Bản án số 47/2025/DS-PT ngày 22/01/2025 của TAND tỉnh Đắk Lắk về đòi bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng về tài sản
- Thuộc tính
- Nội dung
- VB gốc
- VB liên quan
- Lược đồ
- Đính chính
- Án lệ
- BA/QĐ cùng nội dung
- Tải về
Tải văn bản
-
Bản án số 47/2025/DS-PT
Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để tải file. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!
-
Bản án số 47/2025/DS-PT
Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để tải file. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!
Báo lỗi
Thuộc tính Bản án 47/2025/DS-PT
Tên Bản án: | Bản án số 47/2025/DS-PT ngày 22/01/2025 của TAND tỉnh Đắk Lắk về đòi bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng về tài sản |
---|---|
Quan hệ pháp luật: | Đòi bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng về tài sản |
Cấp xét xử: | Phúc thẩm |
Tòa án xét xử: | TAND tỉnh Đắk Lắk |
Số hiệu: | 47/2025/DS-PT |
Loại văn bản: | Bản án |
Ngày ban hành: | 22/01/2025 |
Lĩnh vực: | Dân sự |
Áp dụng án lệ: |
Đã biết
Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để xem áp dụng án lệ. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây! |
Đính chính: |
Đã biết
Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để xem đính chính. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây! |
Thông tin về vụ/việc: | - Không chấp nhận kháng cáo của bị đơn ông Nguyễn Văn T; - Giữ nguyên Bản án sơ thẩm số 43/2024/DS-ST ngày 18/9/2024 của Tòa án nhân dân huyện Krông Pắc, tỉnh Đắk Lắk. |
Tóm tắt Bản án
Nội dung tóm tắt đang được cập nhật, Quý khách vui lòng quay lại sau!
Tải văn bản
![](https://image3.luatvietnam.vn/uploaded/LawJudgs/Convert/Images/Original/2025/02/14/bg1-101417.png)
1
TÒA ÁN NHÂN DÂN
TỈNH ĐẮK LẮK
Bản án số: 47/2025/DS-PT
Ngày: 22 – 01 – 2025
V/v: Tranh chấp hợp đồng giao
khoán và yêu cầu bồi thường thiệt
hại về tài sản
CỘNG HOÀ XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM
Độc lập – Tự do – Hạnh phúc
NHÂN DANH
NƯỚC CỘNG HÒA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM
TÒA ÁN NHÂN DÂN TỈNH ĐẮK LẮK
- Thành phần Hội đồng xét xử phúc thẩm gồm có:
Thẩm phán - Chủ toạ phiên toà: Ông Y Phi Kbuôr
Các Thẩm phán: Ông Nguyễn Văn Hồng, bà Lưu Thị Thu Hường.
-
Thư ký ghi biên bản phiên toà:
Bà Đỗ Thị Minh Chi – Thư ký Toà án nhân
dân tỉnh Đắk Lắk
- Đại diện Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Đắk Lắk: Ông Nguyễn Chí Hiếu –
Kiểm sát viên.
Ngày 22 tháng 01 năm 2025 tại trụ sở Toà án nhân dân tỉnh Đắk Lắk tiến hành
xét xử phúc thẩm công khai vụ án dân sự thụ lý số 362/2024/TLPT-DS ngày
13/11/2024 về việc “Tranh chấp hợp đồng giao khoán và yêu cầu bồi thường thiệt
hại về tài sản” do có kháng cáo của bị đơn ông Nguyễn Văn T đối với Bản án sơ
thẩm số 43/2024/DS-ST ngày 18/9/2024 của Tòa án nhân dân huyện Krông Pắc, tỉnh
Đắk Lắk. Theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 424/2024/QĐPT-DS ngày
20/12/2024 và Quyết định hoãn phiên toà số 04/2025/QĐ-DS ngày 07/01/2025,
giữa:
- Nguyên đơn: Công ty cổ phần C; Địa chỉ: Km17, quốc lộ 26, xã H, huyện K,
tỉnh Đắk Lắk;
Người đại diện theo pháp luật của nguyên đơn: Ông Đỗ Hoàng P – Chức vụ:
Chủ tịch hội đồng thành viên; (vắng mặt)
Người đại diện theo uỷ quyền: Ông Phạm Đình B, sinh năm 1957; Địa chỉ: Số
65 T, thành phố B; (có mặt)
- Bị đơn: Ông Nguyễn Văn T, sinh năm 1963; Địa chỉ: Thôn 15, xã H, huyện K,
tỉnh Đắk Lắk; (có mặt)
Người đại diện theo uỷ quyền của bị đơn: Ông Phạm Văn H, sinh năm 1984; Địa
chỉ: Buôn K62, xã Đ, huyện K, tỉnh Đắk Nông. (có mặt)
![](https://image3.luatvietnam.vn/uploaded/LawJudgs/Convert/Images/Original/2025/02/14/bg2-101417.png)
2
NỘI DUNG VỤ ÁN:
Theo đơn khởi kiện, các bản tự khai và trong quá trình giải quyết vụ án,
người đại diện theo uỷ quyền của nguyên đơn trình bày:
Vào ngày 25/8/2011 ông Nguyễn Văn T có đơn xin hợp đồng khoán gọn vườn
cây cà phê cho hộ nông trường viên gửi Công ty TNHH một thành viên C (Nay là
Công ty Cổ phần C).
Ngày 27/8/2011 giữa ông T và Công ty đã ký Hợp đồng khoán gọn vườn cây
cà phê cho hộ nông trường viên số 222/2011/HĐ-GK. Theo hợp đồng thì ông T nhận
khoán chăm sóc vườn cây cà phê Vối trồng năm 1979 của Công ty có diện tích
10.855m
2
và diện tích bờ lô 1.576m
2
. Địa điểm đất giao khoán thuộc đội 15/2, tại
thửa 31b, tờ bản đồ số 10, địa chỉ thửa đất: xã H, huyện K, tỉnh Đắk Lắk. Nguyên
giá vườn cây khi nhận khoán 40.799.357 đồng; Giá trị vườn cây còn lại 24.040.318
đồng. Phần giá trị vườn cây trên đất Công ty góp 51%, chủ hộ góp 49%. Thời hạn
giao khoán là 04 năm sau đó gia hạn đến niên vụ 2019 -2020. Mức giao khoán hằng
năm ông T phải nộp về Công ty theo thoả thuận trong Hợp đồng giao khoán, cụ thể:
từ niên vụ 2011-2012 đến niên vụ 2019-2020 nộp 2.593kg/niên vụ.
Việc ký hợp đồng trên là dựa vào Bộ luật dân sự năm 2005; Nghị Định số
135/2005/NĐ-CP ngày 08/11/2005 của Chính phủ; Thông tư số 102/2006/TT-BNN
ngày 13/11/2006 của Bộ nông nghiệp và phát triển nông thôn; Quyết định số
1399/QĐ-UDND ngày 08/6/2011 của UBND tỉnh Đắk Lắk; Biên bản Họp các sở
ngành liên quan (biên bản Họp 11 sở ngành ngày 20/1/2011); Nghị quyết hội nghị
đại biểu người lao động ngày 26/3/2010; Biên bản họp mở rộng tham gia góp ý kiến
phương án khoán gọn vườn cây cà phê cho hộ nông trường viên, trên cơ sở kế thừa
và có sửa đổi “Phương án hợp đồng hợp tác đầu tư & Phân chia sản phẩm” mà Công
ty đã thực hiện từ năm 1998 đến năm 2010; Việc ký kết hợp đồng giữa hai bên là
hoàn toàn tự nguyện, không bị ép buộc, không lừa dối, vì trước khi ký hợp đồng thì
ông T đã có đơn xin nhận khoán vườn cây gửi Công ty, sau đó có hội đồng xét duyệt
đơn xin hợp đồng khoán gọn vườn cây cà phê cho hộ nông trường viên cho từng cá
nhân, đến Tổng giám đốc thay mặt Công ty ký hợp đồng theo quy định của pháp
luật. Việc ký kết này là theo chu kỳ kinh doanh của vườn cây chứ không ký theo
từng năm.
Kể từ khi nhận khoán vườn cây cho đến niên vụ cà phê 2017-2018 ông T đã
thực hiện nghĩa vụ chăm sóc vườn cây cũng như thực hiện đầy đủ nghĩa vụ giao nộp
![](https://image3.luatvietnam.vn/uploaded/LawJudgs/Convert/Images/Original/2025/02/14/bg3-101418.png)
3
sản phẩm theo hợp đồng. Từ niên vụ thu hoạch cà phê 2018 – 2019 đến niên vụ
2022-2023, ông T đã không thực hiện nghĩa vụ giao nộp sản phẩm cà phê quả tươi
cho Công ty và các khoản nợ khác theo đúng cam kết trong Hợp đồng. Ngoài ra theo
thông báo của cục thuế tỉnh tiền truy thu tiền thuê đất (năm 2006-2010; 2015 đến
2017); Tiền thuê đất 05 năm (2018, 2019, 2020, 2021, 2022) là 8.242.736 đồng
nhưng ông T chưa nộp cho Công ty để Công ty trả cho Cục thuế. Trong quá trình
thực hiện hợp đồng ông T đã tự ý chặt phá 22 cây muồng đen trồng năm 1979 nên
Công ty đề nghị ông bồi thường thiệt hại do hành vi chặt phá, chiếm đoạt cây muồng
đen. Mặt khác, ông còn nợ tiền khấu hao kênh mương, hồ đập của Công ty từ năm
2018 đến 2021. Hiện nay hợp đồng giao khoán của ông T đã hết, Công ty đã mời
ông đến Công ty để thanh lý hoặc ký kết lại hợp đồng mới, nhưng ông T không hợp
tác mà ngang nhiên chiếm dụng trái phép vườn cây của Công ty đến nay việc làm
này của ông T là vi phạm hợp đồng đối với Công ty, xâm phạm trực tiếp đến quyền,
lợi ích hợp pháp và tài sản của Công ty.
Vì những lý do trên, Công ty làm đơn khởi kiện và khởi kiện bổ sung ông
Nguyễn Văn T, đề nghị Toà án giải quyết:
- Chấm dứt Hợp đồng khoán gọn vườn cây cà phê cho hộ nông trường viên
số 222/2011/HĐ-GK. Buộc ông T phải trả lại toàn bộ vườn cây cho Công ty cổ phần
C với diện tích còn lại sau khi trừ đi diện tích 4.272,9m
2
đất bị thu hồi theo Quyết
định số 3558/QĐ-UBND ngày 03/8/2022 của Ủy ban nhân dân huyện K. Địa điểm
đất giao khoán thuộc đội 15/2, tại thửa 31b, tờ bản đồ số 10, địa chỉ thửa đất: xã H,
huyện K, tỉnh Đắk Lắk. Theo GCNQSD đất số K 239519, do UBND tỉnh Đắk Lắk
cấp cho Công ty Cổ phần C vào ngày 16/5/1997, cụ thể:
+ Mảnh số 1, diện tích 1.088m
2
có tứ cận: Phía Bắc giáp thửa 20+24, tờ bản
đồ số 10, người nhận khoán ông Trần Xuân C; Phía Nam giáp đường tránh đông B;
Phía Đông giáp đường tránh đông B; Phía Tây giáp thửa 30a+31a, tờ bản đồ số 10,
người nhận khoán ông Nguyễn Tiến Đ.
+ Mảnh số 2, diện tích 5.494m
2
có tứ cận: Phía Bắc giáp đường tránh đông B;
Phía Nam giáp đường QL26; Phía Đông giáp thửa 30a+31a, tờ bản đồ số 10, người
nhận khoán bà Nguyễn Thị V; Phía Tây giáp thửa 32, tờ bản đồ số 10, người nhận
khoán ông Nguyễn Tiến Đ.
Và buộc ông T phải di dời (chặt bỏ) toàn bộ vật kiến trúc, cây trồng xen ra
khỏi diện tích đất nhận khoán.
![](https://image3.luatvietnam.vn/uploaded/LawJudgs/Convert/Images/Original/2025/02/14/bg4-101418.png)
4
- Buộc ông Nguyễn Văn T phải trả cho công ty cổ phần C 10.236kg cà phê
quả tươi còn nợ của 05 niên vụ (2018-2019; 2019-2020; 2020-2021; 2021-2022;
2022-2023).
- Buộc ông Nguyễn Văn T phải nộp tiền thuê đất phần 49% về Công ty (truy
thu năm 2006 đến năm 2010; 2015 đến 2017) và tiền thuê đất 05 năm (từ năm 2018
đến năm 2022) là 8.242.736 đồng.
- Buộc ông Nguyễn Văn T phải trả cho Công ty tiền khấu hao kênh mương hồ
đập từ năm 2018 đến năm 2021 là 2.171.000 đồng.
- Buộc ông Nguyễn Văn T bồi thường 100% thiệt hại do hành vi chặt phá 22
cây muồng đen trồng năm 1979 có giá 85.978.200 đồng. Tại phiên tòa sơ thẩm
nguyên đơn xin rút một phần yêu cầu khởi kiện đối với việc buộc ông Nguyễn Văn
T bồi thường 30% trị giá 22 cây muồng đen trồng năm 1979. Công ty chỉ yêu cầu
ông Nguyễn Văn T phải bồi thường 70% trị giá 22 cây muồng đen trồng năm 1979.
Trong quá trình giải quyết vụ án, bị đơn ông Nguyễn Văn T và người đại
diện theo uỷ quyền của bị đơn ông Phạm Văn H thống nhất trình bày:
Việc đại diện theo ủy quyền cho nguyên đơn trình bày về việc ký kết hợp đồng
giữa ông T và Công ty về thời gian, diện tích nhận khoán là đúng. Tuy nhiên, quá
trình thực hiện hợp đồng Công ty không thực hiện đúng theo hợp đồng, không xem
xét giảm sản lượng cho người nhận khoán khi có thiên tại xảy ra. Vì những lý do
nêu trên nên ông T dừng đóng sản để yêu cầu Công ty giảm sản lượng đóng và
thương thảo lại các điều khoản trong hợp đồng.
Do đó, Công ty cổ phần C buộc ông T phải trả 10.236kg cà phê quả tươi còn
nợ của 05 niên vụ (2018-2019; 2019-2020; 2020-2021; 2021-2022; 2022-2023) và
Chấm dứt hợp đồng khoán gọn là không hợp lý đề nghị Công ty cổ phần C giảm sản
lượng theo quy định trong hợp đồng và làm việc với ông T để thỏa thuận việc phân
chia thu nhập sau khi trừ chi phí đầu tư đúng theo quy định của Nghị định 135/2005
của chính phủ.
Công ty cổ phần C buộc ông T phải nộp tiền thuê đất về Công ty số tiền
8.242.736 đồng tiền thuê đất mà không nêu căn cứ rõ ràng và không đúng với giá
thuê đất trong hợp đồng thuê đất do Công ty đại diện ký với UBND tỉnh Đắk Lắk tại
hợp đồng thuê đất số 64/HĐTĐ ngày 27/06/2011, phụ lục hợp đồng ngày 17/11/2011
và phụ lục hợp đồng số 118/PL-HĐTĐ ngày 21/6/2017 do vậy ông T chưa rõ để nộp
đúng số tiền với 49% đất đã thuê.
![](https://image3.luatvietnam.vn/uploaded/LawJudgs/Convert/Images/Original/2025/02/14/bg5-101418.png)
5
Công ty cổ phần C buộc ông Nguyễn Văn T bồi thường thiệt hại do hành vi
chặt phá, chiếm đoạt cây muồng đen để che bóng, chắn gió cho vườn cây là 22 cây
muồng đen trồng năm 1979 thì ông T không đồng ý vì ông T là người trực tiếp chăm
sóc, rong tỉa cây.
Công ty cổ phần C buộc ông T phải trả cho Công ty cổ phần C tiền khấu hao
kênh mương hồ đập tưới cho vườn cà phê từ năm 2018 đến năm 2021 là 2.171.000
đồng thì ông T không đồng ý.
Đối với yêu cầu chấm dứt hợp đồng giao khoán và buộc ông T di dời (chặt
bỏ) vật kiến trúc, cây trồng trên đất thì ông T đề nghị Tòa án xem xét, giải quyết
theo đúng quy định của pháp luật.
Hiện nay, huyện ủy K đã làm việc với ông T và các hộ nhận khoán và hứa sẽ
giải quyết (biên bản làm việc số: 03-BB/TCTHU ngày 01/12/2022). Việc tranh chấp
giữa ông T và Công ty cổ phần C đang được Thanh tra Chính phủ và Ủy ban nhân
tỉnh Đắk Lắk, cùng các cơ quan có thẩm quyền giải quyết. Ngày 22/09/2023 UBND
tỉnh Đắk Lắk đã có công văn số: 8185/UBND-NNMT (V/v đề nghị thanh tra toàn
diện tại Công ty cổ phần C). Kết quả giải quyết của Thanh tra Chính phủ và các cơ
quan liên quan có thể ảnh hưởng đến việc giải quyết vụ án nên đề nghị Tòa án tạm
đình chỉ vụ án.
Tại Bản án sơ thẩm số 43/2024/DS-ST ngày 18/9/2024 của Tòa án nhân dân
huyện Krông Pắc, tỉnh Đắk Lắk đã quyết định:
- Áp dụng khoản 3 Điều 26, điểm a khoản 1 Điều 35, điểm a khoản 1 Điều 39,
Điều 147, Điều 157, Điều 165, điểm c khoản 1 Điều 217, Điều 218, Điều 219, Điều
244, Điều 271 và Điều 273 của Bộ luật tố tụng dân sự;
- Áp dụng Điều 388, 390, 392, khoản 1, 3, 7, 8 Điều 409, 412, 414, 501, 502,
503, 506 của Bộ luật dân sự năm 2005; điểm c khoản 1 Điều 688 của Bộ luật dân
sự năm 2015;
- Áp dụng Điều 7, 8, 9, 10, 12 Nghị định số 135/2005/NĐ-CP ngày 08/11/2005
của Chính phủ;
- Áp dụng Thông tư số 102/2006/TT-BNN ngày 13 tháng 11 năm 2006 của Bộ
nông nghiệp và phát triển nông thôn;
- Áp dụng Luật đất đai năm 2003;
- Áp dụng điểm đ, khoản 1 Điều 12, Điều 26 Nghị quyết số
326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội 14.
6
Tuyên xử:
1. Chấp nhận một phần yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn Công ty cổ phần C.
1.1. Buộc ông Nguyễn Văn T phải trả cho Công ty cổ phần C sản lượng cà
phê quả tươi còn nợ của 05 niên vụ (từ niên vụ 2018-2019 đến niên vụ 2022-2023)
là 10.236kg.
1.2. Buộc ông Nguyễn Văn T phải nộp tiền thuê đất phần 49% về Công ty (truy
thu năm 2006 đến năm 2010; 2015 đến 2017) và tiền thuê đất 05 năm (từ năm 2018
đến năm 2022) là 8.242.736 đồng (Tám triệu, hai trăm bốn mươi hai nghìn, bảy trăm
ba mươi sáu đồng).
1.3. Buộc ông Nguyễn Văn T phải trả tiền khấu hao kênh mương, hồ đập từ
năm 2018 đến năm 2021 là 2.171.000 đồng (Hai triệu, một trăm bảy mươi mốt nghìn
đồng).
1.4. Buộc ông Nguyễn Văn T phải bồi thường cho Công ty cổ phần C 70% giá
trị 22 cây muồng đen trồng năm 1979 bị cắt hạ là 60.152.400 đồng (Sáu mươi triệu,
một trăm năm mươi hai nghìn, bốn trăm đồng).
1.5. Chấm dứt Hợp đồng khoán gọn vườn cây cà phê cho hộ nông trường viên
số 222/2011/HĐ-GK ngày 27/8/2011 giữa Công ty TNHH MTV C và ông Nguyễn
Văn T.
- Ông Nguyễn Văn T có nghĩa vụ trả lại cho Công ty Cổ phần C diện tích nhận
khoán còn lại sau khi trừ đi diện tích 4.272,9m
2
đất bị thu hồi theo Quyết định số
3558/QĐ-UBND của Ủy ban nhân dân tỉnh Đắk Lắk ngày 03/8/2022 cụ thể, thửa
đất số 31b, tờ bản đồ số 10, thuộc đội 15/2, địa chỉ thửa đất: Xã H, huyện K, tỉnh
Đắk Lắk được chia làm 02 mảnh có tứ cận:
+ Mảnh số 1, diện tích 1.088m
2
: Phía Bắc giáp thửa 20+24, tờ bản đồ số 10,
người nhận khoán ông Trần Xuân C; Phía Nam giáp đường tránh đông B; Phía
Đông giáp đường tránh đông B; Phía Tây giáp thửa 30a+31a, tờ bản đồ số 10,
người nhận khoán ông Nguyễn Tiến Đ.
+ Mảnh số 2, diện tích 5.494m
2
: Phía Bắc giáp đường tránh đông B; Phía
Nam giáp đường QL26; Phía Đông giáp thửa 30a+31a, tờ bản đồ số 10, người nhận
khoán bà Nguyễn Thị V; Phía Tây giáp thửa 32, tờ bản đồ số 10, người nhận khoán
ông Nguyễn Tiến Đ.
7
Và tài sản trên đất bao gồm: 640 Cây cà phê vối trồng năm 1979 (trong đó
514 cây trên diện tích 5.496m
2
, 126 cây trên diện tích 1.088m
2
); 03 Cây muồng đen
trồng năm 1979 (trên diện tích 1.088m
2
).
- Công ty cổ phần C phải có nghĩa vụ thanh toán giá trị vườn cây cho ông
Nguyễn Văn T số tiền 41.623.445 đồng (Bốn mươi mốt triệu, sáu trăm hai mươi ba
nghìn, bốn trăm bốn mươi lăm đồng).
- Buộc ông Nguyễn Văn T phải tự tháo dỡ, di dời hoặc chặt bỏ các loại cây
trồng và các vật kiến trúc đã trồng và tạo dựng trên đất không đúng theo thỏa thuận
trong hợp đồng đã ký kết, bao gồm: 19 Cây Mắc ca trồng năm 2020; 02 cây Mít
ghép trồng năm 2018; 100 cây Sầu riêng (28 cây trồng năm 2018, 06 cây trồng năm
2019, 31 cây trồng năm 2020, 03 cây trồng năm 2021, 11 cây trồng năm 2022, 21
cây trồng năm 2023); 10 Bụi chuối (32 cây có buồng, 65 cây chưa có buồng); 01
đường ống chôn ngầm phi 90, dài 150m và 01 hàng rào lưới B40, cao 1,6m, dài 81m
nằm trong mốc giới giải phóng mặt bằng (trên diện tích 5.494m
2
) và 33 Cây sầu
riêng (07 cây trồng năm 2018, 05 cây trồng năm 2020, 06 cây trồng năm 2022, 15
cây trồng năm 2023); 02 Cây mít trồng năm 2018; 01 đường ống chôn ngầm phi 76,
dài 45m (trên diện tích 1.088m
2
). Công ty cổ phần C không có nghĩa vụ phải thanh
toán lại số tiền giá trị các loại cây trồng, vật kiến trúc nêu trên cho ông T.
Kể từ ngày bản án có hiệu lực pháp luật hoặc kể từ ngày có đơn yêu cầu thi
hành án của người được thi hành án (đối với các khoản tiền phải trả cho người được
thi hành án) cho đến khi thi hành án xong, bên phải thi hành án còn phải chịu khoản
tiền lãi của số tiền còn phải thi hành án theo mức lãi suất quy định tại Điều 357,
Điều 468 Bộ luật dân sự năm 2015.
2. Đình chỉ xét xử một phần yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn về việc buộc
ông Nguyễn Văn T phải bồi thường cho Công ty cổ phần C 30% giá trị của 22 cây
muồng đen trồng năm 1979 bị cắt hạ.
Ngoài ra, Bản án sơ thẩm còn tuyên về chi phí tố tụng, án phí và quyền kháng
cáo của các đương sự theo quy định của pháp luật.
Ngày 30/9/2024, bị đơn ông Nguyễn Văn T kháng cáo toàn bộ bản án sơ thẩm và
đề nghị Toà án cấp phúc thẩm xem xét lại bản án sơ thẩm theo hướng không chấp nhận
toàn bộ yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn Công ty cổ phần C và tư cách khởi kiện của
nguyên đơn.
8
Tại phiên tòa phúc thẩm, nguyên đơn giữ nguyên yêu cầu khởi kiện, ý kiến như
trình bày trong quá trình giải quyết tại cấp sơ thẩm. Bị đơn vẫn giữ nguyên nội dung
kháng cáo và quan điểm trình bày không chấp nhận toàn bộ đơn khởi kiện của
nguyên đơn. Đồng thời, các đương sự không tự hòa giải được với nhau về việc giải
quyết vụ án và đề nghị Tòa án cấp phúc thẩm tiếp tục giải quyết.
Đại diện Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Đắk Lắk phát biểu quan điểm giải
quyết vụ án:
- Về tố tụng: Việc tuân theo pháp luật của những người tiến hành tố tụng, các
đương sự thực hiện đúng quy định của Bộ luật tố tụng dân sự. Đơn kháng cáo của
ông Nguyễn Văn T đã nộp trong thời hạn luật định.
- Về nội dung: Đề nghị Hội đồng xét xử căn cứ khoản 2 Điều 308 và Điều 309
Bộ luật Tố tụng dân sự, chấp nhận một phần kháng cáo của bị đơn ông Nguyễn Văn
T về việc: Không chấp nhận yêu cầu buộc ông T thanh toán tiền khấu hao kênh
mương, hồ đập từ năm 2018 đến năm 2021. Giữ nguyên các quyết định khác của
bản án sơ thẩm.
NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN:
Sau khi xem xét các tài liệu, chứng cứ có trong hồ sơ vụ án đã được thẩm tra
công khai tại phiên toà, căn cứ vào kết quả tranh luận tại phiên tòa, ý kiến Kiểm sát
viên, Hội đồng xét xử nhận thấy:
[1] Về tố tụng:
Đơn kháng cáo của bị đơn ông Nguyễn Văn T đã được nộp trong thời hạn luật
định nên xem xét, giải quyết theo trình tự phúc thẩm là phù hợp quy định của pháp
luật. Tại phiên tòa phúc thẩm, nguyên đơn không rút yêu cầu khởi kiện, bị đơn không
rút đơn kháng cáo, các đương sự không tự hòa giải được với nhau về việc giải quyết
vụ án và đề nghị Tòa án cấp phúc thẩm giải quyết.
[2] Về nội dung:
[2.1] Đối với ý kiến của bị đơn về tư cách tham gia tố tụng của nguyên đơn:
Xét thấy, việc chuyển đổi từ mô hình Công ty TNHH MTV C sang Công ty Cổ phần
C đã được thực hiện theo trình tự quy định của pháp luật được Phòng đăng ký kinh
doanh - Sở kế hoạch đầu tư cấp giấy chứng nhận đăng ký doanh nghiệp Công ty Cổ
phần đăng ký thay đổi lần thứ 5 ngày 09/10/2019, hiện nay chưa bị cơ quan có thẩm
quyền nào hủy bỏ tư cách pháp nhân. Mặt khác, căn cứ khoản 4 Điều 202 Luật doanh
nghiệp năm 2020 quy định “Công ty chuyển đổi đương nhiên kế thừa toàn bộ quyền
và lợi ích hợp pháp, chịu trách nhiệm về các khoản nợ, gồm cả nợ thuế, hợp đồng
9
lao động và nghĩa vụ khác của công ty được chuyển đổi”. Như vậy, Tòa án nhân dân
huyện Krông Pắc thụ lý, giải quyết vụ án theo yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn
Công ty Cồ phần C và xác định người đại diện theo pháp luật của Công ty ông Đỗ
Hoàng P (chức danh Chủ tịch hội đồng quản trị) là người đại diện của Công ty tham
gia tố tụng là có căn cứ, phù hợp với quy định tại Điều 85 Bộ luật tố tụng dân sự
[2.2] Về sản lượng 10.236kg quả tươi mà ông Nguyễn Văn T còn phải
đóng cho Công ty:
Nguyên đơn Công ty C và bị đơn ông Nguyễn Văn T đều thừa nhận các bên
đã giao kết Hợp đồng khoán gọn vườn cây cà phê cho hộ nông trường viên số
222/2011/HĐ-GK ngày 27/8/2011 (Sau đây gọi tắt là Hợp đồng số 222). Khi ký kết
hợp đồng, các bên hoàn toàn tự nguyện và có đầy đủ năng lực trách nhiệm dân sự
theo quy định của pháp luật, ông T đã thực hiện đúng nghĩa vụ chăm sóc vườn cây
và giao nộp sản phẩm đầy đủ cho Công ty cho đến hết niên vụ 2017-2018, còn các
niên vụ tiếp theo thì ông T không đóng sản lượng cho Công ty. Do đó, ông T phải
thực hiện nghĩa vụ theo hợp đồng đã ký kết. Vì vậy, Toà án cấp sơ thẩm tuyên buộc
ông T phải trả cho Công ty sản lượng 10.236kg cà phê quả tươi còn nợ của 05 niên
vụ từ niên vụ 2018-2019 đến niên vụ 2022-2023 là có cơ sở. Còn việc ông T đề nghị
Công ty giảm sản lượng và thoả thuận với ông T về việc phân chia thu nhập sau khi
trừ chi phí đầu tư theo Nghị định số 135/2005/NĐ-CP ngày 08/11/2005 nhưng Công
ty không đồng ý thoả thuận nội dung này nên không có căn cứ chấp nhận ý kiến của
ông T.
[2.3] Về tiền thuê đất mà ông Nguyễn Văn T phải đóng là 8.242.736 đồng:
Tại điểm g khoản 2 Điều 3 của Hợp đồng số 222 đã quy định về nghĩa vụ của
ông Nguyễn Văn T là “Nộp tiền thuê đất, thuế đất nông nghiệp cho nhà nước (nếu
có), theo tỷ lệ 51-49%, phần bên B (49%) nộp vào tháng 11 trong năm thông qua
bên A”. Tuy nhiên, từ năm 2015 đến năm 2022 ông T chưa nộp tiền thuê đất cho Công
ty đối với lô đất nhận khoán để Công ty thực hiện nghĩa vụ nộp tiền thuê đất vào Ngân
sách nhà nước theo quy định. Tại Thông báo số 802/TB-CT ngày 24/4/2018, Thông
báo số 984/TB-CT ngày 07/5/2019 của Cục thuế tỉnh Đắk Lắk thì năm 2015 tiền thuê
đất được tính 699.849đ/ha, từ năm 2016 đến năm 2017 tiền thuê đất được tính
1.786.408đ/ha/năm, từ năm 2018 đến năm 2019 tiền thuê đất được tính
1.786.748đ/ha/năm từ năm 2018 đến năm 2019 tiền thuê đất được tính
1.786.748đ/ha/năm; Thông báo số 695 ngày 23/3/2020 của Cục thuế tỉnh Đắk Lắk
tiền thuê đất được tính 1.785.408đ/ha; Thông báo số 1252 ngày 29/4/2021 của Cục
10
thuế tỉnh Đắk Lắk về tiền thuê đất theo hình thức nộp hàng năm của Cục thuế tỉnh
Đắk Lắk thì năm 2021 tiền thuê đất được tính 1.785.408đ/ha. Như vậy, căn cứ vào
diện tích đất nhận khoán, diện tích đất bờ lô và các Thông báo thuế thì ông T phải có
nghĩa vụ nộp tiền thuê đất. Do đó, cần buộc ông T phải nộp tiền thuê đất cho Công ty
phần 49% với số tiền là 8.242.736 đồng.
[2.4] Về tiền khấu hao kênh mương, hồ đập từ năm 2018 đến năm 2021
mà ông Nguyễn Văn T phải đóng là 2.171.000 đồng:
Tại Điều 1 của Hợp đồng số 222 có nêu: “1. Bên A khoán gọn vườn cây cà phê
cho bên B trực tiếp đầu tư, chăm sóc, bảo vệ, thu hoạch và giao nộp sản phẩm cà
phê”. Và tại Điều 2, Điều 3 của hợp đồng có nêu: “Khi vào vụ tưới nước cho cà phê,
Công ty mở nước cho bên B tưới với diện tích tưới mương. Diện tích tưới mương
Công ty sẽ thu tiền khấu hao hồ đập kênh mương theo đơn giá quy định tại hội nghị
người lao động hằng năm” và “Đối với diện tích tưới nước trên hệ thống hồ đập,
kênh mương của Công ty thì phải nộp tiền khấu hao hồ đập kênh mương cho bên A
theo đơn giá quy định tại hội nghị người lao động hằng năm”. Mặt khác, tại trang
10 của bảng phương án khoán gọn có nêu: “Chi phí khấu hao hồ đập kênh mương
là 500.000đồng/ha/năm (chi phí 100% trên vườn cây)” Diện tích ông T nhận khoán
là 10.855m
2
. Vì vậy, Toà án cấp sơ thẩm buộc ông T phải trả cho Công ty tiền tưới
nước trên hệ thống kênh mương hồ đập của Công ty từ năm 2018 đến năm 2021 là:
500.000đồng/ha x 10.855m
2
x 04 năm = 2.171.000 đồng là có căn cứ.
Ông T cho rằng ông không sử dụng kênh mương là không hợp lý vì trong diện
tích đất ông T quản lý không có nguồn nước để tưới cây, ông T cũng không đào
giếng để sử dụng. Đồng thời, tại các Hợp đồng giao khoán giữa ông T và Công ty
đều thể hiện hằng năm Công ty sẽ mở nước cho hộ nhận khoán tưới với diện tích
tưới mương và người nhận khoán có nghĩa vụ nộp tiền khấu hao hồ đập kênh mương,
vậy trường hợp ông T không sử dụng kênh mương thì phải có nghĩa vụ thông báo
cho Công ty để Công ty có hướng giải quyết khác với Hợp đồng giao khoán.
[2.5] Đối với yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn về việc chấm dứt hợp đồng
khoán gọn vườn cây số 222/2011/HĐ-GK ngày 27/8/2011 và trả lại vườn cây
nhận khoán theo hợp đồng, thì thấy:
Thời hạn Hợp đồng số 222 là 04 năm kể từ ngày 27/8/2011, sau đó Công ty và
ông T đã thoả thuận gia hạn hợp đồng đến hết niên vụ năm 2019 - 2020, đến nay
Hợp đồng trên đã hết hiệu lực nhưng ông T vẫn tiếp tục sử dụng diện tích đất được
giao khoán mà không thực hiện đầy đủ nghĩa vụ giao nộp sản lượng cho Công ty là
11
vi phạm nghĩa vụ theo hợp đồng giao khoán gọn nên theo quy định tại khoản 1 Điều
428 Bộ luật Dân sự năm 2015 và điểm f khoản 1 Điều 2 của Hợp đồng số 222, vì
vậy Công ty có quyền đơn phương chấm dứt hợp đồng và yêu cầu ông T trả lại diện
tích vườn cây nhận khoán.
Tại Bản án sơ thẩm đã giải quyết hậu quả của việc chấm dứt hợp đồng tuyên
buộc Công ty trả cho ông T số tiền 41.623.445 đồng, tương ứng với 49% giá trị vườn
cây (gồm cây cà phê và 03 cây muồng đen) là có căn cứ pháp luật và phù hợp với
thoả thuận của các bên theo Hợp đồng.
[2.6] Về các tài sản khác do ông Nguyễn Văn T tự tạo lập trên đất:
Theo kết quả xem xét, thẩm định tại chỗ thể hiện trên 02 thửa đất nhận khoán
có các tài sản, cây trồng do ông T tạo lập được là:
- Trên diện tích 5.494m
2
gồm: 19 cây mắc ca trồng năm 2020; 02 cây mít ghép
trồng năm 2018 có giá 2.672.000 đồng; 100 cây sầu riêng (28 cây trồng năm 2018,
06 cây trồng năm 2019, 31 cây trồng năm 2020, 03 cây trồng năm 2021, 11 cây trồng
năm 2022, 21 cây trồng năm 2023) có giá 311.135.200 đồng; 10 bụi chuối (32 cây
có buồng, 65 cây chưa có buồng) có giá 2.416.000 đồng; 01 đường ống chôn ngầm
phi 90, dài 150m có giá 6.200.000 đồng và 01 hàng rào lưới B40, cao 1,6m, dài 81m
nằm trong mốc giới giải phóng mặt bằng nên không định giá.
- Trên diện tíchh 1.088m
2
gồm: 33 cây sầu riêng (07 cây trồng năm 2018, 05
cây trồng năm 2020, 06 cây trồng năm 2022, 15 cây trồng năm 2023) có giá
52.332.800 đồng; 02 cây mít trồng năm 2018 có giá 2.279.200 đồng; 01 đường ống
chôn ngầm phi 76, dài 45m có giá 1.188.000 đồng (trên diện tích 1.088m
2
).
Xét thấy đây là các tài sản này được tạo lập không đúng với quy định tại điểm
c khoản 1 và điểm b khoản 2 Điều 3 của Hợp đồng số 222. Mặc dù, ngày 08/6/2018,
Công ty đã ban hành Nghị quyết số 09/NQ-HĐTV và Quy trình số 01/QT-CT ngày
cho phép các hộ dân trồng xen không quá 45 cây sầu riêng trên mỗi hecta cà phê,
tuy nhiên không có tài liệu, chứng cứ nào thể hiện UBND tỉnh Đắk Lắk đồng ý cho
phép Công ty thực hiện chủ trương trồng xen cây sầu riêng trong vườn cà phê như
Công ty đã nêu tại Thông báo số 50/TB-CT ngày 18/5/2018. Hơn nữa, việc trồng
xen của ông T cũng không đảm bảo yêu cầu mà Công ty đề ra tại Quy trình trên do
không có đơn cam đoan của người dân về việc thực hiện đầy đủ các quy định tại
Quy trình, không có sơ đồ thể hiện thiết kế vị trí trồng xen cây sầu riêng như thế nào
dẫn đến việc trồng xen của ông T là không được sự khảo sát, cho phép và giám sát
của Công ty. Vì vậy, Toà án cấp sơ thẩm tuyên buộc ông T phải chặt bỏ hoặc tháo
12
dỡ, di dời và Công ty không có nghĩa vụ thanh toán lại cho ông T trị giá số tài sản
này là có cơ sở.
[2.7] Về việc buộc ông Nguyễn Văn T phải bồi thường thiệt hại do tự ý
cắt hạ cây muồng đen:
Ông T cho rằng trong hợp đồng không thể hiện số cây muồng trên lô khoán
và Công ty không chứng minh được nguồn gốc số cây muồng này do Công ty đầu
tư trồng và chăm sóc. Ngoài ra, ông T là người trực tiếp chăm sóc, rong tỉa cây
muồng. Tuy nhiên, tại khoản 1 Điều 6 của Hợp đồng khoán gọn vườn cây cà phê
quy định về điều khoản cam kết chung thì “Công ty thống nhất quản lý cây muồng
đen hiện có trên lô cà phê giao khoán, nếu vì lý do quá dày rợp, già cỗi phải cắt tỉa
hoặc khi vườn cây thanh lý thì Công ty sẽ tổ chức kiểm kê, lập thủ tục bán theo
phương thức đấu thầu…”. Mặc khác, theo Biên bản kiểm kê vườn cây cà phê và cây
muồng năm 2019 thì trên đất nhận khoán của ông T còn 31 cây muồng đen. Biên
bản chủ lô tự ý cắt muồng đen trên lô nhận khoán ông T không có mặt, có sự chứng
kiến của đại diện Công ty, đội trưởng và xác nhận của Công an xã H các ngày
15/9/2020, ngày 21/12/2020, ngày 15/01/2021 và ngày 17/01/2021, thì ông T đã tự
ý cắt hạ 22 cây trồng năm 1979. Như vậy, việc ông T tự ý cắt hạ đối với cây muồng
đen trên diện tích đất nhận khoán là vi phạm hợp đồng đã ký kết. Căn cứ vào số
lượng Công ty cung cấp thì có 22 cây muồng đen trồng năm 1979 bị cắt hạ có giá là
85.932.000 đồng.
Theo khoản 1 Điều 6 của Hợp đồng và tại mục 7.2.1.2 của Phương án khoán
gọn vườn cây cà phê quy định: 22 cây muồng đen trồng năm 1979 bị cắt hạ có giá
là 85.932.000 đồng được chia theo tỷ lệ: 70% của Công ty là 60.152.400 đồng, 30%
của hộ nhận khoán (ông T) là 25.779.600 đồng. Như vậy, cần buộc ông Nguyễn Văn
T phải bồi thường cho Công ty 70% giá trị 22 cây muồng đen trồng năm 1979 bị cắt
hạ là 60.152.400 đồng.
Từ những phân tích, nhận định trên, không có cơ sở chấp nhận kháng cáo của
bị đơn ông Nguyễn Văn T.
[3] Về chi phí tố tụng: Do yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn được chấp nhận
nên bị đơn ông Nguyễn Văn T phải chịu số tiền 7.850.000 đồng tiền chi phí xem xét,
thẩm định tại chỗ và định giá tài sản. Nguyên đơn đã nộp tạm ứng nên cần buộc bị
đơn ông Nguyễn Văn T trả lại cho nguyên đơn Công ty cổ phần C số tiền 7.850.000
đồng.
[4] Về án phí:
13
- Ông Nguyễn Văn T là người cao tuổi nên được miễn nộp án phí dân sự sơ
thẩm và án phí dân sự phúc thẩm.
- Nguyên đơn Công ty cổ phần C được nhận lại số tiền 2.931.000 đồng tạm ứng
án phí đã nộp.
Vì các lẽ trên,
QUYẾT ĐỊNH:
Căn cứ khoản 1 Điều 308 Bộ luật Tố tụng dân sự;
- Không chấp nhận kháng cáo của bị đơn ông Nguyễn Văn T;
- Giữ nguyên Bản án sơ thẩm số 43/2024/DS-ST ngày 18/9/2024 của Tòa án
nhân dân huyện Krông Pắc, tỉnh Đắk Lắk.
Tuyên xử:
[1] Chấp nhận một phần yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn Công ty cổ phần C:
[1.1] Buộc ông Nguyễn Văn T phải trả cho Công ty cổ phần C sản lượng cà phê
quả tươi còn nợ của 05 niên vụ (từ niên vụ 2018-2019 đến niên vụ 2022-2023) là
10.236kg cà phê quả tươi.
[1.2] Buộc ông Nguyễn Văn T phải nộp tiền thuê đất phần 49% về Công ty
(truy thu năm 2006 đến năm 2010; 2015 đến 2017) và tiền thuê đất 05 năm (từ năm
2018 đến năm 2022) số tiền là 8.242.736 đồng (tám triệu hai trăm bốn mươi hai
nghìn bảy trăm ba mươi sáu đồng).
[1.3] Buộc ông Nguyễn Văn T phải trả tiền khấu hao kênh mương, hồ đập từ
năm 2018 đến năm 2021 số tiền là 2.171.000 đồng (hai triệu một trăm bảy mươi mốt
nghìn đồng).
[1.4] Buộc ông Nguyễn Văn T phải bồi thường cho Công ty cổ phần C 70% giá
trị 22 cây muồng đen trồng năm 1979 bị cắt hạ là 60.152.400 đồng (Sáu mươi triệu
một trăm năm mươi hai nghìn bốn trăm đồng).
[1.5] Chấm dứt Hợp đồng khoán gọn vườn cây cà phê cho hộ nông trường viên
số 222/2011/HĐ-GK ngày 27/8/2011 giữa Công ty TNHH MTV C và ông Nguyễn
Văn T.
[1.6] Ông Nguyễn Văn T trả lại cho Công ty Cổ phần C diện tích nhận khoán
còn lại sau khi trừ đi diện tích 4.272,9m
2
đất bị thu hồi theo Quyết định số 3558/QĐ-
UBND của Ủy ban nhân dân huyện K ngày 03/8/2022 cụ thể, thửa đất số 31b, tờ bản
đồ số 10, thuộc đội 15/2, địa chỉ thửa đất: Xã H, huyện K, tỉnh Đắk Lắk được chia
làm 02 mảnh có tứ cận:
14
- Mảnh số 1, diện tích 1.088m
2
: Phía Bắc giáp thửa 20+24, tờ bản đồ số 10,
người nhận khoán ông Trần Xuân C; Phía Nam giáp đường tránh đông B; Phía Đông
giáp đường tránh đông B; Phía Tây giáp thửa 30a+31a, tờ bản đồ số 10, người nhận
khoán ông Nguyễn Tiến Đ.
- Mảnh số 2, diện tích 5.494m
2
: Phía Bắc giáp đường tránh đông B; Phía Nam
giáp đường QL26; Phía Đông giáp thửa 30a+31a, tờ bản đồ số 10, người nhận khoán
bà Nguyễn Thị V; Phía Tây giáp thửa 32, tờ bản đồ số 10, người nhận khoán ông
Nguyễn Tiến Đ.
Và tài sản trên đất bao gồm: 640 Cây cà phê vối trồng năm 1979 (trong đó 514
cây trên diện tích 5.496m
2
, 126 cây trên diện tích 1.088m
2
); 03 Cây muồng đen trồng
năm 1979 (trên diện tích 1.088m
2
).
[1.7] Buộc ông Nguyễn Văn T phải tự tháo dỡ, di dời hoặc chặt bỏ các loại cây
trồng và các vật kiến trúc đã trồng và tạo dựng trên đất không đúng theo thỏa thuận
trong hợp đồng đã ký kết, bao gồm: 19 Cây Mắc ca trồng năm 2020; 02 cây Mít
ghép trồng năm 2018; 100 cây Sầu riêng (28 cây trồng năm 2018, 06 cây trồng năm
2019, 31 cây trồng năm 2020, 03 cây trồng năm 2021, 11 cây trồng năm 2022, 21
cây trồng năm 2023); 10 Bụi chuối (32 cây có buồng, 65 cây chưa có buồng); 01
đường ống chôn ngầm phi 90, dài 150m và 01 hàng rào lưới B40, cao 1,6m, dài 81m
nằm trong mốc giới giải phóng mặt bằng (trên diện tích 5.494m
2
) và 33 Cây sầu
riêng (07 cây trồng năm 2018, 05 cây trồng năm 2020, 06 cây trồng năm 2022, 15
cây trồng năm 2023); 02 Cây mít trồng năm 2018; 01 đường ống chôn ngầm phi 76,
dài 45m (trên diện tích 1.088m
2
). Công ty cổ phần C không có nghĩa vụ phải thanh
toán lại số tiền giá trị các loại cây trồng, vật kiến trúc nêu trên cho ông T.
[2] Công ty cổ phần C phải có nghĩa vụ thanh toán giá trị vườn cây cho ông
Nguyễn Văn T số tiền 41.623.445 đồng (bốn mươi mốt triệu sáu trăm hai mươi ba
nghìn bốn trăm bốn mươi lăm đồng).
[3] Đình chỉ xét xử một phần yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn về việc buộc
ông Nguyễn Văn T phải bồi thường cho Công ty cổ phần C 30% giá trị của 22 cây
muồng đen trồng năm 1979 bị cắt hạ.
[4] Về chi phí tố tụng: Bị đơn ông Nguyễn Văn T phải chịu số tiền 7.850.000
đồng (bảy triệu tám trăm năm mươi nghìn đồng) tiền chi phí xem xét, thẩm định tại
chỗ và định giá tài sản. Buộc bị đơn ông Nguyễn Văn T trả lại cho nguyên đơn Công
ty cổ phần C số tiền 7.850.000 đồng nêu trên.
[5] Về án phí:
15
- Nguyên đơn Công ty cổ phần C phải chịu số tiền 2.081.000 đồng (hai triệu
không trăm tám mươi mốt nghìn đồng) án phí dân sự sơ thẩm có giá ngạch, được
khấu trừ vào số tiền 4.712.000 đồng (bốn triệu bảy trăm mười hai nghìn đồng) tạm
ứng án phí đã nộp theo biên lai thu số 0016833 ngày 24/02/2023 tại Chi cục Thi
hành án dân sự huyện K. Trả cho Công ty cổ phần C số tiền 300.000 đồng (ba trăm
nghìn đồng) tiền tạm ứng án phí đã nộp theo biên lai số 0003295 ngày 29/8/2023 tại
Chi cục Thi hành án dân sự huyện K. Như vậy, Công ty cổ phần C được nhận lại
tổng cộng số tiền 2.931.000 đồng (hai triệu chín trăm ba mươi mốt nghìn đồng).
- Bị đơn ông Nguyễn Văn T được miễn nộp án phí dân sự sơ thẩm và án phí
dân sự phúc thẩm.
[6] Các quyết định khác của Bản án sơ thẩm không có kháng cáo, kháng nghị
có hiệu lực pháp luật kể từ ngày hết thời hạn kháng cáo, kháng nghị.
Bản án phúc thẩm có hiệu lực pháp luật kể từ ngày tuyên án.
Kể từ ngày bản án có hiệu lực pháp luật hoặc kể từ ngày có đơn yêu cầu thi
hành án của người được thi hành án (đối với các khoản tiền phải trả cho người được
thi hành án) cho đến khi thi hành án xong, bên phải thi hành án còn phải chịu khoản
tiền lãi của số tiền còn phải thi hành án theo mức lãi suất quy định tại Điều 468 Bộ
luật dân sự năm 2015.
Trường hợp bản án, quyết định được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật Thi
hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự
có quyền thỏa thuận thi hành án, yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc
bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các Điều 6, Điều 7, Điều 7a và Điều 9
Luật Thi hành án dân sự; thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại
Điều 30 Luật Thi hành án dân sự.
Nơi nhận: TM. HỘI ĐỒNG XÉT XỬ PHÚC THẨM
- TAND Cấp cao tại Đà Nẵng; THẨM PHÁN – CHỦ TỌA PHIÊN TÒA
- VKSND CC tại ĐN;
- VKSND tỉnh Đắk Lắk;
- TAND huyện Krông Pắc;
- Chi cục THADS huyện K; (đã ký)
- Các đương sự;
- Công thông tin điện tử Tòa án;
- Lưu hồ sơ vụ án. Y Phi Kbuôr
Tải về
Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để tải file. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!
Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để tải file. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!
Bản án/ Quyết định cùng đối tượng
1
Ban hành: 22/01/2025
Cấp xét xử: Phúc thẩm
2
Ban hành: 14/01/2025
Cấp xét xử: Phúc thẩm
3
Ban hành: 10/01/2025
Cấp xét xử: Phúc thẩm
4
Ban hành: 09/01/2025
Cấp xét xử: Phúc thẩm
5
Ban hành: 08/01/2025
Cấp xét xử: Phúc thẩm
6
Ban hành: 26/12/2024
Cấp xét xử: Phúc thẩm
7
Ban hành: 17/12/2024
Cấp xét xử: Phúc thẩm
8
Ban hành: 13/12/2024
Cấp xét xử: Phúc thẩm
9
Ban hành: 12/12/2024
Cấp xét xử: Phúc thẩm
10
Ban hành: 06/12/2024
Cấp xét xử: Phúc thẩm
11
Ban hành: 29/11/2024
Cấp xét xử: Phúc thẩm
12
Ban hành: 28/11/2024
Cấp xét xử: Phúc thẩm
13
Ban hành: 28/11/2024
Cấp xét xử: Phúc thẩm
14
Ban hành: 18/11/2024
Cấp xét xử: Phúc thẩm
15
Ban hành: 11/11/2024
Cấp xét xử: Phúc thẩm
16
Ban hành: 06/11/2024
Cấp xét xử: Phúc thẩm
17
Ban hành: 31/10/2024
Cấp xét xử: Phúc thẩm
18
Ban hành: 30/10/2024
Cấp xét xử: Phúc thẩm
19
Ban hành: 30/09/2024
Cấp xét xử: Phúc thẩm