại Biên lai thu tiền tạm ứng án phí, lệ phí Tòa án số 0007980 ngày 26/3/2025 của
Chi cục Thi hành án dân sự thành phố Dĩ An, tỉnh Bình Dương.
4. Bản án phúc thẩm có hiệu lực pháp luật kể từ ngày tuyên án./.
Nơi nhận:
- VKSND tỉnh Bình Dương;
- Chi cục THADS thành phố Dĩ An;
- TAND thành phố Dĩ An;
- Các đương sự;
- Lưu: HCTP, HSVA, Tòa Dân sự.
TM. HỘI ĐỒNG XÉT XỬ PHÚC THẨM
THẨM PHÁN - CHỦ TỌA PHIÊN TÒA
(Đã ký)
Nguyễn Văn Thanh
7
Tải về
Bản án số 329/2025/DS-PT Bản án số 329/2025/DS-PT

Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để tải file. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!

Bản án số 329/2025/DS-PT Bản án số 329/2025/DS-PT

Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để tải file. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!

Bản án/ Quyết định cùng đối tượng

Bản án cùng lĩnh vực

Bản án mới nhất