Bản án số 137/2024/DS-PT ngày 13/09/2024 của TAND tỉnh Lâm Đồng về tranh chấp hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất

  • Thuộc tính
  • Nội dung
  • VB gốc
  • VB liên quan
  • Lược đồ
  • Đính chính
  • Án lệ
  • BA/QĐ cùng nội dung
  • Tải về
Tải văn bản
Báo lỗi
  • Gửi liên kết tới Email
  • Chia sẻ:
  • Chế độ xem: Sáng | Tối
  • Thay đổi cỡ chữ:
    17

Thuộc tính Bản án 137/2024/DS-PT

Tên Bản án: Bản án số 137/2024/DS-PT ngày 13/09/2024 của TAND tỉnh Lâm Đồng về tranh chấp hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất
Quan hệ pháp luật: Tranh chấp hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất
Cấp xét xử: Phúc thẩm
Tòa án xét xử: TAND tỉnh Lâm Đồng
Số hiệu: 137/2024/DS-PT
Loại văn bản: Bản án
Ngày ban hành: 13/09/2024
Lĩnh vực: Dân sự
Áp dụng án lệ:
Đã biết

Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để xem áp dụng án lệ. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!

Đính chính:
Đã biết

Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để xem đính chính. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!

Thông tin về vụ/việc: Chấp nhận Quyết định kháng nghị phúc thẩm số 19/QĐ-VKS-DS ngày 20 tháng 7 năm 2024 của Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Lâm Đồng.
Tóm tắt Bản án

Nội dung tóm tắt đang được cập nhật, Quý khách vui lòng quay lại sau!

Tải văn bản

TÒA ÁN NHÂN DÂN
TỈNH LÂM ĐỒNG
Bản án số: 137/2024/DS-PT
Ngày: 13-9-2024
V/v: “Tranh chấp hợp đồng chuyển
nhượng quyền sử dụng đất”.
CỘNG HÒA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM
Độc lập – Tự do – Hạnh phúc
NHÂN DANH
NƯỚC CỘNG HÒA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM
TÒA ÁN NHÂN DÂN TỈNH LÂM ĐỒNG
- Thành phn Hội đng xét x phúc thm gm có:
Thẩm phán - Chủ toạ phiên tòa: Ông Huỳnh Châu Thạch
Các Thẩm phán: Bà Lê Thị Vân
Ông Nguyễn Công Hoàn
- Thư phiên toà: Ông Mai Tất Thái Thư a án, Toà án nhân dân
tỉnh Lâm Đồng.
- Đại diện Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Lâm Đồng: Nguyễn Thị Thanh
Hương – Kiểm sát viên tham gia phiên tòa.
Ngày 13 tháng 9 năm 2024 tại trụ sở Toà án nhân dân tỉnh Lâm Đồng; xét
xử phúc thẩm công khai ván thụ số 138/2024/TLPT-DS ngày 06 tháng 8
năm 2024 về tranh chấp: “Hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất”.
Do Bn án Dân s thẩm s 27/2024/DS-ST ngày 26/6/2024 của Tòa án
nhân dân thành phố Đà Lạt, tỉnh Lâm Đồng bị kháng nghị.
Theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 326/2024/QĐ-PT ngày 23 tháng 8
năm 2024 giữa các đương sự:
-Nguyên đơn: Hoàng Thị T, sinh năm: 1972; trú tại tổ F, thôn E,
T, thành phố Đ, tỉnh Lâm Đồng; có mặt.
- Đồng bị đơn:
1. Bà K Long K, sinh năm: 1972; cư trú tại tổ A, thôn F, xã T, thành phố Đ,
tỉnh Lâm Đồng; có mặt.
2. K Long K1, sinh năm: 1926; ttại tổ A, thôn F, T, thành phố
Đ, tỉnh Lâm Đồng; vắng mặt.
- Người quyền lợi, nghĩa vụ liên quan: K Long K2, sinh năm: 1995;
cư trú tại tổ A, thôn F, xã T, thành phố Đ, tỉnh Lâm Đồng; có mặt.
- Người kháng nghị: Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Lâm Đồng.
2
NỘI DUNG VỤ ÁN:
- Theo nội dung đơn khởi kiện ghi ngày 22/8/2022, lời trình bày tại các bản
tự khai trong quá trình tham gia tố tụng tại giai đoạn thẩm của Hoàng
Thị T thì: Do nhu cầu nhận chuyển nhượng quyền sử dụng đất nên ngày
01/12/2017 và mẹ con K1, K lập giấy bán đất. Theo thỏa thuận thì
K1, K chuyển nhượng cho T đất T; đã trả đủ số tiền
2.300.000.00 cho bên nhận chuyển nhượng nhận 02 Giấy chứng nhận
quyền sử dụng đất đứng tên bà K Long K1. Do chính sách của nhà nước đối với
việc nhận chuyển nhượng của người đồng bào nên không làm được hợp đồng
chuyển nhượng. Từ đó đến nay mẹ con K1, K không giao đất cho bà quản
lý.
vậy, bà yêu cầu Tòa án giải quyết hủy giấy bán đất lập ngày 01/12/2017
và yêu cầu mẹ con bà K1, bà K trả lại cho bà số tiền 2.300.000.000đ.
- Theo lời trình bày của K Long K thì: K Hoàng Thị T hàng
xóm, 03 năm về trước bà có vay của bà T nhiều lần, cụ thể:
+ Lần thứ 1: Vay 500.000.000đ, thời hạn vay 01 tháng, lãi suất
50.000.000đ/tháng. T trừ lại 50.000.000đ tiền lãi, chỉ giao cho
450.000.000đ; giấy viết nợ do T giữ, khi vay thì bà nhờ bà K3 viết giấy và bà
ký bên vay.
+ Lần thứ 2, 3: Sau đó 01 tháng bà tiếp tục vay của T 100.000.000đ. Bà
T trừ lại 10.000.000đ tiền lãi, chỉ đưa cho bà 90.000.000đ; lần này cháu bà là K2
viết giấy nợ ký vào bên vay, thời hạn vay 01 tháng. Cùng tháng này
có vay tiếp 50.000.000đ; cũng như những lần trước bà T chỉ đưa cho bà
45.000.000đ, từ lại 5.000.000đ tiền lãi; lần này cũng do cháu K2 viết giấy
nợ và bà ký vào bên vay.
+ Lần thứ 4: Sau đó 01 tháng tiếp tục vay của bà T 50.000.000đ. T
trừ lại 10.000.000đ, đưa cho bà 40.000.000đ. Lần này cháu bà là K2 viết giấy
nợ vào bên vay, thời hạn vay 01 tháng. Cùng tháng này vay
tiếp 50.000.000đ; cũng như những lần trước bà T chỉ đưa cho 40.000.000đ,
trừ lại 10.000.000đ tiền lãi. Lần này cháu bà K2 viết giấy nợ và bà ký vào bên
vay.
+ Lần thứ 5: Sau đó 01 tháng bà tiếp tục vay của T 50.000.000đ, tính lãi
5.000đ/ngày. Vì lãi cao quá nên vài ngày sau bà trả cho bà T gốc 30.000.000đ và
lãi, còn lại 20.000.000đ. Lần này cháu bà là bà K2 viết giấy nợ và bà ký vào bên
vay, thời hạn vay là 01 tháng.
+ Lần thứ 6: Sau đó 01 tháng tiếp tục vay của bà T 60.000.000đ. T
trừ lại 11.000.000đ, đưa cho 49.000.000đ; lần này cháu K2 viết giấy nợ
và bà ký vào bên vay, thời hạn vay là 01 tháng.
3
Tất cả 06 lần vay đều cùng một năm, nhưng bà không nhớ chính xác là năm
nào; các giấy vay tiền đều do bà T giữ. Tổng 06 lần bà vay của bà T
810.000.000đ, sau đó trả 30.000.000đ lần vay trả lãi theo ngày. Tổng số
tiền bà nợ bà T theo giấy viết nhận nợ là 780.000.000đ, tiền lãi T lấy ngay từ
đầu khi đưa tiền cho vay. Thực chất số tiền này vay giúp cho bạn tên
K3 500.000.000đ, số còn lại bà vay cho bà. Sau khi vay 01 năm chuyển
nhượng quyền sử dụng đất và trả cho bà T 300.000.000đ phần của bà. Còn phần
vay giúp thì bà K3 đã đưa cho bà 350.000.000đ cùng năm với bà trả cho bà T và
bà đã trả tiếp cho bà T 350.000.000đ.
Tổng cộng bà đã trả cho bà T 03 lần: 30.000.000đ + 300.000.000đ +
350.000.000đ 680.000.000đ. Khi trả thì vào giấy vay tiền trước đây
T giữ. Hiện bà chỉ còn nợ bà T 130.000.000đ.
Trong quá trình vay tiền bà đưa cho T 02 Giấy chứng nhận quyền sử
dụng đất đứng tên mẹ là K Long K1 để làm tin. Việc T cho rằng
mẹ bà có chuyển nhượng quyền sử dụng đất cho bà T theo giấy bán đất lập ngày
01/12/2017 không đúng. Chữ viết dấu vân tay trong giấy bán đất này
không phải là của mẹ con bà.
Nay T yêu cầu mcon trả lại số tiền 2.300.000.000đ, không đồng
ý. thực chất chỉ vay tiền của T chứ không chuyển nhượng quyền sử
dụng đất và số tiền vay không phải 2.300.000.000đ.
- Theo lời trình bày của K Long K1 thì: Giữa con gái bà là bà K và T
có vay tiền với nhau và có thế chấp 02 Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất đứng
tên bà. Bà không chuyển nhượng đất, không nhận tiền, không ký tên, điểm chỉ gì
vào giấy bán đất. Nay T yêu cầu cùng con gái trả cho T
2.300.000.000đ thì bà không đồng ý.
- Theo lời trình bày của K Long K2 thì: Bà là cháu gọi K dì. K
vay tiền của T nhiều lần. Mỗi lần vay tiền K nhờ viết giấy vay tiền.
biết giữa T, bà K không việc chuyển nhượng quyền sử dụng đất mà
xuất phát từ việc vay tiền. Năm 2019 T có đưa cho mặt sau tờ giấy đọc
cho viết nội dung ntờ giấy T nộp cho Tòa án. lúc đó mặt
K, T đọc cho viết. vào bên bán nhưng thực tế chỉ người làm
chứng. Bà không biết nội dung mặt trước của tờ giấy bán đất.
Tòa án đã tiến hành hòa giải nhưng không thành.
Tại Bản án số 27/2024/DS-ST ngày 26/6/2024; Tòa án nhân dân thành phố
Đà Lạt, tỉnh Lâm Đồng đã xử:
- Chấp nhận một phần yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn.
+ Hủy giấy bán đất lập ngày 01/12/2017 giữa Hoàng Thị T với K
Long K1 và bà K Long K.
4
+ Buộc K Long K trách nhiệm trả cho Hoàng Thị T số tiền
2.300.000.000đ.
Ngoài ra, Bản án còn tuyên về chi phí tố tụng, án phí, quyền kháng cáo
trách nhiệm thi hành án của các đương sự.
Ngày 20/7/2024 Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Lâm Đồng ban
hành Quyết định kháng nghị phúc thẩm số 19/QĐ-VKS-DS đề nghị căn cứ
khoản 3, Điều 308 Bộ luật Tố tụng n sự năm 2015 hủy Bản án thẩm do vi
phạm thtục tố tụng, chưa xác minh thu thập chứng cứ đầy đủ; giao hcho
Tòa án cấp sơ thẩm giải quyết lại theo thủ tục chung.
Tại phiên tòa,
Hoàng Thị T đề nghị giải quyết như Bản án sơ thẩm.
K Long K đề nghị xem xét giải quyết nhằm đảm bảo quyền lợi ích
hợp pháp của bà.
Đại diện Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Lâm Đồng phát biểu về việc tuân
theo pháp luật trong quá trình giải quyết vụ án của Thẩm phán, Hội đồng xét xử
các đương sự tại giai đoạn phúc thẩm cũng như phiên tòa hôm nay: đã chấp
hành đúng quy định của Bộ luật Tố tụng Dân sự năm 2015. Vnội dung: Đề
nghị chấp nhận kháng nghị của Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Lâm
Đồng, căn cứ khoản 3 Điều 308 Bộ luật Tố tụng Dân sự, hủy toàn bộ Bản án
thẩm.
NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN:
[1] Quan hệ tranh chấp giữa các bên đã được Tòa án cấp thẩm xác định
theo đúng quy định của pháp luật; Quyết định kháng nghị số 19/QĐ-VKS-DS
ngày 20 tháng 7 năm 2024 của Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Lâm
Đồng được thực hiện theo đúng quy định tại các Điều 278, 279, 280 Bộ luật Tố
tụng Dân sự năm 2015 nên đủ điều kiện để Hội đồng xét xử xem xét giải quyết
theo thủ tục phúc thẩm.
[2] Xét kháng nghị của Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Lâm
Đồng thì thấy rằng:
[2.1] Theo hồ vụ án thể hiện: T cho rằng vào ngày 01/12/2017 K
Long K1 K Long K’Poh lập Giấy bán đất để chuyển nhượng cho thửa
đất số 36 diện tích 627m
2
thửa số 696 diện tích 163,66m
2
, cùng tờ bản
đồ số 9, tọa lạc tại tổ B, thôn B, T, thành phố Đ, tỉnh Lâm Đồng với giá
2.300.000.000đ, đã trả đủ số tiền 2.300.000.000đ cho mẹ con K1 và K và bên
chuyển nhượng đã giao 02 Giấy chứng nhận quyền sdụng đất cho nhưng
không giao đất nên nay T khởi kiện yêu cầu hủy giấy bán đất này yêu cầu
mẹ con bà K1 và K phải trả lại số tiền đã nhận.
5
K1 K lại cho rằng không việc chuyển nhượng quyền sử dụng đất
như nguyên đơn trình bày, cũng như không nhận số tiền chuyển nhượng quyền
sử dụng đất của T. Việc K xác nhận vào giấy bán đất xuất phát từ việc
trước đó vay ncủa T tổng cộng 06 lần với số tiền 780.000.000đ. Trong
các lần vay nợ này K đứng ra vay giùm cho K3 số tiền 500.000.000đ,
mặt bà K3 viết giấy nợ giùm, các lần còn lại thì do K2 viết giấy nợ giùm.
Sau đó T đã lập giấy bán đất nói K2 viết phía sau để nói bà K điểm
chỉ vào để làm tin, nội dung này được K3 K2 thống nhất với lời trình
bày của bà K.
[2.2] Xét thấy, lời trình bày của các đương sự sự mâu thuẫn; tuy
nhiên quá trình giải quyết vụ án Tòa án cấp thẩm không đưa K3 vào tham
gia tố tụng với tư cách là người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan để tiến hành đối
chất làm rõ các nội dung mà các đương sự trình bày là vi phạm thủ tục tố tụng.
Ngoài ra, qua xem xét nội dung của “Giấy bán đất” tmặt trước đánh
máy chữ viết thêm của T, phần phía sau chữ viết của K2. Quá trình
giải quyết vụ án T cho rằng giấy đánh máy y do K đưa cho viết
thêm vào; K lại trình bày do T đánh máy viết thêm vào. Phần nội
dung phía sau của tờ giấy bán đất này chữ viết của bà K2 thì bà K2 cũng trình
bày do T đưa cho K2 viết; khi T đọc cho K2 ghi nội dung họ tên
của bà K và bà K1 và phần nội dung “Tôi đã đọc cho cả nhà nghe bản hợp đồng
mua bán đất toàn bộ nội dung trên là đúng sự thật…”, sau đó K điểm chỉ
vào.
Đây những nội dung mâu thuẫn mà các đương sự trình bày trong quá
trình giải quyết vụ án nhưng Tòa án cấp sơ thẩm không làm khi T lập giấy
bán đất này cả mặt trước, mặt sau đều cùng một thời điểm hay khác thời điểm và
khi T đưa cho K2 viết nội dung của mặt sau thì mặt phía trước nội dung
của giấy bán đất đã có chưa?
[2.3] Bên cạnh đó, tại Kết luận giám định ngày 28/7/2023 của Phòng K7 -
Công an tỉnh L thì không đủ sở để kết luận chữ ký, chữ viết dấu vân tay
màu đỏ có phải chữ ký, chữ viết hay dấu vân tay của K1, K hay không?
Tại Kết luận giám định số 7250/1/KL-KTHS ngày 19/2/2024 của Phân viện
khoa học hình sự Bộ C tại Thành phố Hồ Chí Minh đã kết luận chữ K L
K Long K’Poh dưới mục bên bán trong giấy bán đất do K viết ra. Trên
thực tế, nhà, quyền sử dụng đất hiện nay bà K1 vẫn đang quản sdụng, K
chỉ đưa cho bà T giữ 02 Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất đlàm tin. Như
vậy, lời trình bày của K K1, cũng như K2 K3 ngày 04/6/2024
về việc K vay tiền của T thì cần phải xác minh làm rõ để có căn cứ giải
quyết vụ án, đảm bảo quyền và lợi ích hợp pháp của các bên đương sự.
6
[2.4] n nữa, T cho rằng đã trả đ số tiền chuyển nhượng đất
2.300.000.00cho mẹ con K1 K; tuy nhiên T không cung cấp được
các căn cứ để chứng minh cho việc giao tiền, mà chỉ căn cứ vào nội dung được
ghi trong hợp đồng là “Tôi đã nhận đủ số tiền trên và giao đất cho ông bà”, đây
phần chữ đã đánh máy sẵn, không phải chữ viết của bà K bản thân K
người không biết chữ trong quá trình Tòa án cấp thẩm làm việc thì bà K
chỉ điểm chỉ vào các biên bản làm việc của Tòa án và mặt sau của giấy bán đất
do K2 viết giùm nên chưa đủ căn cứ để xác định việc giao số tiền
2.300.000.00nói trên của T. Việc Tòa án cấp thẩm chỉ căn cứ vào giấy
bán đất để giải quyết ván chưa đảm bảo quyền và lợi ích hợp pháp của các
đương sự.
[2.5] Ngoài ra, quá trình giải quyết vụ án; các đương sự đều thừa nhận
nguyên đơn đang giữ 02 Giấy chứng nhận quyền sdụng đất; cấp thẩm hủy
hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất giữa các bên nhưng lại không giải
quyết liên quan đến 02 Giấy chứng nhận vừa nêu là chưa triệt để.
[2.6] Mặt khác, sau khi ban hành Bản án thẩm đến ngày 08/7/2024, Tòa
án cấp thẩm đã ban hành Quyết định sữa chữa, bổ sung Bản án thẩm
nội dung: “Không chấp nhận yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn bà Hoàng Thị T
đối với yêu cầu buộc Klong K5 cùng K6 K’Poh trách nhiệm trả nợ
2.300.000.000đ” không đúng với quy định tại Điều 268 Bộ luật Tố tụng Dân
sự 2015, vì đây không phải nội dung sửa, chữa bổ sung Bản án do lỗi ràng về
chính tả hay nhầm lẫn về số liệu; ngoài ra Bản án thẩm tuyên K phải chịu
lãi suất chậm trả nhưng biên bản nghị án cũng không thể hiện các nội dung
này.
[3] Từ những phân tích trên, Tòa án cấp thẩm đã vi phạm thủ tục tố
tụng; đưa thiếu người tham gia tố tụng, không làm những vấn đề vừa nêu; cấp
phúc thẩm không thể khắc phục được nên cần chấp nhận Quyết định kháng nghị
phúc thẩm số 19/QĐ-VKS-DS ngày 20 tháng 7 năm 2024 của Viện trưởng Viện
kiểm sát nhân dân tỉnh Lâm Đồng đhủy toàn bộ Bản án thẩm, giao hồ
cho Tòa án cấp sơ thẩm giải quyết lại theo thủ tục chung.
[4] Về chi phí tố tụng: Sẽ được Tòa án cấp thẩm xem xét khi giải quyết
lại vụ án.
[5] Về án phí: Nguyên đơn nộp tạm ứng án phí Dân sự thẩm hai lần;
tổng cộng là 39.300.000đ (BL 03a và 84); tuy nhiên phần quyết định của Bản án
thẩm chỉ tuyên trcho nguyên đơn 39.000.000đ tạm ứng án phí Dân sự
thẩm chưa đầy đủ. Tuy nhiên do hủy án nên phần tạm ứng án phí Dân sự
thẩm vừa nêu sẽ được Tòa án cấp sơ thẩm xem xét khi giải quyết lại vụ án.
Vì các lẽ trên,
7
QUYẾT ĐỊNH:
- Căn cứ khoản 3 Điều 308 Bộ luật Tố tụng Dân sự năm 2015;
- Căn cứ khoản 3 Điều 29 Nghị quyết s 326/2016/UBTVQH14 ngày
30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm,
thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án.
Chấp nhận Quyết định kháng nghị phúc thẩm số 19/QĐ-VKS-DS ngày 20
tháng 7 năm 2024 của Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Lâm Đồng.
Tuyên xử:
1. Hủy toàn bộ Bn án Dân s thẩm s 27/2024/DS-ST ngày 26/6/2024
của Tòa án nhân dân thành phố Đà Lạt, tỉnh Lâm Đồng về việc “Tranh chấp
hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất” giữa Hoàng Thị T với K
Long K, bà K Long K1; Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan bà K Long K2.
Giao hồ vụ án cho Tòa án nhân dân thành phố Đà Lạt, tỉnh Lâm Đồng
giải quyết lại vụ án theo thủ tục chung.
2. Về án phí: Sẽ được Tòa án cấp thẩm xem xét khi giải quyết lại vụ án
theo thủ tục chung.
Bản án phúc thẩm có hiệu lực pháp luật kể từ ngày tuyên án./.
Nơi nhận:
- VKSND tỉnh Lâm Đồng (01);
- Phòng KT-NV & THA (01);
- TAND thành phố Đà Lạt (01);
- Chi cục THADS thành phố Đà Lạt
(01);
- Các đương sự (04);
- Lưu: bộ phận lưu trữ, hồ sơ vụ án (03).
TM. HỘI ĐỒNG XÉT XỬ PHÚC THẨM
THẨM PHÁN – CHỦ TỌA PHIÊN TÒA
Huỳnh Châu Thạch
Tải về
Bản án số 137/2024/DS-PT Bản án số 137/2024/DS-PT

Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để tải file. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!

Bản án số 137/2024/DS-PT Bản án số 137/2024/DS-PT

Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để tải file. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!

Bản án/ Quyết định cùng đối tượng

Bản án cùng lĩnh vực

Bản án mới nhất