Bản án số 143/2025/DS-PT ngày 03/03/2025 của TAND tỉnh Tiền Giang về đòi bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng về tài sản
- Thuộc tính
- Nội dung
- VB gốc
- VB liên quan
- Lược đồ
- Đính chính
- Án lệ
- BA/QĐ cùng nội dung
- Tải về
Tải văn bản
-
Bản án số 143/2025/DS-PT
Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để tải file. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!
-
Bản án số 143/2025/DS-PT
Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để tải file. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!
Báo lỗi
Thuộc tính Bản án 143/2025/DS-PT
Tên Bản án: | Bản án số 143/2025/DS-PT ngày 03/03/2025 của TAND tỉnh Tiền Giang về đòi bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng về tài sản |
---|---|
Quan hệ pháp luật: | Đòi bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng về tài sản |
Cấp xét xử: | Phúc thẩm |
Tòa án xét xử: | TAND tỉnh Tiền Giang |
Số hiệu: | 143/2025/DS-PT |
Loại văn bản: | Bản án |
Ngày ban hành: | 03/03/2025 |
Lĩnh vực: | Dân sự |
Áp dụng án lệ: |
Đã biết
Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để xem áp dụng án lệ. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây! |
Đính chính: |
Đã biết
Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để xem đính chính. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây! |
Thông tin về vụ/việc: | án chưa thi hành xong đòi bồi thường hại |
Tóm tắt Bản án
Nội dung tóm tắt đang được cập nhật, Quý khách vui lòng quay lại sau!
Tải văn bản

TOÀ ÁN NHÂN DÂN
TỈNH TIỀN GIANG
Bản án số: 143/2025/DS-PT
Ngày: 03/3/2025
V/v tranh chấp: “Bồi
thường thiệt hại do tài sản
bị xâm phạm”
CỘNG HOÀ XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM
Độc lập - Tự do - Hạnh phúc
NHÂN DANH
NƯỚC CỘNG HÒA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM
TÒA ÁN NHÂN DÂN TỈNH TIỀN GIANG
Thành phần Hội đồng xét xử phúc thẩm gồm có:
Thẩm phán - Chủ tọa phiên tòa: Ông Trương Vĩnh Hữu.
Các Thẩm phán: Ông Lê Thanh Vân.
Bà Lê Thị Hồng Tâm.
Thư ký phiên tòa: Ông Nguyễn Duy Khanh - Thư ký.
Đại diện Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Tiền Giang: Bà Bùi Thị Thanh Bạch
- Kiểm sát viên tham gia phiên tòa.
Trong các ngày 24 tháng 02 và ngày 03 tháng 3 năm 2025, tại trụ sở Tòa án
nhân dân tỉnh Tiền Giang xét xử phúc thẩm công khai vụ án dân sự thụ lý số:
636/2024/TLPT-DS ngày 18 tháng 12 năm 2024 về việc tranh chấp “Yêu cầu
bồi thường thiệt hại về tài sản”;
Do Bản án dân sự sơ thẩm số: 347/2024/DS-ST, ngày 25/9/2024 của Tòa
án nhân dân huyện Cái Bè, tỉnh Tiền Giang bị kháng cáo.
Theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 778/2024/QĐ-PT ngày
26/12/2024, giữa các đương sự:
1. Nguyên đơn: Châu Thành C, sinh năm 1952; (có mặt)
Địa chỉ: Ấp B, xã A, huyện C, tỉnh Tiền Giang.
Châu Thị H, sinh năm 1946;
Châu Thị Đ, sinh năm 1960;
Cùng địa chỉ: Ấp H, xã M, huyện C, tỉnh Tiền Giang.
Châu Thị N, sinh năm 1972;
Địa chỉ: ấp L, xã T, huyện T, tỉnh Đồng Tháp.
Đại diện theo ủy quyền của C, H, Đ, N:
Lê Hoàng Â, sinh năm 1964; (có mặt)
Địa chỉ: Số C, tổ A, khu D, thị trấn C, huyện C, tỉnh Tiền Giang.
2. Bị đơn: Chi Cục Thi hành án dân sự huyện Cái Bè;
Đại diện theo pháp luật: Nguyễn Văn T – Chi cục trưởng;
Đại diện theo ủy quyền: Nguyễn Thị P – Phó Chi cục trưởng; (có mặt)
2
Phạm Văn T1 – Chấp hành viên Chi cục thi hành án dân sự huyện Cái Bè;
Địa chỉ: ấp H, xã H, huyện C, tỉnh Tiền Giang.
3. Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan:
Châu Văn B, sinh năm 1969; (vắng mặt)
Địa chỉ: ấp H, xã M, huyện C, tỉnh Tiền Giang.
*. Người kháng cáo: Nguyên đơn Châu Thành C, Châu Thị H, Châu Thị Đ,
Châu Thị N.
NỘI DUNG VỤ ÁN:
*. Theo án sơ thẩm, trong quá trình giải quyết vụ án và lời khai tại Tòa đại
diện theo ủy quyền của các nguyên đơn là ông Lê Hoàng  trình bày: Sau khi
Bản án dân sự phúc thẩm số: 185/DSPT, ngày 10/6/1997, các nguyên đơn đã
làm đơn yêu cầu Cơ quan Thi hành án dân sự huyện C thi hành bản án nêu trên
nhiều lần từ năm 1997 đến nay nhưng không có kết quả;
Do bị đơn cố tình kéo dài nên các nguyên đơn căn cứ vào Điều 59 Luật Thi
hành án yêu cầu bị đơn định giá các tài sản của nguyên đơn được chia theo bản
án để thi hành bản án nêu trên cho các nguyên đơn thì bị đơn không thực hiện;
Căn cứ vào quyết định giải quyết khiếu nại số 08/QĐ-CTHA ngày
14/6/2013 của Cục trưởng Cục Thi hành án tỉnh Tiền Giang đã chấp nhận khiếu
nại của các nguyên đơn với nội dung yêu cầu bị đơn áp dụng Công văn số
443/CV.THA, ngày 15/8/2008 của Thi hành án tỉnh Tiền Giang và Mục 7.4,
khoản 7 Công văn 404/TP.THA, ngày 24/2/2005 của Bộ Tư pháp và Điều 59
Luật Thi hành án năm 2008 để định giá lại tài sản cho các nguyên đơn được chia
để tiếp tục thi hành án cho các nguyên đơn nhưng đến nay bị đơn vẫn chưa thực
hiện được;
Đến tháng 2/2020, các nguyên đơn đơn khởi kiện tại Tòa án nhân dân
huyện Cái Bè yêu cầu bị đơn bồi thường. Tại phiên tòa ngày 13/7/2022, đại diện
Chi cục thi hành án dân sự huyện Cái Bè hứa sẽ tiếp tục định giá lại tài sản của
các nguyên đơn được chia và tiếp tục thi hành án theo quy định của pháp luật
nên các nguyên đơn tin tưởng rút đơn Tòa án ra quyết định đình chỉ nhưng sau
đó bị đơn không thực hiện đúng lời hứa và thông báo là không thể tiếp tục thi
hành bản án nêu trên;
Trước đây, cha mẹ các nguyên đơn để lại tài sản gồm động sản và bất động
sản. Theo bản án thì các nguyên đơn được chia mỗi người một kỷ phần gồm có
tài sản vật dụng trong nhà, trị giá căn nhà và 02 thửa đất. Các nguyên đơn chỉ
nhận một phần tài sản là bàn, ghế, tủ, ván trong nhà trị giá mỗi người nhận trị
giá khoảng 3.750.000 đồng. Đối với phần bất động sản là 02 thửa đất thì các
nguyên đơn chưa được chia. Tất cả động sản hiện nay không còn, nên các
nguyên đơn không có căn cứ yêu cầu. Đối với 02 thửa đất Châu Văn B vẫn còn
quản lý canh tác, hiện nay giá trị có thay đổi. Theo quy định tại Điều 59 Luật
Thi hành án dân sự quy định “….. Trường hợp theo bản án, quyết định mà một
bên được nhận tài sản và phải thanh toán cho người khác giá trị tài sản họ được
nhận, nhưng tại thời điểm thi hành án, giá trị tài sản thay đổi và một trong các
bên đương sự có yêu cầu định giá tài sản đó thì tài sản được định giá lại theo
3
quy định tại Điều 98 của Luật này để thi hành án……”. Như vậy so với Quy
định này thì các nguyên đơn yêu cầu bị đơn định giá lại tài sản nhiều lần nhưng
bị đơn không thực hiện;
Hiện nay, bị đơn trả lời cho các nguyên đơn là không thể tiếp tục thi hành
án đối với ông Châu Văn B. Do đó quyền và lợi ích hợp pháp của các nguyên
đơn bị xâm phạm là do lỗi của bị đơn nên bị đơn phải có trách nhiệm bồi thường
cho các nguyên đơn;
Các nguyên đơn gồm có Châu Thành C, Châu Thị H, Châu Thị Đ yêu cầu
Chi Cục Thi hành án dân sự huyện Cái Bè bồi thường thiệt hại do không thực
hiện việc tổ chức thi hành Bản án số: 185/DSPT, ngày 10/6/1997 của Tòa án
nhân dân tỉnh Tiền Giang theo quy định tại Điều 59 Luật Thi hành án dân sự
năm 2008. Yêu cầu bồi thường mỗi người số tiền tương đương 2.499m
2
đất theo
giá là 720.000đồng/1m
2
= 1.799.280.000 đồng. Như vậy yêu cầu bồi thường cho
ông Châu Thành C là 1.799.280.000 đồng; bà Châu Thị H là 1.799.280.000
đồng và bà Châu Thị Đ là 1.799.280.000 đồng. Bà Châu Thị N yêu cầu Chi Cục
Thi hành án dân sự huyện Cái Bè bồi thường số tiền tương đương 499m
2
đất ×
720.000 đồng = 369.280.000 đồng.
Trong quá trình giải quyết vụ án và lời khai tại Tòa đại diện theo ủy quyền
của bị đơn Chi Cục Thi hành án dân sự huyện Cái Bè là bà Nguyễn Thị Phương
trình B1: Không đồng ý theo yêu cầu khởi kiện của các nguyên đơn vì cơ quan
thi hành án tổ chức thi hành án theo quyết định của Tòa án mà nội dung quyết
định của Bản án số: 185/DSPT, ngày 10/6/1997 của Tòa án nhân dân tỉnh Tiền
Giang buộc Châu Văn B có trách nhiệm thi hành án bằng tiền cho các đồng thừa
kế, không có nghĩa vụ thi hành án bằng tài sản là quyền sử dụng đất nên không
có cơ sở để tính chênh lệch về giá nên việc ông C, bà H, bà Đ, bà N yêu cầu Cơ
quan thi hành án bồi thường thiệt hại tài sản do chênh lệch giá là hoàn toàn
không có cơ sở nên không chấp nhận.
Trong quá trình giải quyết vụ án đại diện theo ủy quyền của bị đơn là ông
Phạm Văn T1 trình bày: Anh thống nhất theo lời trình bày của đại diện theo ủy
quyền của của bị đơn là bà Nguyễn Thị P đã nêu không có ý kiến bổ sung gì
thêm.
Trong quá trình giải quyết vụ án và tại phiên tòa người có quyền lợi, nghĩa
vụ liên quan ông Châu Văn B không có văn bản thể hiện ý kiến đối với yêu cầu
khởi kiện của các nguyên đơn và vắng mặt không có lý do mặc dù đã được Tòa
án triệu tập hợp lệ đến lần thứ hai.
Bản án dân sự sơ thẩm số: 347/2024/DS-ST, ngày 25/9/2024 của Tòa án
nhân dân huyện Cái Bè, tỉnh Tiền Giang đã quyết định:
Căn cứ vào Điều 26, Điều 35; Điều 92, Điều 91, Điều 235, Điều 266, Điều
267 và Điều 271, Điều 273 Bộ luật Tố tụng dân sự; Căn cứ Điều 472; 473, 474,
481, 482; 584, 585, 357, 468 của Bộ luật Dân sự; Căn cứ Luật Trách nhiệm bồi
thường của Nhà nước; Căn cứ Luật Thi hành dân sự; Căn cứ Nghị quyết số
326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Uỷ ban Thường vụ Quốc hội quy
4
định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Toà
án.
Không chấp nhận toàn bộ yêu cầu khởi kiện của các nguyên đơn gồm có
Châu Thành C, Châu Thị H, Châu Thị Đ, Châu Thị N yêu cầu Chi Cục Thi hành
án dân sự huyện Cái Bè bồi thường thiệt hại do không thực hiện việc tổ chức thi
hành Bản án số: 185/DSPT, ngày 10/6/1997 của Tòa án nhân dân tỉnh Tiền
Giang theo quy định tại Điều 59 Luật Thi hành án dân sự năm 2008. Yêu cầu
bồi thường mỗi người số tiền tương đương 2.454,3m
2
đất theo giá là
650.000đồng/1m
2
= 1.595.295.000 đồng. Như vậy yêu cầu bồi thường cho ông
Châu Thành C là 1.595.295.000 đồng và 4 chỉ vàng 24Kara tính trượt giá tới
hiện tại là 8.000.000đồng/1chỉ thành tiền là 32.000.000 đồng; bà Châu Thị H là
1.595.295.000 đồng và bà Châu Thị Đ là 1.595.295.000 đồng. Bà Châu Thị N
yêu cầu Chi Cục Thi hành án dân sự huyện Cái Bè bồi thường số tiền tương
đương 454,3m
2
đất × 650.000 đồng = 295.295.000 đồng.
Về án phí: Bà Châu Thị N phải chịu 14.764.750 đồng án phí dân sự sơ
thẩm. Bà N đã nộp số tiền 9.232.000 đồng tạm ứng án phí theo biên lai thu số
0010902 ngày 07/02/2023 của Chi Cục Thi hành án dân sự huyện Cái Bè thu
nên bà N tiếp tục nộp thêm số tiền là 5.532.750 đồng án phí dân sự sơ thẩm.
Ông Châu Thành C, bà Châu Thị H; bà Châu Thị Đ có đơn xin miễn tạm
ứng án phí và án phí theo quy định tại Điều 12 của Nghị quyết số
326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Uỷ ban Thường vụ Quốc hội quy
định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Toà
án nên họ không phải chịu án phí dân sự sơ thẩm.
Ngoài ra Bản án dân sự sơ thẩm còn tuyên quyền kháng cáo của các đương
sự;
Ngày 07/10/2024, nguyên đơn Châu Thành C, Châu Thị H, Châu Thị Đ,
Châu Thị N kháng cáo toàn bộ Bản án dân sự sơ thẩm.
Tại phiên tòa phúc thẩm: Đại diện theo ủy quyền của nguyên đơn Châu
Thành C, Châu Thị H, Châu Thị Đ, Châu Thị N vẫn giữ nguyên yêu cầu kháng
cáo, đề nghị chấp nhận yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn Châu Thành C, Châu
Thị H, Châu Thị Đ, Châu Thị N;
Đại diện theo ủy quyền của bị đơn đề nghị không chấp nhận yêu cầu kháng
cáo, giữ nguyên Bản án dân sự sơ thẩm;
Đại diện Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Tiền Giang phát biểu ý kiến trong
quá trình thụ lý, giải quyết vụ án Thẩm phán, Hội đồng xét xử và các đương sự
đã tuân thủ đúng các quy định của Bộ luật Tố tụng dân sự. Về nội dung vụ án
đại diện Viện kiểm sát đề nghị không chấp nhận yêu cầu kháng cáo của người
kháng cáo, giữ nguyên Bản án dân sự sơ thẩm.
NHN ĐNH CỦA TA N:
Sau khi nghiên cứu các tài liệu có trong hồ sơ vụ án đã được thẩm tra tại
phiên tòa và căn cứ vào kết quả tranh luận tại phiên tòa, ý kiến của Kiểm sát
5
viên và những quy định pháp luật, Tòa án nhận định:
[1]. Xét quan hệ pháp luật tranh chấp, thẩm quyền giải quyết, thời hạn
kháng cáo, sự có mặt, vắng mặt của đương sự, Hội đồng xét xử xét thấy:
Căn cứ vào yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn Châu Thành C, Châu Thị H,
Châu Thị Đ, Châu Thị N thì vụ án thuộc quan hệ pháp luật tranh chấp “Yêu cầu
bồi thường thiệt hại do tài sản bị xâm phạm” được quy định tại Điều 589 Bộ luật
Dân sự. Vụ án thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa án được quy định tại khoản
12 Điều 26 Bộ luật Tố tụng dân sự;
Căn cứ vào đơn kháng cáo đề ngày 04/10/2024, dấu nhận đơn kháng cáo
ngày 07/10/2024 và biên lai nộp tạm ứng án phí dân sự phúc thẩm của Châu
Thành C, Châu Thị H, Châu Thị Đ, Châu Thị N thì đương sự kháng cáo bản án
sơ thẩm trong thời hạn theo quy định của Bộ luật Tố tụng dân sự;
Xét trong quá trình thụ lý vụ án và chuẩn bị xét xử, Tòa án đã tống đạt hợp
lệ các văn bản tố tụng cho đương sự theo đúng quy định của Bộ luật Tố tụng dân
sự; Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan Châu Văn B vắng mặt nên Hội đồng
xét xử quyết định vẫn tiến hành xét xử vụ án theo quy định.
[2]. Xét yêu cầu kháng cáo của nguyên đơn Châu Thành C, Châu Thị H,
Châu Thị Đ, Châu Thị N, Hội đồng xét xử nhận thấy:
[2.1]. Xét hành vi của Chi Cục Thi hành án dân sự huyện Cái Bè thực hiện
việc thi hành Bản án dân sự phúc thẩm số: 185/DSPT, ngày 10/6/1997 của Tòa
án nhân dân tỉnh Tiền Giang, Hội đồng xét xử nhận thấy:
Ngày 17/12/1997, Chi Cục Thi hành án dân sự huyện Cái Bè đã ban hành
quyết định cưỡng chế số 03/THA để kê biên tài sản của ông Châu Văn B;
Ngày 28/8/1999, các nguyên đơn và ông Châu Văn B tự nguyện thỏa thuận
nhận tài sản với tổng số tiền 15.200.000 đồng nhưng chưa đủ để thi hành án;
Ngày 20/9/1999, Chi Cục Thi hành án dân sự huyện Cái Bè đã ký hợp đồng
ủy quyền bán đấu giá tài sản là căn nhà với Trung tâm dịch vụ bán đấu giá tỉnh
T và không có người đăng ký mua tài sản đồng thời Chi Cục Thi hành án dân sự
huyện C có đề nghị các nguyên đơn nhận nhà có lập biên bản thể hiện ý kiến của
các nguyên đơn nhưng nguyên đơn không đồng ý;
Việc kê biên bán căn nhà không có người đăng ký mua, ngày 08/11/2006,
ông Châu Văn B đã tự nguyện giao 1.600m
2
đất ruộng để thi hành án phần tiền
còn lại cho các đồng nguyên đơn nhưng phía các nguyên đơn không đồng ý
nhận và được Chi Cục Thi hành án dân sự huyện Cái Bè lập biên bản. Ông Châu
Văn B yêu cầu định giá và đưa ra bán với giá là 56.000.000 đồng và ký hợp
đồng bán đấu giá nhưng không người đăng ký mua;
Như vậy Chi Cục Thi hành dân sự huyện C đã thi hành một phần bản án
dân sự phúc thẩm số: 185/DSPT, ngày 10/6/1997 của Tòa án nhân dân tỉnh Tiền
Giang.
6
[2.2]. Xét lời trình bày của các nguyên đơn về hành vi của Chi Cục Thi
hành án dân sự huyện Cái Bè thực hiện việc thi hành Bản án dân sự phúc thẩm
số: 185/DSPT, ngày 10/6/1997 của Tòa án nhân dân tỉnh Tiền Giang gây thiệt
hại cho các nguyên đơn, Hội đồng xét xử nhận thấy:
[2.2.1]. Các nguyên đơn cho rằng:
Chi Cục Thi hành án dân sự huyện Cái Bè phải tính trượt giá cho các
nguyên đơn vì giá đất đã lên cao so với giá đất mà các nguyên đơn được chia
theo Bản án số: 185/DSPT, ngày 10/6/1997 của Tòa án nhân dân tỉnh Tiền
Giang xét xử đã có hiệu lực vì theo quy định tại Điều 59 của Luật Thi hành án
dân sự năm 2008 là không phù hợp;
Việc chậm tổ chức thi hành án của Chi Cục Thi hành án dân sự huyện Cái
Bè gây thiệt hại cho các nguyên đơn thì phải bồi thường thiệt hại theo Luật
Trách nhiệm bồi thường của Nhà nước.
[2.2.2]. Chi Cục Thi hành án dân sự huyện Cái Bè cho rằng:
Bản án dân sự phúc thẩm số: 185/DSPT, ngày 10/6/1997 của Tòa án nhân
dân tỉnh Tiền Giang khó thi hành và đã thi hành được một phần cho các nguyên
đơn vào năm 1999 và hiện tại vẫn chưa thi hành xong Bản án nêu trên.
[2.2.3]. Căn cứ vào các chứng cứ, Hội đồng xét xử xét thấy:
Căn cứ vào Quyết định số 08/QĐ-CTHA ngày 14/6/2013 của Cục Thi hành
án dân sự tỉnh Tiền Giang trả lời giải quyết khiếu nại của các nguyên đơn thể
hiện việc Chi Cục Thi hành dân sự huyện C tạm thu số tiền 55.251.712 đồng từ
ông Châu Văn B là chưa phù hợp và đề nghị Chi Cục Thi hành dân sự huyện C
có trách nhiệm tổ chức việc thi hành án đúng quy định, trình tự, thủ tục do pháp
luật quy định;
Căn cứ Bản án dân sự phúc thẩm số:185/DSPT, ngày 10/6/1997 của Tòa án
nhân dân tỉnh Tiền Giang tại phần quyết định có nội dung: “…..Chia di sản của
ông Châu Văn Ứ và bà Võ Thị L cho các đồng thừa kế như sau: Chia cho Châu
Thành C: 19.932.928 đồng và 2.060.000 đồng tiền ông Ứ, bà L nợ anh C. Chia
Châu Thị H: 19.932.928 đồng. Chia Châu Thị Đ: 19.932.928 đồng. Chia Châu
Thị N: 8.592.928đồng. Buộc anh Châu Văn B phải có trách nhiệm giao số tài
sản trên cho H, Đ, N, C; giao một lần khi án có hiệu lực pháp luật.….”. Như
vậy theo Bản án dân sự phúc thẩm số: 185/DSPT, ngày 10/6/1997 của Tòa án
nhân dân tỉnh Tiền Giang thì các nguyên đơn được nhận giá trị bằng tiền không
thể hiện nội dung chia di sản bằng hiện vật là đất;
Căn cứ quy định tại Điều 52 của Luật Thi hành án thì việc kết thúc thi hành
án phải rơi vào trong các trường hợp sau: “1. Đương sự đã thực hiện xong
quyền, nghĩa vụ của mình. 2. Có quyết định đình chỉ thi hành án. 3. Có quyết
định trả đơn yêu cầu thi hành án”;
Từ những lời trình bày và căn cứ trên cũng như các chứng cứ có trong hồ
sơ vụ án có cơ sở để xác định:
7
Chi Cục Thi hành án dân sự huyện Cái Bè đã tổ chức việc thi hành Bản án
dân sự phúc thẩm số: 185/DSPT, ngày 10/6/1997 của Tòa án nhân dân tỉnh Tiền
Giang được một phần và chưa kết thúc việc thi hành án cho các nguyên đơn;
Tại thời điểm Chi Cục Thi hành dân sự huyện C thi hành được một phần
của Bản án dân sự phúc thẩm số: 185/DSPT, ngày 10/6/1997 của Tòa án nhân
dân tỉnh Tiền Giang vào ngày 28/8/1999 thì việc thi án vẫn được tiếp tục thực
hiện;
Ngày 08/11/2006, ông Châu Văn B đã tự nguyện giao 1.600m
2
đất ruộng
để thi hành án phần tiền còn lại cho các nguyên đơn nhưng phía các nguyên đơn
không đồng ý nhận và được Chi Cục Thi hành án dân sự huyện Cái Bè lập biên
bản;
Như vậy từ thời điểm ngày 08/11/2006 đến ngày 11/4/2013, Chi Cục Thi
hành dân huyện C chưa thực hiện việc tính giá trị phần đất 1.600m
2
mà ông
Châu Văn B tự nguyện giao có đảm bảo thi hành án số tiền còn lại và có sự
chênh lệch giá tại thời điểm thi hành án.
Tại thời điểm ngày 11/4/2013, ông Châu Văn B nộp số tiền 55.251.712
đồng, Chi Cục Thi hành dân huyện C đã mời các nguyên đơn để thi hành án số
tiền còn lại nhưng các nguyên đơn không đồng ý và khiếu nại đến khi khởi kiện
tại Tòa án trong khi:
Các nguyên đơn cũng không có căn cứ chứng minh tại thời điểm năm
2006, ông Châu Văn B đưa diện tích đất 1.600m
2
cho Chi cục thi hành án dân sự
huyện Cái Bè để bán đấu giá để thi hành án cho số tiền còn lại cao hơn hoặc
thấp hơn số tiền ông B phải thi hành án. Các nguyên đơn cũng không chứng
minh được diện tích đất 1.600m
2
tại thời điểm năm 2006 không đảm bảo để thi
hành án số tiền còn lại cho các nguyên đơn;
Các nguyên đơn cũng không chứng minh được từ ngày 08/11/2006 đến
ngày 11/4/2013 thì giá trị tài sản tăng lên so với số tiền mà ông Châu Văn B đã
nộp và được Chi Cục Thi hành án dân sự huyện Cái Bè tạm giữ số tiền
55.251.712 đồng; Trong khi yêu cầu của các nguyên đơn là giá đất tại thời điểm
xét xử cao hơn giá tại thời điểm thi hành án;
Các nguyên đơn yêu cầu Chi Cục Thi hành án dân sự huyện Cái Bè bồi
thường thiệt hại nhưng các nguyên đơn không xác định được thiệt hại thực tế
phát sinh từ việc Chi Cục Thi hành án dân sự huyện Cái Bè chậm tổ chức thi
hành Bản án phúc thẩm số: 185/DSPT, ngày 10/6/1997 của Tòa án nhân dân
tỉnh Tiền Giang;
Các nguyên đơn không cung cấp được chứng cứ chứng minh thiệt hại do
hành vi Chi Cục Thi hành án dân sự huyện C khi thi hành án gây ra;
Các nguyên đơn yêu cầu Chi Cục Thi hành án dân sự huyện Cái Bè bồi
thường thiệt hại nhưng yêu cầu này không phải là bồi thường thiệt hại mà thực
hiện thay nghĩa vụ thi hành án của ông Châu Văn B cho các nguyên đơn. Trong
khi tại thời điểm 2006, ông Châu Văn B đã đưa một phần tài sản để thỏa thuận
8
thi hành án với các nguyên đơn, các nguyên đơn không nhận và được bán đấu
giá theo quy định cho đến ngày 11/4/2013 ông Châu Văn B nộp số tiền
55.251.712 đồng;
Ngoài ra, các nguyên đơn khiếu nại liên tục từ thời điểm 2006 ngày
11/4/2013 sẽ làm ảnh hưởng quyền lợi cho ông B nên ông B đã nộp số tiền
55.251.712 đồng để thi hành án, các nguyên đơn không nhận và vẫn khiếu nại;
Do đó việc Chi Cục Thi hành án dân sự huyện Cái Bè thực hiện việc kê
biên, bán đấu giá diện tích đất 1.600m
2
vẫn đảm bảo thi hành án cho các nguyên
đơn tại thời điểm năm 2006 nhưng các nguyên đơn từ chối nhận hiện vật là lỗi
của các nguyên đơn.
Tòa án cấp sơ thẩm không chấp nhận yêu cầu khởi kiện của các nguyên
đơn là có căn cứ.
Tại phiên tòa phúc thẩm, người kháng cáo không cung cấp được chứng cứ
gì khác ngoài những chứng cứ mà Tòa án cấp sơ thẩm đã xem xét nên không có
căn cứ để chấp nhận yêu cầu kháng cáo của nguyên đơn, cần giữ nguyên án sơ
thẩm.
[3]. Đối với việc đại diện theo ủy quyền của người kháng cáo yêu cầu Tòa
án cấp phúc thẩm trích lục toàn bộ hồ sơ cấp Giấy chứng nhận quyền sử dụng
đất cho ông Châu Văn B, Hội đồng xét xử xét thấy không cần thiết nên không
chấp nhận ngừng phiên tòa để thu thập chứng cứ theo yêu cầu của đương sự.
[4]. Về án phí dân sự phúc thẩm: Đương sự phải chịu án phí dân sự phúc
thẩm theo quy định.
[5]. Đối với đề nghị của đại diện Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Tiền Giang
phù hợp với nhận định của Hội đồng xét xử.
Vì các lẽ trên,
QUYẾT ĐNH:
Căn cứ vào Điều 148; khoản 1 Điều 308 của Bộ luật Tố tụng dân sự;
Áp dụng các điều 472; 473, 474, 481, 482; 584, 585, 357, 468 của Bộ luật
Dân sự; Căn cứ Luật Trách nhiệm bồi thường của Nhà nước;
Áp dụng Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của y
ban Thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn giảm, thu, nộp, quản lý và
sử dụng án phí và lệ phí Tòa án;
Căn cứ Luật Thi hành án dân sự.
Xử: 1. Không chấp nhận yêu cầu kháng cáo của nguyên đơn Châu Thành
C, Châu Thị H, Châu Thị Đ, Châu Thị N.
Giữ nguyên Bản án dân sự sơ thẩm số: 347/2024/DS-ST, ngày 25/9/2024
của Tòa án nhân dân huyện Cái Bè, tỉnh Tiền Giang:
Không chấp nhận toàn bộ yêu cầu khởi kiện của các nguyên đơn gồm có
Châu Thành C; Châu Thị H; Châu Thị Đ; Châu Thị N về việc yêu cầu Chi Cục
9
Thi hành án dân sự huyện Cái Bè bồi thường thiệt hại do không thực hiện việc tổ
chức thi hành Bản án số: 185/DSPT, ngày 10/6/1997 của Tòa án nhân dân tỉnh
Tiền Giang theo quy định tại Điều 59 Luật Thi hành án dân sự năm 2008. Yêu
cầu bồi thường mỗi người số tiền tương đương 2.454,3m
2
đất theo giá là
650.000đồng/1m
2
thành tiền 1.595.295.000 đồng. Như vậy yêu cầu bồi thường
cho ông Châu Thành C là 1.595.295.000 đồng và 4 chỉ vàng 24Kara tính trượt
giá tới hiện tại là 8.000.000đồng/1 chỉ thành tiền là 32.000.000 đồng; bà Châu
Thị H là 1.595.295.000 đồng và bà Châu Thị Đ là 1.595.295.000 đồng. Bà Châu
Thị N yêu cầu Chi Cục Thi hành án dân sự huyện Cái Bè bồi thường số tiền
tương đương 454,3m
2
, giá 650.000 đồng, thành tiền 295.295.000 đồng.
Về án phí dân sự sơ thẩm: Bà Châu Thị N phải chịu 14.764.750 đồng án
phí dân sự sơ thẩm. Bà N đã nộp số tiền 9.232.000 đồng tạm ứng án phí theo
biên lai thu số 0010902 ngày 07/02/2023 của Chi Cục Thi hành án dân sự huyện
Cái Bè thu nên bà N tiếp tục nộp thêm số tiền là 5.532.750 đồng án phí dân sự
sơ thẩm.
Ông Châu Thành C; bà Châu Thị H; bà Châu Thị Đ có đơn xin miễn tạm
ứng án phí và án phí theo quy định tại Điều 12 của Nghị quyết số
326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Uỷ ban Thường vụ Quốc hội quy
định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Toà
án nên họ không phải chịu án phí dân sự sơ thẩm.
2. Về án phí dân sự phúc thẩm:
Bà Châu Thị N phải chịu 300.000 đồng án phí dân sự phúc thẩm nhưng
được trừ vào số tiền tạm ứng án phí phúc thẩm mà bà N đã nộp 300.000 đồng
theo biên lai thu số 0015873 ngày 07/10/2024 của Chi Cục Thi hành án Dân sự
huyện Cái Bè, tỉnh Tiền Giang.
Trường hợp bản án, quyết định được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật
Thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án
dân sự có quyền thỏa thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện
thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các Điều 6, 7 và 9
Luật Thi hành án dân sự; thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại
Điều 30 Luật Thi hành án dân sự.
3. Bản án phúc thẩm có hiệu lực pháp luật kể từ ngày tuyên án.
Án tuyên vào lúc 09 giờ, ngày 03/3/2025, có mặt bà P, có mặt ông C, ông Â.
*. Nơi nhận:
- Tòa án nhân dân tối cao;
- Tòa án nhân dân cấp cao;
- VKSND tỉnh Tiền Giang;
- TAND huyện Cái Bè;
- CCTHADS huyện Cái Bè;
- Đăng cổng thông tin điện tử;
- Các đương sự;
- Lưu: VT, hồ sơ vụ án.
TM. HỘI ĐỒNG XÉT XỬ PHÚC THẨM
THẨM PHÁN – CHỦ TỌA PHIÊN TÒA
Trương Vnh Hu
Tải về
Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để tải file. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!
Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để tải file. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!
Bản án/ Quyết định cùng đối tượng
1
Ban hành: 01/04/2025
Cấp xét xử: Phúc thẩm
2
Ban hành: 31/03/2025
Cấp xét xử: Phúc thẩm
3
Ban hành: 26/03/2025
Cấp xét xử: Phúc thẩm
4
Ban hành: 26/03/2025
Cấp xét xử: Phúc thẩm
5
Ban hành: 25/03/2025
Cấp xét xử: Phúc thẩm
6
Ban hành: 18/03/2025
Cấp xét xử: Phúc thẩm
7
Ban hành: 14/03/2025
Cấp xét xử: Phúc thẩm
8
Ban hành: 06/03/2025
Cấp xét xử: Phúc thẩm
9
Ban hành: 06/03/2025
Cấp xét xử: Phúc thẩm
10
Ban hành: 05/03/2025
Cấp xét xử: Phúc thẩm
11
Ban hành: 04/03/2025
Cấp xét xử: Phúc thẩm
12
Ban hành: 03/03/2025
Cấp xét xử: Phúc thẩm
13
Ban hành: 28/02/2025
Cấp xét xử: Phúc thẩm
14
Ban hành: 27/02/2025
Cấp xét xử: Phúc thẩm
15
Ban hành: 25/02/2025
Cấp xét xử: Phúc thẩm
16
Ban hành: 20/02/2025
Cấp xét xử: Phúc thẩm
17
Ban hành: 14/02/2025
Cấp xét xử: Phúc thẩm
18
Ban hành: 22/01/2025
Cấp xét xử: Phúc thẩm
19
Ban hành: 22/01/2025
Cấp xét xử: Phúc thẩm