Bản án số 123/2025/DS-PT ngày 22/09/2025 của TAND TP. Hải Phòng về tranh chấp quyền sử dụng đất
- Thuộc tính
- Nội dung
- VB gốc
- VB liên quan
- Lược đồ
- Đính chính
- Án lệ
- BA/QĐ cùng nội dung
- Tải về
Tải văn bản
-
Bản án số 123/2025/DS-PT
Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để tải file. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!
Báo lỗi
Thuộc tính Bản án 123/2025/DS-PT
| Tên Bản án: | Bản án số 123/2025/DS-PT ngày 22/09/2025 của TAND TP. Hải Phòng về tranh chấp quyền sử dụng đất |
|---|---|
| Quan hệ pháp luật: | Tranh chấp quyền sử dụng đất |
| Cấp xét xử: | Phúc thẩm |
| Tòa án xét xử: | TAND TP. Hải Phòng |
| Số hiệu: | 123/2025/DS-PT |
| Loại văn bản: | Bản án |
| Ngày ban hành: | 22/09/2025 |
| Lĩnh vực: | Dân sự |
| Áp dụng án lệ: |
Đã biết
Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để xem áp dụng án lệ. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây! |
| Đính chính: |
Đã biết
Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để xem đính chính. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây! |
| Thông tin về vụ/việc: | Anh Nguyễn Đình M khởi kiện ông Nguyễn Quang Ph tranh chấp quyền sử dụng lối đi |
Tóm tắt Bản án
Nội dung tóm tắt đang được cập nhật, Quý khách vui lòng quay lại sau!
Tải văn bản

TOÀ ÁN NHÂN DÂN
THÀNH PHỐ HẢI PHÒNG
Bản án số: 123/2025/DS-PT
Ngày 18-9-2025
V/v tranh chấp quyền sử dụng
lối đi chung
CỘNG HOÀ XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM
Độc lập - Tự do - Hạnh phúc
NHÂN DANH
NƯỚC CỘNG HOÀ XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM
TOÀ ÁN NHÂN DÂN THÀNH PHỐ HẢI PHÒNG
- Thành phần Hội đồng xét xử phúc thẩm gồm có:
Thẩm phán- Chủ toạ phiên toà: Ông Trần Hữu Hiệu.
Các thẩm phán: Bà Ngô Thị Thùy Linh, bà Đoàn Thị Hương Nhu
- Thư ký phiên tòa: Bà Nguyễn Minh Ngọc - Thư ký Toà án nhân dân
thành phố Hải Phòng.
- Đại diện Viện kiểm sát nhân dân thành phố Hải Phòng tham gia phiên
toà: Ông Nguyễn Văn Tưởng - Kiểm sát viên.
Ngày 18 tháng 9 năm 2025, tại trụ sở Toà án nhân dân thành phố Hải Phòng
xét xử phúc thẩm công khai vụ án thụ lý số 35/2025/TLPT-DS ngày 21/5/2025 về
việc "Tranh chấp quyền sử dụng lối đi chung"; do Bản án dân sự sơ thẩm số
08/2025/DS-ST ngày 11 tháng 4 năm 2025 của Tòa án nhân dân thành phố Chí
Linh, tỉnh Hải Dương (nay là Tòa án nhân dân khu vực 9 - Hải Phòng) bị kháng
cáo; theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử phúc thẩm số 122/2025/QĐ-PT ngày 21
tháng 7 năm 2025 và các Quyết định hoãn phiên tòa, giữa các đương sự:
- Nguyên đơn: Anh Nguyễn Đình Mạnh, sinh năm 1982; số CCCD:
030082009696; nơi đăng ký thường trú: KDC Lôi Động, phường Cộng Hoà, thành
phố Chí Linh, tỉnh Hải Dương (nay là phường Trần Hưng Đạo, thành phố Hải
Phòng); địa chỉ liên hệ: Trường THPT Hoà Bình, xã Hoà Bình, huyện Chi Lăng,
tỉnh Lạng Sơn (nay là xã Vạn Ninh, tỉnh Lạng Sơn); có đơn đề nghị vắng mặt.
Người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của nguyên đơn: Luật sư Trần
Công Thịnh - Văn phòng luật sư Vạn An; địa chỉ: Tầng 2, số nhà 03, Nguyễn
Khuyến 1, phường Xương Giang, thành phố Bắc Giang, tỉnh Bắc Giang (nay là
phường Bắc Giang, tỉnh Bắc Ninh); có mặt.
- Bị đơn:
1. Ông Nguyễn Quang Phu, sinh năm 1959; địa chỉ: KDC Bích Động - Tân
Tiến, phường Cộng Hoà, thành phố Chí Linh, tỉnh Hải Dương (nay là phường
Trần Hưng Đạo, thành phố Hải Phòng); vắng mặt.
2
2. Bà Hoàng Thị Thụy, sinh năm 1971; số CCCD: 030171003936; địa chỉ:
KDC Lôi Động, phường Cộng Hoà, thành phố Chí Linh, tỉnh Hải Dương (nay là
phường Trần Hưng Đạo, thành phố Hải Phòng); vắng mặt.
- Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan:
1. Chị Nguyễn Thị Lan Hương, sinh năm 1974; số CCCD: 030174018085;
địa chỉ: KDC Lôi Động, phường Cộng Hoà, thành phố Chí Linh, tỉnh Hải Dương
(nay là phường Trần Hưng Đạo, thành phố Hải Phòng); vắng mặt.
2. Anh Nguyễn Đình Dũng, sinh năm 1975; số CCCD: 030075003695; địa
chỉ: KDC Lôi Động, phường Cộng Hoà, thành phố Chí Linh, tỉnh Hải Dương (nay
là phường Trần Hưng Đạo, thành phố Hải Phòng); vắng mặt.
3. Chị Nguyễn Thị Minh, sinh năm 1978; số CCCD: 030178003972; địa
chỉ: Thôn An Điền Xuân, xã Cộng Hoà, huyện Nam Sách, tỉnh Hải Dương (nay
là xã An Phú, thành phố Hải Phòng);
Chị Hương, anh Dũng, chị Minh ủy quyền cho anh Nguyễn Đình Mạnh
tham gia tố tụng.
4. Bà Nguyễn Thị Mai, sinh năm 1965; địa chỉ: KDC Bích Động - Tân Tiến,
phường Cộng Hoà, thành phố Chí Linh, tỉnh Hải Dương (nay là phường Trần
Hưng Đạo, thành phố Hải Phòng); bà Mai uỷ quyền cho ông Nguyễn Quang Phu
tham gia tố tụng; vắng mặt.
5. Ông Hoàng Văn Tuất, sinh năm 1964, bà Nguyễn Thị Mơ, sinh năm
1966; địa chỉ: KDC Lôi Động, phường Cộng Hoà, thành phố Chí Linh, tỉnh Hải
Dương (nay là phường Trần Hưng Đạo, thành phố Hải Phòng); bà Mơ ủy quyền
cho ông Tuất tham gia tố tụng; vắng mặt
6. UBND phường Cộng Hoà, thành phố Chí Linh, tỉnh Hải Dương;
Người kế thừa quyền và nghĩa vụ của UBND phường Cộng Hòa: Chủ tịch
UBND phường Trần Hưng Đạo, thành phố Hải Phòng; có đề nghị vắng mặt.
7. Chị Nguyễn Thị Phương, sinh năm 1990; địa chỉ: Đội 13, KDC Vĩnh
Long, phường Văn Đức, thành phố Chí Linh, tỉnh Hải Dương (nay là phường Trần
Nhân Tông, thành phố Hải Phòng); vắng mặt.
8. Anh Nguyễn Thành Đông, sinh năm 1994; địa chỉ: KDC Lôi Động,
phường Cộng Hoà, thành phố Chí Linh, tỉnh Hải Dương (nay là phường Trần
Hưng Đạo, thành phố Hải Phòng; vắng mặt.
Chị Phương và anh Đông ủy quyền cho bà Hoàng Thị Thụy tham gia tố
tụng.
- Người kháng cáo: Nguyên đơn Nguyễn Đình Mạnh
NỘI DUNG VỤ ÁN:
1. Nguyên đơn Nguyễn Đình Mạnh, đồng thời là người đại diện theo uỷ
quyền của những người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan gồm chị Hương, anh
Dũng, chị Minh trình bày:
3
Bố mẹ anh Mạnh là ông Nguyễn Đình Chiếm, bà Nguyễn Thị Dạc là chủ
sử dụng thửa đất số 82, tờ bản đồ số 19, diện tích 382,0m
2
tại khu dân cư Lôi
Động, phường Cộng Hòa, thành phố Chí Linh, tỉnh Hải Dương. Nguồn gốc thửa
đất là do ông Chiếm, bà Dạc nhận chuyển nhượng của ông Nguyễn Quang Phụ
vào tháng 6/1992 (ông Phụ là em trai ruột của ông Nguyễn Quang Phu). Tại thời
điểm nhận chuyển nhượng là thửa đất số 82, tờ bản đồ số 19, diện tích 710m
2
. Từ
2007 đến năm 2009, ông Chiếm, bà Dạc đã tách thửa 03 (ba) lần: Lần thứ nhất:
Tách cho con gái Nguyễn Thị Lan Hương 108m
2
; Lần thứ hai: Bán cho ông Trần
Đăng Năm 100 m
2
; Lần thứ ba: Bán cho ông Trần Đăng Năm 78m
2
. Thực tế khi
nhận chuyển nhượng đất của ông Phụ, ông Chiếm, bà Dạc không làm thủ tục sang
tên ngay mà quyền sử dụng đất vẫn giữ nguyên giấy chứng nhận mang tên ông
Phụ. Đến năm 2009, ông Chiếm, bà Dạc mới làm thủ tục sang tên đổi giấy chứng
nhận thành thửa đất số 82, tờ bản đồ số 19, diện tích 382,0m
2
và được UBND
huyện Chí Linh cấp GCNQSDĐ số: AM 838751 ngày 09/12/2009 tên Nguyễn
Đình Chiếm. Tại thời điểm ông Chiếm, bà Dạc nhận chuyển nhượng đất của ông
Phụ, thửa đất có 02 (hai) lối đi gồm:
- Lối đi thứ nhất: Đi nhờ qua lối đi riêng của gia đình ông Ngoan (đây là
lối đi riêng do gia đình ông Ngoan tự bỏ đất ra làm);
- Lối thứ hai: Đi qua giáp ranh nhà ông Nguyễn Quang Phu và ông Tuất,
bà Mơ. Đây là lối đi chung đang tranh chấp, sau này ông Tuất bán một phần thửa
đất có giáp ranh với lối đi đó cho gia đình bà Hoàng Thị Thụy. Khoảng từ năm
1993 đến năm 1997 gia đình anh Mạnh vẫn sử dụng lối đi này. Sau năm 1997 do
lối đi này có nhiều người chăn trâu đi qua ảnh hưởng đến sản xuất, sinh hoạt của
gia đình nên gia đình anh Mạnh thường đi nhờ qua lối đi thứ nhất của gia đình
ông Ngoan. Đến khi nhà ông Ngoan xây dựng lại nhà, có xây lại và mở rộng lối
đi và không cho gia đình anh Mạnh đi qua lối nhà ông Ngoan nữa. Lúc đó ông
Chiếm có làm đơn ra chính quyền xã xin giải quyết về lối đi nhưng không được
giải quyết (có đơn vẫn còn lưu giữ).
Sau khi ông Chiếm, bà Dạc chết, anh Mạnh và anh chị em trong nhà có ý
định bán thửa đất trên thì mới biết lối đi chung ở lối đi thứ hai giáp nhà ông Phu
bà Thụy (rộng 3,0m và dài 38m) đã bị hai gia đình trên lấn chiếm. Ông Phu, bà
Thụy hiện nay đã xây dựng công trình trên phần đất này. Lối đi chung này đã
được ghi nhận trên trích lục bản đồ số 19 ngày 06/3/1991; GCNQSDĐ cấp cho
ông Nguyễn Quang Phụ và cho ông Nguyễn Đình Chiếm vào năm 2009 theo
GCNQSDĐ số: AM 838751 do Uỷ ban nhân dân huyện Chí Linh (nay là thành
phố Chí Linh), tỉnh Hải Dương cấp ngày 09/12/2009.
Anh Mạnh xác định hàng thừa kế thứ nhất của ông Chiếm, bà Dạc chỉ có
bốn người con gồm: Nguyễn Thị Lan Hương (sinh năm 1974), Nguyễn Đình Dũng
(sinh năm 1975), Nguyễn Thị Minh (sinh năm 1978) và Nguyễn Đình Mạnh (sinh
1982). Gia đình anh Mạnh chưa làm thủ tục phân chia thừa kế. Khi phát hiện hành
vi lấn chiếm lối đi chung của gia đình ông Nguyễn Quang Phu và bà Hoàng Thị
Thụy, gia đình anh Mạnh đã làm đơn đề nghị hòa giải và Uỷ ban nhân dân phường
4
Cộng Hòa đã tiến hành hòa giải 02 lần vào ngày 24/11/2022 và ngày 06/4/2023
nhưng không thành.
Sau khi nhận chuyển nhượng đất của ông Phụ, gia đình anh Mạnh đã đến
đất này ở. Khi đó có gia đình ông Tuất và ông Phu là các hộ giáp ranh. Giữa các
hộ gia đình ngăn cách với nhau bằng rặng cúc tần, ngăn cách lối đi cũng bằng
rặng cúc tần. Khoảng năm 1997, giữa gia đình anh Mạnh và gia đình ông Tuất đã
chặt rặng cúc tần và cùng nhau xây tường bao ngăn cách và xác định ranh giới
như ranh giới hiện tại. Giữa thửa đất số 82 với thửa đất ông Phụ đến nay không
còn rặng cúc tần, không có tường bao ngăn cách, giữa hai thửa đất là khoảng đất
trống. Tại buổi xem xét thẩm định tại chỗ, anh Mạnh và ông Phu đều xác định
ranh giới giữa hai thửa đất là đoạn thẳng nối các điểm A8 A25, trong đó điểm A8
là mốc bờ tường giữa nhà ông Ngoan, ông Phu và gia đình anh Mạnh, còn điểm
A25 là điểm mốc tường bằng vôi vẫn còn. Điểm A26 là do anh Mạnh tự xác định,
vì anh Mạnh cho rằng đoạn A26A24 dài 3m là lối đi vào thửa đất nhà anh Mạnh.
Đến nay, không còn mốc cũ nào thể hiện lối đi là 3m. Căn cứ vào GCNQSDĐ đã
cấp cho ông Chiếm năm 2009 thể hiện lối đi vào thửa đất số 82 là 3m, còn trước
đó GCNQSDĐ năm 2004 và 2008 (ghi tên ông Phụ) thể hiện lối đi 3m, nhưng
đều không thể hiện kích thước của lối đi là bao nhiêu. Còn GCNQSDĐ năm 2002
ghi tên ông Phụ có lối đi nhưng không thể hiện kích thước của lối đi. Căn cứ vào
trích lục bản đồ năm 1993 thể hiện giữa thửa đất của ông Phu, bà Thụy có lối đi
vào thửa đất nhà anh, không ghi kích thước chính xác của lối đi. Đến nay, ngoài
căn cứ vào GCNQSDĐ đã cấp cho bố anh ghi lối đi là 3m và giấy chứng nhận đã
cấp cho ông Phụ thì không có tài liệu nào khác chứng minh lối đi có chiều rộng
là 3m. Sau khi gia đình anh ra ở trên thửa đất số 82, thì khoảng 01 năm sau gia
đình bà Thụy, ông Linh ra đó ở. Quá trình bà Thụy, ông Linh sử dụng thửa đất
đến trước khi gia đình anh không đi lối đi này thì gia đình bà Thụy vẫn sử dụng
trong rặng cúc tần. Sau khi gia đình anh không đi lối đi này thì ông Phu rào lối đi
lại, nên gia đình bà Thụy sử dụng như thế nào thì anh không biết. Chỉ đến năm
2021, anh định bán thửa đất số 82 thì anh mới biết lối đi trên bản đồ 2008 không
còn, và khi đo đạc lại mới biết gia đình ông Phu, bà Thụy lấn vào lối đi để đi vào
thửa đất số 82. Anh có đơn đề nghị hoà giải tại UBND phường Cộng Hoà, thì
UBND phường Cộng Hoà có tổ chức hoà giải, mời bà Thụy lên làm việc thì có
lần bà Thụy lên làm việc, có lần bà Thụy không lên làm việc, có mời ông Tuất,
ông Phu ra làm việc thì ông Phu, ông Tuất đều có mặt. Quan điểm của ông Tuất,
bà Thụy xác định GCNQSDĐ là đúng, còn ông Phu thừa nhận có lối đi, nhưng
không trả, vì ông Phu cho rằng nguồn gốc lối đi là do ông Phu để một phần đất
của ông Phu ra làm đường để cho em trai là ông Phụ làm lối đi, sau đó ông Phụ
bán đất cho ông Chiếm thì ông Chiếm chỉ sử dụng một thời gian xong là không
sử dụng lối đi nữa nên ông Phu tự ý sử dụng phần đất này. Cả ông Tuất, bà Thụy
đều không trình bày nội dung nào liên quan có lối đi khi hoà giải tại UBND
phường Cộng Hoà. Còn ông Phu trình bày có lối đi, nhưng không xác định lối đi
dài rộng như thế nào.
Anh Mạnh đề nghị Toà án giải quyết các nội dung sau:
5
Buộc ông Nguyễn Quang Phu và bà Hoàng Thị Thụy trả lại phần lối đi
chung đã lấn chiếm (dài 38m, rộng 3,0m đã được đánh dấu trên GCNQSDĐ và
các tài liệu có liên quan) tiếp giáp với các thửa đất số: 82, 61, 62 tờ bản đồ số 19
ngày 06/3/1991 tại địa chỉ: Khu dân cư Lôi Động, phường Cộng Hoà, thành phố
Chí Linh, tỉnh Hải Dương
Buộc ông Nguyễn Quang Phu phá dỡ phần tường rào và bà Hoàng Thị Thụy
tháo dỡ phần nhà ở xây dựng trái phép trên lối đi chung đã lấn chiếm.
2. Bị đơn Nguyễn Quang Phu đồng thời là người đại diện theo uỷ quyền
của người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan Nguyễn Thị Mai trình bày:
Năm 1993, ông Phu được cấp GCNQSDĐ đối với thửa đất số 61, tờ bản đồ
số 19 tại Cộng Hoà, Chí Linh, Hải Dương. Nguồn gốc thửa đất này, ông nhận
chuyển nhượng lại từ năm 1983 và ở trên thửa đất đó cho đến nay. Đến năm 2002,
ông Phu được cấp lại GCNQSDĐ thửa đất số 61, tờ bản đồ số 19, diện tích 710m
2
,
vào sổ cấp GCNQSDĐ số 2159 QSDĐ/CL-CH, do UBND huyện Chí Linh cấp
ngày 11/3/2002, trên GCNQSDĐ của ông không thể hiện có lối đi nào.
Đến năm 2019, ông Phu đã chuyển nhượng cho vợ chồng anh Mưu, chị Tần
một phần đất, nên được cấp GCNQSDĐ thửa đất số 432, tờ bản đồ số 19, diện
tích 444m
2
, vào sổ cấp GCNQSDĐ số CH011269, do ƯBND thị xã Chí Linh cấp
ngày 25/01/2019, trên GCNQSDĐ của ông Phu thể hiện có đường rộng 13.5m,
ngoài ra không thể hiện có lối đi nào khác.
Do hoàn cảnh gia đình khó khăn, năm 2001 ông có vay tiền của ngân hàng
nông nghiệp Chí Linh số tiền là 5.000.000đ có thế chấp thửa đất của vợ chồng
(GCNQSDĐ được cấp năm 1993). Đến năm 2003, vợ chồng ông trả được số nợ
này, trong năm 2003, vợ chồng ông tiếp tục vay tiền và thế chấp thửa đất của vợ
chồng (GCNQSDĐ được cấp năm 2002). Trong văn bản ý kiến ông đã trình bày
về việc không biết lý do tại sao trong thời gian ông thế chấp GCNQSDĐ được
cấp năm 1993 tại Ngân hàng Nông nghiệp và phát triển nông thôn Chí Linh, nhưng
khi tất toán khoản vay thì Ngân hàng đưa cho ông là GCNQSDĐ được cấp năm
2002, việc thay đổi GCNQSDĐ năm 1993 sang GCNQSDĐ được cấp năm 2002
thì ông không biết. Sau đó, ông có hỏi địa chính thì được biết là địa chính đã làm
lại GCNQSD đất của vợ chồng ông và tự đổi với ngân hàng, còn GCNQSDĐ
được cấp năm 1993 hiện do Phòng Tài nguyên môi trường Chí Linh lưu giữ.
Đối với GCNQSDĐ của ông Nguyền Đình Chiếm có thể hiện có 01 lối đi
ở phía Bắc của thửa đất ông Chiếm, nhưng thực tế từ trước đến nay chưa bao giờ
có lối đi này, còn lý do tại sao trong GCNQSDĐ của ông Chiếm có lối đi thì ông
không biết.
Nguồn gốc đất của ông Chiếm trước đây là của em trai ông Phu là Nguyễn
Công Phụ, sinh năm 1961 (đã chết) bán cho ông Chiếm. Ông Phụ và ông Phu đến
ở đất này cùng thời điểm. Khi đó, ông Phụ đi lối ở phía Nam thửa đất, ngoài ra
ông Phụ có đi nhờ qua nhà ông Phu để ra ngoài đường chính ở phía Bắc thửa đất
nhà ông. Hiện nay, anh Mạnh vẫn đi lối đi ở phía Nam của thửa đất nhà anh Mạnh,
6
nên việc anh Mạnh yêu cầu lối đi ở phía Bắc như trong GCNQSDĐ của ông Chiếm
thì ông Phu không đồng ý.
Nguồn gốc đất của bà Thụy là do bà Thụy mua một phần đất của ông Hoàng
Văn Tuất (là anh trai bà Thụy). Quá trình sử dụng đất của nhà ông, ông Tuất, ông
Chiếm không xảy ra tranh chấp gì. Trước đây, ranh giới giữa các thửa đất là cây
găng, sau khi đo đất để cấp bìa năm 1993 thì các hộ giáp ranh nhà ông đã nhổ cây
găng, xây tường. Kể từ khi UBND phường Cộng Hoà tiến hành hoà giải cho đến
nay, hiện trạng sử dụng của gia đình ông và gia đình bà Thụy vẫn giữ nguyên,
không thay đổi.
Theo GCNQSDĐ của ông cấp năm 2002, và theo kết quả đo đạc khi UBND
phường Cộng Hoà tiến hành hoà giải thì gia đình ông có sử dụng một phần đất
nằm ngoài giấy chứng nhận có kích thước thể hiện: Cạnh phía Đông Bắc giáp
đường là 2,1m, kéo dài xuống phía dưới khoảng 23m, phía Tây Nam là 70cm
(đoạn nhỏ nhất cách nhà bà Thụy), và phần dài cạnh Đông Bắc, Tây Nam là
7,00m, rộng 3,90m. Đối với phần diện tích ông sử dụng ngoài GCNQSDĐ cấp
năm 2002 thì ông chưa có ý kiến, vì GCNQSDĐ năm 1993 cấp cho ông thì cạnh
phía Đông Bắc là 17m, tiếp giáp với thửa đất của ông Tuất, sau đó không biết lý
do tại sao khi cấp GCNQSDĐ nhà ông năm 2002 thì chỉ còn lại là 14,9m.
Tại phiên tòa sơ thẩm, ông Phu xác định có lối đi chung vào thửa đất nhà
ông Chiếm nhưng về chiều rộng của lối đi chung như anh Mạnh yêu cầu là 3m thì
ông không đồng ý. Ông Phu có sử dụng vào lối đi chung có diện tích là 54m
2
, có
cạnh mặt đường là 1.9m, kéo dài xuống phía dưới, chỗ nhỏ nhất là 70cm, cạnh
giáp với thửa đất của ông Chiếm là 2.45m. Ông Phu đồng ý trả lại Nhà nước phần
đất này và tháo dỡ các công trình, cây cối trên đất.
3. Bị đơn bà Hoàng Thị Thụy đồng thời là người đại diện theo ủy quyền
của người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan là chị Nguyễn Thị Phương và anh
Nguyễn Thành Đông trình bày:
Bà Thụy có chồng là ông Nguyễn Văn Linh, sinh năm 1969, đã chết năm
2021. Vợ chồng bà Thụy sinh được 02 người con là Nguyễn Thị Phương và
Nguyễn Thành Đông. Năm 1992, vợ chồng bà Thụy mua đất của ông Hoàng Văn
Tuất (là anh ruột của bà) và bà Nguyễn Thị Mơ, là thửa đất số 120, tờ bản đồ số
19, diện tích 195m
2
, đất ở lâu dài, đã được cấp GCNQSDĐ mang tên ông Nguyễn
Văn Linh. Do chồng bà đã chết, nên gia đình bà đã làm lại GCNQSDĐ đứng tên
bà, hiện nay bà chưa nhận được GCNQSDĐ mới.
Sau khi bà mua đất của anh trai thì vợ chồng bà đã ra ở trên thửa đất, xây
nhà mái bằng cao 5m, rộng nhà 4,5m, giáp với phần đất nhà ông Tuất để lại làm
sân phía bên nhà ông Phu, phía sau có công trình gồm nhà bếp, nhà chăn nuôi.
Đến năm 2021, vợ chồng bà thống nhất xây nhà mới, phá nhà cũ, xây nhà mới
giáp với phần đất nhà ông Phu, xây nhà mới 02 tầng, rộng 5m, dài 15m, phía sau
có nhà vệ sinh, chuồng chăn nuôi cũ (hiện nay để làm bếp phụ), còn bếp cũ đã
tháo dỡ. Nhà bà sử dụng hết đất. Năm 2021, khi bà xây dựng nhà thì đã xin cấp
phép xây dựng và khi xây móng nhà đã được cán bộ đến kiểm tra công trình đảm
bảo, phù hợp với giấy phép xây dựng. Nhà bà sử dụng đất từ lúc mua cho đến nay,
7
các hộ giáp ranh không xảy ra tranh chấp. Việc mua bán đất do chồng bà đứng ra
làm tất cả, nên bà không biết khi giao mốc giới giữa ông Tuất và chồng bà như
thế nào. Ông Tuất có nói với bà là cạnh phía Tây của thửa đất từ trước đến nay
không có lối đi nào cả. Bà xác định từ khi mua đất của ông Tuất đến nay, vợ chồng
bà đã sử dụng đúng mốc giới đất đã mua. Anh Mạnh khởi kiện về việc bên cạnh
nhà bà ở phía Tây thửa đất của nhà bà có 01 lối đi chung thì bà không đồng ý, vì
từ khi bà mua thửa đất cho đến nay không có lối đi nào ở đó, cả ông Tuất là người
bán đất cho bà cũng nói là không có lối đi ở vị trí đó.
Trong trường hợp Toà án buộc gia đình bà phải tháo dỡ công trình, trả lại
đất cho Nhà nước thì gia đình bà, gia đình ông Tuất, bà Mơ và gia đình chị Ly sẽ
tự thoả thuận giải quyết với nhau về vị trí đất, về hậu quả, thiệt hại xảy ra và những
vấn đề khác liên quan đến 03 nhà, không yêu cầu Toà án giải quyết.
4. Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan ông Hoàng Văn Tuất đồng thời
là người đại diện theo uỷ quyền của bà Nguyễn Thị Mơ trình bày:
Năm 1983, ông Tuất mua một thửa đất của ông Nguyễn Quang Thời (đã
chết), do thời gian đã lâu nên không nhớ là bao nhiêu diện tích. Mốc giới xung
quanh thửa đất là bờ đất be. Khi đó, có ông Phu là hàng xóm với thửa đất này, còn
các thửa đất liền kề đều có chủ có ai ở hay không thì ông không nhớ. Giữa thửa
đất của ông và thửa đất của ông Phu liền kề với nhau, không có lối đi, mọi người
vẫn đi nhờ qua vườn nhà nhau. Năm 1984, ông có trồng bờ găng làm mốc giới
với các hộ giáp ranh: Các hộ sử dụng, không có tranh chấp gì. Sau đó, ông được
cấp GCNQSDĐ, sau khi nhận GCNQSDĐ thì ông cũng không đo đạc lại đất thực
tế sử dụng và GCNQSDĐ có trùng khớp với nhau hay không.
Thửa đất của ông Chiếm từ trước đến nay vẫn đi lối về phía Uỷ ban nhân
dân phường Cộng Hòa. Hiện nay vẫn có lối đi vào thửa đất nhà ông Chiếm. Từ
trước đến nay không có lối đi giữa thửa đất nhà ông và thửa đất nhà ông Phu.
Do thời gian đã lâu nên ông không nhớ là năm bao nhiêu, ông đã bán một
phần đất cho vợ chồng em ông là Nguyễn Văn Linh, Hoàng Thị Thụy (Ông là anh
trai ruột của bà Thụy). Ông Linh đã chết năm 2021. Sau khi bán đất cho vợ chồng
ông Linh, thì vợ chồng ông Linh đã phá bờ găng, xây dựng bờ tường làm mốc
giới. Kể từ đó cho đến nay, anh Mạnh có đơn kiện về việc cho rằng bà Thụy đã
xây nhà lên lối đi chung. Ông xác định từ khi ông mua đất sử dụng cho đến nay,
ông và gia đình em ông đều sử dụng đúng mốc giới, không có việc lấn vào lối đi
chung. Mốc giới mà ông đã bàn giao cho ông Linh đến nay thì ông Linh vẫn sử
dụng đúng mốc giới mà ông đã bàn giao.
Trong trường hợp Toà án buộc gia đình bà Thụy phải tháo dỡ công trình,
trả lại đất cho Nhà nước thì gia đình ông bà, gia đình bà Thụy và gia đình chị Ly
sẽ tự thoả thuận giải quyết với nhau về vị trí đất, về hậu quả, thiệt hại xảy ra và
những vấn đề khác liên quan đến 03 nhà, không yêu cầu Toà án giải quyết.
5. Người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan là UBND phường Cộng Hòa (nay
là phường Trần Hưng Đạo) trình bày: Theo hồ sơ hiện đang lưu trữ tại UBND
phường:
8
*Thửa đất số 61, tờ bản đồ 19:
Đo đạc và cấp GCNQSDĐ năm 1992 tại thửa đất số 61, tờ bản đồ 19, diện
tích 710 m2, mang tên ông Nguyễn Quang Phu, số vào sổ cấp GCN: 2159.
Năm 2007 tách thửa chuyển nhượng:
+ Ông Nguyễn Văn Mưu và bà Nguyễn Thị Tần tại thửa đất số 225, tờ bản
( đồ 19, diện tích 102 m2, số vào sổ cấp GCN: 5080.
+ Ông Phu và bà Mai được cấp lại GCN tại thửa đất số 61, tờ bản đồ 19,
diện tích 608 m2, số vào sổ cấp GCN: 5079.
Năm 2019 ông Phu và bà Mai tách thửa chuyển nhượng:
+ Ông Hoàng Trọng Mạnh và bà Phùng Thị Nhung tại thửa đất số 431, tờ
bản đồ 19, diện tích 150 m2, số vào sổ cấp GCN: 11270.
+ Ông Phu và bà Mai được cấp lại GCN tại thửa đất số 432, tờ bản đồ 19,
diện tích 444 m2, số vào sổ cấp GCN: 11269.
*Thửa đất số 62, tờ bản đồ 19:
Đo bản đồ và cấp GCN năm 1992 tại thửa đất số 62, tờ bản đồ 19, diện tích
777 m2, mang tên ông Hoàng Văn Tuất, số vào sổ cấp GCN: 314 (sổ cấp
GCNQSDĐ lưu tại phường là số 295)
Năm 2008 tách thửa chuyển nhượng:
+ Ông Nguyễn Ngọc Quang và bà Trần Thị Huệ tại thửa đất số 210, tờ bản
đồ 19, diện tích 141 m2, số vào sổ cấp GCN: 5388.
+ Ông Tuất và bà Mơ được cấp lại GCN tại thửa đất số 61, tờ bản đồ 19,
diện tích 636 m2, số vào sổ cấp GCN: 5387.
*Thửa đất số 120 tờ bản đồ số 19:
Có nguồn gốc nhận chuyển nhượng của ông Tuất, bà Mơ. Năm 1992 cấp
GCNQSDĐ cho ông Nguyễn Văn Linh (chồng bà Thụy) thửa đất số 120 tờ bản
đồ số 19 diện tích 195m2 có 195 m2 đất ở, số vào sổ 3214. Ngày 9/11/ 2001 GCN
được xác nhận sử dụng hợp pháp tại trang 3, số vào sổ cấp GCN 1404 (số cấp
GCN lưu tại UBND phường là so thứ tự 1351)
* Thửa đất số 82, tờ bản đồ 19
Đo đạc và cấp GCN năm 1992 tại thửa đất số 82, tờ bản đồ 19, diện tích
710 m2, mang tên ông Nguyễn Quang Phụ, số vào sổ cấp GCN: 2267.
Năm 2004 ông Phụ tách thửa chuyển nhượng:
+ Ông Trần Đăng Năm tại thửa đất số 186, tờ bản đồ 19, diện tích 112 m2,
số vào sổ câp GCN: 4056.
+ Ông Phụ được cấp lại GCN tại thửa đất số 82 +187, tờ bản đồ 19, diện
tích 580m2, số vào số cấp GCN: 4057.
Năm 2008 ông Phụ và bà Thoa chuyển nhượng:
9
+ Ông Nguyễn Văn Đức và bà Nguyễn Thị Hương tại thửa đất số 187, tờ
bản đồ 19, diện tích 108 m2, số vào sổ cap GCN: 5377.
+ Ông Phụ và bà Thoa được cấp lại GCN tại thửa đất số 82, tờ bản đồ 19,
diện tích 472 m2, số vào sổ cấp GCN: 5376.
Năm 2009 ông Phụ và bà Hoa tách thửa chuyển nhượng:
+ Ồng Trần Đăng Năm và bà Nguyễn Thị Thơm tại thửa đất số 235, tờ bản
đồ 19, diện tích 78 m2, số vào sổ cấp GCN: 5925.
+ Ông Nguyễn Đình Chiếm tại thừa đất số 82, tờ bản đồ 19, diện tích 382
m2, sổ vào sổ cấp GCN: 5926.
Năm 2019 ông Năm và bà Thơm chuyển nhượng cho ông Đức và bà Hương
toàn bộ thửa đất số 235, tờ bản đồ 19, diện tích 78 m2, số vào sổ cấp GCN: 11663.
Về hồ sơ địa chính: Theo bản đồ địa chính đo vẽ năm 1992 lưu trữ tại
UBND phường thể hiện:
- Giữa thửa đất 61, 62 (thửa 62 đã tách thừa chỉnh lý thửa 120 là thửa tiếp
giáp lối đi chung) có lối đi vào thửa đất số 82, đây là lối đi chung, trên bản đồ
không thể hiện cụ thể kích thước là bao nhiêu mét (m). Do quá trình sử dụng các
hộ đã chiếm dụng và không đi trên lối đi này nên năm 2008 đo đạc bản đồ hiện
trạng không thể hiện lối đi trên bản đồ; trên thực tế hiện nay không còn thể hiện
lối đi chung này tại thực địa. (Quá trình các hộ sử dụng không có đơn đề nghị giải
quyết việc lấn chiếm lối đi chung nên UBND phường không xác định cụ thể chính
xác thời điểm các hộ dân chiếm dụng lối đi này).
Hiện trạng từ năm 2008 đến nay, gia đình ông Chiếm đang đi lối đi tại cạnh
phía Tây Nam của thửa đất có nguồn gốc: Đo đạc và cấp GCN năm 1992 tại thửa
đất số 82, tờ bản đô 19, diện tích 710 m2, mang tên ông Nguyễn Quang Phụ, số
vào sổ cấp GCN: 2267. Hộ gia đình ông Phụ đã thực hiện các thủ tục tách thửa:
Năm 2004 ông Phụ tách thửa chuyển nhượng:
+ Ông Trần Đăng Năm tại thửa đất số 186, tờ bản đồ 19, diện tích 112 m2,
số vào sổ cấp GGN: 4056.
+ Ông Phụ được cấp lại GCN tại thửa đất số 82+187, tờ bản đồ 19, diện
tích 580 m2, số vào sổ cấp GCN: 4057.
Năm 2008 ông Phụ và bà Thoa chuyển nhượng:
+ Ông Nguyễn Văn Đức và bà Nguyễn Thị Hương tại thừa đất số 187, tờ
bản đồ 19, diện tích 108 m2, sổ vào sổ cấp GCN: 5377.
+ Ông Phụ và bà Thoa được cấp lại GCN tại thửa đất số 82, tờ bản đồ 19,
diện tích 472 m2, số vào sổ cấp GCN: 5376.
Năm 2009 ông Phụ và bà Hoa tách thửa chuyển nhượng:
+ Ông Trần Đăng Năm và bà Nguyễn Thị Thơm tại thửa đất số 235, tờ bản
đồ 19, diện tích 78 m2, số vào sổ cấp GCN: 5925.
10
+ Ông Nguyễn Đình Chiếm tại thửa đất số 82, tờ bản đồ 19, diện tích 382
m2, số vào sổ cấp GCN: 5926.
Năm 2019 ông Năm và bà Thơm chuyển nhượng cho ông Đức và bà Hương
toàn bộ thửa đất số 235, tờ bản đồ 19, diện tích 78 m2, số vào sổ cấp GCN: 11663.
Nguyên nhân có lối đi thứ 2 là do: Tại thời điểm năm 2004, năm 2009 hoàn
thiện hồ sơ tách thửa chuyển nhượng cấp GCN: Ông Trần Đăng Năm và bà
Nguyễn Thị Thơm; Ông Nguyễn Văn Đức và bà Nguyễn Thị Hương; Ông Phụ đã
đề nghị đo đạc hiện trạng thửa đất theo hiện trạng đang sử dụng, làm thủ tục tự
nguyện hiến đất làm đường để mở lối đi tại cạnh phía Tây của thửa đất. Từ đó đến
nay gia đình bà Hương, ông Đức, ông Chiếm sử dụng và đi trên lối đi này.
Căn cứ hồ sơ địa chính, căn cứ GCNQSDĐ đã được cấp cho các hộ đối
chiếu, so sánh với kết quả đo đạc hiện trạng thửa đất của cơ quan có thẩm quyền
UBND phường nhận thấy hiện trạng gia đình ông Phu có công trình phụ trợ nằm
vào 1 phần diện tích lối đi chung, bà Thụy có xây dựng nhà kiên cố và công trình
khác nằm vào 1 phần lối đi chung giá trị nhà kiên cố lớn việc tháo dỡ ảnh hưởng
đến chất lượng công trình nhà kiên cố.
6. Lời khai người làm chứng:
6.1. Ông Hoàng Hữu Đính: Ông là người bán đất cho ông Ngoan từ năm
1994, hiện nay ông Ngoan đang sử dụng thửa đất này. Ông là người mua đất của
ông Lũy ở Lôi Động, Cộng Hòa, Chí Linh, Hải Dương từ năm 1990. Khi ông mua
đất ở đó thì ông Phụ vẫn đang ở trên đất, sau này mới đổi cho ông Chiếm. Trước
đây, ông Phụ có lối đi ở phía ông Phu, bà Thụy, không có lối đi ở phía đất chỗ
nhà ông, nhưng ông Phụ vẫn đi tắt qua phần đất nhà ông để đi ra đường chính.
Còn lối đi cụ thể của thửa đất ông Phụ ở phía nhà ông Phu, bà Thụy như thế nào
thì tôi không biết. Ranh giới giữa thửa đất nhà tôi và nhà ông Phụ là rạch nước,
không có tường bao hay bờ rào, bờ găng, còn các hộ khác ranh giới như thế nào
thì tôi không biết. Phân đất của nhà tôi đúng theo bản đồ năm 1993 mà Tòa án
cho tôi xem, nhưng thực tế khi tôi mua đất của ông Lũy thì có lối đi trên phần đất
thuộc bìa đỏ là do gia đình bỏ đất để làm lối đi. Lối đi này là lối đi riêng của gia
đình, không phải lối đi của tập thể.
6.2. Ông Phạm Văn Ngoan: Năm 1994, ông có mua đất của ông Đính tại
Lôi Động, Cộng Hòa, Chí Linh, Hải Dương. Đến năm 2005, ông được cấp bìa đỏ
đứng tên Phạm Văn Ngoan, diện tích 531m
2
, thửa đất số 83, tờ bản đồ 19, số vào
sổ cấp GCN là H04530, mã AB 257480. Kể từ khi mua đất đến nay, ông vẫn sử
dụng đúng phần đất theo GCN đã được cấp. Từ năm 1994, khi mua đất của ông
Đính cho đến nay, gia đình ông vẫn cho gia đình ông Chiếm đi nhờ trên phần đất
của nhà ông, còn nhà ông Chiếm đi lối ở phía nhà ông Phu, bà Thụy dài rộng như
nào thì ông không biết. Hiện nay, phần đất của gia đình ông có bỏ ra một phần đất
để làm lối đi vào nhà ông, đây là lối đi riêng của gia đình ông, hiện nay ông cho
gia đình anh Đức chị Hương đi nhờ, khi nào cần thiết thì ông sẽ không cho đi nhờ
nữa. Khi mua đất của ông Đính, ông có hỏi địa chính về thửa đất của ông Chiếm
có lối đi vào ở đâu thì ông Đức địa chính có nói lối đi của ông Chiếm ở phía ông
Phu, bà Thụy, không có lối đi ở phía đất nhà ông nên ông đã nói rõ với gia đình
11
ông Chiếm là chỉ cho đi nhờ, chứ không phải là đường đi tập thể thì gia đình ông
Chiếm đồng ý.
6.3. Văn bản xác nhận của hàng xóm giáp ranh thửa đất của nhà ông Chiếm,
ông Phu và bà Thụy thể hiện: Các ông/bà: bà Vũ Thị Lương, ông Bùi Quang
Minh, ông Hoàng Hữu Đính, ông Nguyễn Duy Tâc, bà Nguyễn Thị Quất, ông
Nguyễn Văn Dũng là hàng xóm giáp ranh xung quanh thửa đất của nhà ông
Chiếm, ông Phu và bà Thụy thể hiện: Các ông bà đã sống ở đây từ trước năm
1990. Thời gian trước khi ông Nguyễn Quang Phụ (em trai của ông Nguyễn
Quang Phu) còn sinh sống ở khu vực này thì có một lối đi từ nhà ông Phu (giáp
với nhà bà Thụy hiện nay) đi vào nhà của ông Phụ. Thỉnh thoảng các ông, bà vẫn
đi qua đó vào nhà ông Phu. Tuy nhiên sau đó lối này không sử dụng nữa nên các
ông bà đi sang nhà ông Phu (giờ là nhà ông Chiếm) qua lối đi qua nhà ông Ngoan.
Các ông bà cũng được biết có một khoảng thời gian ông Ngoan không đồng ý cho
nhà ông Chiếm đi qua lối đấy, nhưng sau đó hai nhà đã thỏa thuận là ông Ngoan
cho mượn lối đi nên các ông bà đi vào nhà ông Chiếm qua lối đó.
6.4. Ông Phùng Đắc Đức: Ông Đức làm địa chính phường Cộng Hòa từ
năm 1995-2020, hiện đang nghỉ hưu. Tòa án có cho ông xem bản đồ 299, bản đồ
1992, bản đồ 2008, GCN QSDĐ đã cấp cho ông Phu, ông Tuất, bà Thụy, ông
Chiếm. Căn cứ vào bản đồ 299 thì giữa thửa đất số 69,70 ,72 và không có lối đi.
Đến bản đồ 1992, giữa thửa đất 81, 120, 62 và 82 có lối đi chung ở giữa thửa đất
81 và 120 để vào thửa đất số 82. Căn cứ vào bản đồ 92 và GCNQSDĐ đã cấp cho
các hộ dân là căn cứ pháp lý có giá trị nên xác định giữa thửa đất số 81,120 có lối
đi vào thửa đất số 82 nhưng không thể hiện kích thước cụ thể dài rộng là bao
nhiêu. Căn cứ vào đơn xin cấp đất của các hộ thì có thể hiện kích thước, chiều dài,
rộng của lối đi nên là căn cứ để xác định lối đi có kích thước dài, rộng như trong
đơn xin cấp GCNQSDĐ. Về nguồn gốc của các thửa đất của ông Phu, ông Chiếm,
ông Tuất, bà Thụy thì đề nghị Tòa án làm việc với ông Liên địa chính trước đây.
Về biến động của các thửa đất này thì có việc ông Phụ đã nhiều lần chuyển nhượng
đất, ông Chiếm là người nhận đất của ông Phụ và thửa đất của ông Phụ có tách
thửa nhiều lần, còn cụ thể tách thửa chuyển nhượng hồ sơ đã được lưu tại UBND
phường Cộng Hòa, văn phòng đăng ký đất đai TP Chí Linh. Về nguyên tắc khi
cấp bìa đỏ cho các hộ dân đều phải đảm bảo có lối đi vào các thửa đất, còn quá
trình các hộ sử dụng như thế nào là do các hộ dân, nếu lấn chiếm vào lối đi thì
phải trả lại cho Nhà nước. Khi ông Chiếm tách thửa thì có để một phần đất làm
lối đi.
6.5. Ông Vũ Đình Liên: Ông Liên làm địa chính tại Cộng Hòa từ năm
1990-1994, hiện đã nghỉ hưu. Về nguồn gốc khu đất trước đây là đất các gia đình
tự khai hoang. Đối với phần đất của ông Phu, ông Phụ là do bố của ông Phu, ông
Phụ là ông Tòng khai hoang, sau này ông Tòng cho các con. Tòa án cho ông xem
bản đồ đo đạc theo bản đồ 299 và 1992, thì ông đề nghị Tòa căn cứ vào bản đồ đo
đạc làm căn cứ xác định khi chia đất và cấp bìa cho các hộ dân đều phải đảm bảo
có lối đi vào các thửa đất nên thửa đất của ông Phụ có lối đi vào, còn lối đi có
chiều dài rộng bao nhiêu thì ông không nhớ, đề nghị căn cứ vào hồ sơ lưu trữ tại
UNBD phường Cộng Hòa. Tòa án cho ông xem đơn xin cấp GCNQSDĐ đối với
12
thửa đất ông Phu, ông Phụ, ông Tuất thì trên các đơn đề nghị thể hiện rõ kích
thước các thửa đất trong đó có lối đi ghi chiều rộng 2m hình thể thửa đất do đơn
vị vẽ hình thể, còn các hộ dân ký trong đơn xin cấp giấy.
6.6. Bà Bùi Thị Thoa: Tôi có chồng là ông Nguyễn Công Phụ đã chết năm
2012, bà và ông Phụ kết hôn năm 1982, sau đó được mẹ chồng xin cấp đất tại
KDC Lôi Động, Cộng Hòa nên vợ chồng bà ở trên mảnh đất đó cho đến năm 1992
vợ chồng bà bán đất cho ông Chiếm. Từ khi ở trên đất và bán đất thì vợ chồng bà
đi lối đi cạnh nhà ông Lũy, đây là lối đi của cả xóm, khi gia đình bà bán đất cho
ông Chiếm thì có nói là lối đi ở nhà ông Lũy chứ không nói lối đi ở nhà ông Phu,
bà Thụy. Khi vợ chồng bà được cấp GCNQSDĐ thì mẹ chồng bà giữ sau đó chồng
bà đi bộ đội về thì mẹ chồng đưa cho chồng bà giữ, bà không biết GCNQSDĐ
như thế nào.
7. Ý kiến của Phòng quản lý đô thị về việc cấp phép cho bà Thụy và ông
Linh: Tại bộ phận tiếp nhận và trả kết quả một cửa đã tiếp nhận hồ sơ đề nghị cấp
giấy phép xây dựng, thẩm định và tham mưu cho UBND thành phố ban hành Giấy
phép xây dựng số 45/GPXD-UBND ngày 03/02/2021 cho ông Nguyễn Văn Linh
trên thửa đất số 120, tờ bản đồ số 19, phường Cộng Hòa, thành phố Chí Linh, tỉnh
Hải Dương. Việc tiếp nhận, thẩm định và ban hành giấy phép xây dựng cho ông
Nguyễn Văn Linh theo đúng quy trình quy định của pháp luật. Sau khi chủ đầu tư
được cấp giấy phép xây dựng phải thực hiện đúng theo quy định của pháp luật về
đất đai, về đầu tư xây dựng và Giấy phép xây dựng đã cấp. Quan điểm của Phòng
Quản lý đô thị: Việc tranh chấp theo đơn khởi kiện thực hiện đúng theo quy định
của pháp luật về đất đai và xây dựng.
8. Chị Trần Thị Ly, anh Nguyễn Văn Khánh: Vợ chồng anh chị có mua 01
thửa đất của vợ chồng ông Tuất vào năm 2007, sau khi mua xong, vợ chồng chị
đã làm thủ tục cấp GCNQSDĐ đứng tên vợ chồng anh chị là Thửa đất số 210, tờ
bản đồ 19, diện tích 139m
2
. Kể từ khi vợ chồng mua thửa đất xong thì ông Tuất
đã bàn giao mốc giới, vợ chồng anh chị đã xây dựng nhà cấp 4 và ở trên đó từ đó
cho đến nay. Quá trình vợ chồng anh chị sử dụng đất cho đến nay không xảy ra
tranh chấp đất với ai, sử dụng đúng mốc giới đã bàn giao. Anh chị đã được Toà
án thông báo về việc anh Mạnh đang khởi kiện đối với ông Phu, bà Thụy vì đã
lấn vào lối đi chung thì anh chị có biết nội dung này. Toà án có cho anh chị xem
sơ đồ hiện trạng sử dụng thửa đất của các hộ giáp ranh. Phần đất mà anh chị mua
của ông Tuất thì anh chị đã sử dụng đúng, đủ theo GCNQSDĐ, đúng vị trí mà
ông Tuất đã bàn giao. Trường hợp bà Thụy phải trả lại đất cho lối đi chung mà
dẫn đến vị trí thửa đất của bà Thụy bị dịch chuyển, liên quan đến vị trí thửa đất
của anh chị thì gia đình anh chị, bà Thụy và ông Tuất sẽ tự thoả thuận giải quyết
với nhau, không yêu cầu Toà án giải quyết trong vụ án này, đề nghị Toà án không
đưa anh chị vào tham gia tố tụng với tư cách là người có quyền lợi nghĩa vụ liên
quan trong vụ án này.
9. Kết quả xem xét, thẩm định tại chỗ:
- Đối với diện tích đất ông Phu hiện nay đang sử dụng gồm
S1+S6=592.7+64.5 m
2
. Tứ cạnh như sau: Cạnh Đông Bắc giáp đường Bích Động
13
có chiều dài (1.60+15.29)m; Cạnh phía Tây Bắc giáp nhà bà Bao, bà Thảo có
chiều dài (13.67+16.60+1.10+3.68)m; Cạnh phía Tây Nam giáp nhà ông Mưu,
ông Ngoan có chiều dài (16.99+6.15+6.34)m; Cạnh phía Đông Nam giáp phần
đất nhà ông Chiếm, bà Thụy có chiều dài (10.74+3.00+3.48+1.54+1.42+25.49)m
- Đối với phần đất nhà bà Thụy đang sử dụng có diện tích
S2+S7=(132.3+35.8) m
2
=168.1m
2
. Tứ cạnh như sau: Cạnh phía Đông Bắc giáp
đường Bích Động có chiều dài (5.04+1.40)m; Cạnh phía Tây Bắc giáp phần đất
nhà ông Phu có chiều dài 25.49m; Cạnh phía Tây Nam giáp phần đất nhà ông Phu
và ông Chiếm có chiều dài (1.42+1.54+3.48+0.14)m; Cạnh phía Đông Nam giáp
phần đất nhà chị Ly có chiều dài 26.35m.
- Đối với phần đất nhà chị Ly đang sử dụng có diện tích hiện trạng là
134.1m
2
. Tứ cạnh như sau: Cạnh phía Đông Bắc giáp đường phố Bích Động có
chiều dài 5.07m; Cạnh phía Tây Bắc giáp phần đất nhà bà Thụy có chiều dài
26.35m; Cạnh phía Tây Nam giáp nhà ông Chiếm có chiều dài 5.00m; Cạnh phía
Đông Nam giáp nhà ông Tuất có chiều dài 27.14m.
- Đối với phần đất nhà ông Tuất đang sử dụng có diện tích hiện trạng
623.3m
2
. Tứ cạnh như sau: Cạnh phía Đông Bắc giáp đường Bích Động có chiều
dài 22.63m; Cạnh phía Tây giáp nhà chị Ly có chiều dài 27.14m; Cạnh phía Tây
Nam giáp nhà ông Chiếm, bà Cây có chiều dài (20.64+0.23)m; Cạnh phía Đông
Nam giáp nhà bà Quyên có chiều dài 30.34m
- Đối với phần đất ông Chiếm, anh Đức đang sử dụng có diện tích hiện
trạng đất là 947.2m
2
. Tứ cạnh như sau: Cạnh phía Đông Bắc giáp phần đất nhà
ông Tuất, chị Ly, bà Thụy có chiều dài (20.64+5+0.14)m; Cạnh phía Tây Bắc giáp
nhà ông Phu, ông Ngoan và lối đi có chiều dài (3.00+10.74+10.16+3.69+11.27)m;
Cạnh phía Tây Nam giáp nhà ông Minh có chiều dài 20.76m; Cạnh phía Đông
Nam giáp nhà ông Quyết (đã bán), bà Cây có chiều dài (20.61+2.52+9.75)m
- Đối với phần đất tranh chấp theo anh Mạnh xác định vị trí như sau. Phần
đất tranh chấp gồm S6+S7 cụ thể:
+ Đối với phần đất S6 hiện nay ông Phu đang sử dụng có diện tích 64.5m
2
.
Tứ cạnh như sau: Cạnh phía Đông Bắc giáp đường Bích Động có chiều dài 1.60m;
Cạnh phía Tây Bắc giáp phần đất ông Phu có chiều dài 28.35m; Cạnh phía Tây
Nam giáp đất nhà ông Phu có chiều dài 7.75m; Cạnh phía Đông Nam giáp đất nhà
bà Thụy, ông Chiếm và S7 có chiều dài (3.00+3.48+1.54+1.42+25.49)m. Trên
phần S6 gồm các tài sản: 01 phần mái Proximăng làm khoảng năm 2014 có diện
tích 26.5m
2
; 01 phần mái tôn thường làm mới khoảng năm 2017 diện tích 13.2m
2
;
01 sân trạt bê tông dưới mái tôn và mái Proximăng có diện tích 40m
2
, độ dày trung
bình là 0.1m và 01 cây dừa, 01 cây xoài. Toàn bộ tài sản trên là do ông Phu xây
dựng
+ Phần đất S7 hiện bà Thụy đang sử dụng có diện tích 35.8m
2
. Tứ cạnh
như sau: Cạnh phía Đông Bắc giáp đường Bích Động dài 1.40m; Cạnh phía Tây
Bắc giáp S6 có chiều dài 25.49m; Cạnh phía Tây Nam giáp S6 có chiều dài 1.42m;
Cạnh phía Đông Nam giáp phần đất bà Thụy có chiều dài 25.69m. Trên đất có các
14
tài sản như sau: 01 phần nhà 2 tầng xây năm 2021, diện tích 20.9m
2
; 01 mái tôn
lạnh phía trước nhà 2 tầng, diện tích 8.4m
2
, xây dựng năm 2021; 01 Đoạn tường
giáp phố Bích Động có chiều dài 1.4m, cao 1.8m, bên trên có hàng rào inox chiều
dài 1,4m, cao 0.9m, gạch chỉ đỏ đặc; 01 đoạn tường giáp S6 chiều dài 5.9m, cao
3m, xây gạch chỉ đỏ đặc; 01 phần nhà vệ sinh 02 tầng có diện tích 4.5m
2
/1 tầng,
xây năm 2021; 01 phần nhà kho được lợp mái Proximang diện tích 1.8m
2
; 01 phần
sân gạch đỏ phía dưới mái tôn trước nhà 02 tầng có diện tích là 8.4m
2
.
10. Kết quả định giá tài sản
10.1. Thửa đất số 120, tờ bản đồ 19 thuộc đường phố loại 2 nhóm A (đường
KDC Bích Động - Tân Tiến), đất ở vị trí 1: 130m
2
có giá 8.400.000 đồng/m
2
(Vị
trí 1 có độ dài 20m tính từ cạnh giáp đường); vị trí 2: 65m
2
có giá 3.850.000
đồng/m
2
- xác định là giá thực tế của thửa đất.
10.2. Thửa đất số 432, tờ bản đồ số 19 thuộc đường phố loại 2 nhóm A
(đường KDC Bích Động - Tân Tiến); đất ở vị trí 1: 180m
2
có giá 8.400.000
đồng/m
2
, đất lâu năm: 264m
2
có giá 85.000 đồng/m
2
- xác định là giá thực tế của
thửa đất.
10.3. Đối với tài sản trên đất: Một phần mái proximang diện tích 26.5m
2
làm năm 2014 có giá trị còn lại 366.601 đồng; Một phần mái tôn thường diện tích
13.2m
2
làm năm 2017 có giá trị còn lại 1.162.094 đồng; 01 sân chát bê tông dưới
mái tôn và mái proximang diện tích 40m
2
, dày 0.1m có giá trị còn lại là 1.203.328
đồng; Một phần nhà 02 tầng diện tích 20.9m
2
, làm năm 2021 có giá trị còn lại là
181.522.676 đồng; 01 mái tôn lạnh phía trước nhà 02 tầng diện tích 8.4m
2
làm
năm 2021 có giá trị còn lại là 2.554.454 đồng; 01 đoạn tường giáp phố Bích Động
chiều dài 1,4m, cao 1,8m, hàng rào inox phía trên dài 1,4m, cao 0.9m, tường xây
gạch chỉ đặc có giá trị còn lại là 818.395 đồng; 01 đoạn tường giáp S6 dài 5.9m,
cao 3.0m, xây gạch chỉ đặc có giá trị còn lại 334.428 đồng; Một phần nhà vệ sinh
02 tầng diện tích 4.5m
2
/tầng, xây dựng năm 2021 có giá trị còn lại là 38.665.986
đồng; Một phần nhà kho lợp mái proximang diện tích 1,8m
2
có giá trị còn lại
3.182.362 đồng; 01 phần sân gạch đỏ phía dưới mái tôn trước nhà 02 tầng diện
tích 8.4m
2
có giá trị còn lại là 746.595 đồng; Công tháo dỡ thủ công là 11.682
đồng/m
2
.
11. Tại Bản án số 08/2025/DS-ST ngày 11/4/2025, Tòa án nhân dân thành
phố Chí Linh, tỉnh Hải Dương (nay là Tòa án nhân dân khu vực 9 - Hải Phòng)
quyết định: Xử chấp nhận một phần yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn anh
Nguyễn Đình Mạnh.
Xác định giữa thửa đất số 61 (thửa đất của ông Phu) và thửa đất số 120
(thửa đất của bà Thụy) có lối đi chung vào thửa đất số 82 (thửa đất của ông
Chiếm), lối đi có hình thể là B1,B2,B3,B4,B8,B9,B6 đến B1. Phần lối đi do ông
Phu, bà Mai đang sử dụng có hình thể là B1,B2,B5,B8,B9,B6 đến B1 có diện tích
là: 51,6m
2
; phần lối đi do bà Thụy, chị Phương, anh Đông đang sử dụng có hình
thể là B2,B3,B4,B5 đến B2 có diện tích là 9.5m
2
.
15
Buộc ông Phu, bà Mai phải tháo dỡ toàn bộ các công trình, cây cối trên
phần lối đi chung. Không buộc bà Thụy, chị Phương, anh Đông phải tháo dỡ một
phần nhà 02 tầng liền móng với nhà vệ sinh 02 tầng; tạm giao phần đất có một
phần nhà 02 tầng liền móng với nhà vệ sinh 02 tầng thuộc vào lối đi chung cho bà
Thụy, chị Phương, anh Đông sử dụng cho đến khi bà Thụy, chị Phương, anh Đông
tháo dỡ công trình thì phải trả lại phần đất đó cho Nhà nước quản lý; Buộc bà
Thụy, chị Phương, anh Đông phải tháo dỡ các công trình khác thuộc vào lối đi
chung. Ranh giới, số đo, diện tích, vị trí của lối đi chung có sơ đồ kèm theo bản
án.
Ngoài ra bản án còn tuyên về chi phí tố tụng, án phí và quyền kháng cáo.
Ngày 22/4/2025, nguyên đơn Nguyễn Đình Mạnh kháng cáo toàn bộ bản
án sơ thẩm. Xác định Tòa án cấp sơ thẩm vi phạm thủ tục tố tụng không thụ lý
yêu cầu hủy GCNQSDĐ và không đưa UBND thành phố Chí Linh và Văn phòng
đăng ký đất đai thành phố Chí Linh tham gia tố tụng với tư cách là người có quyền
lợi, nghĩa vụ liên quan là thiếu; đánh giá chứng cứ không khách quan và đề nghị
hủy bản án sơ thẩm.
Tại phiên tòa:
Người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của nguyên đơn xác định thửa đất
của gia đình nguyên đơn có đường đi vào rộng 02m. Tòa án cấp sơ thẩm áp dụng
pháp luật không đúng, đề nghị hủy án sơ thẩm để xét xử lại theo thủ tục chung.
Kiểm sát viên phát biểu ý kiến của Viện kiểm sát về việc tuân theo pháp
luật trong quá trình giải quyết vụ án ở giai đoạn phúc thẩm và đề nghị Hội đồng
xét xử không chấp nhận kháng cáo của nguyên đơn. Giữ nguyên bản án sơ thẩm;
buộc nguyên đơn phải chịu án phí dân sự phúc thẩm theo quy định.
NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN:
[1] Về tố tụng:
Kháng cáo của nguyên đơn trong hạn luật định và đã nộp tạm ứng án phí
phúc thẩm nên được chấp nhận xem xét theo trình tự phúc thẩm.
Đây là vụ án tranh chấp về quyền sử dụng lối đi chung, Tòa án cấp sơ thẩm
đã xác định UBND phường Cộng Hòa, thành phố Chí Linh, tỉnh Hải Dương (nay
là phường Trần Hưng Đạo, thành phố Hải Phòng) là cơ quan có thẩm quyền quản
lý đất công sử dụng vào mục đích giao thông ở cơ sở tham gia tố tụng với tư cách
là người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan là đúng. Anh Mạnh kháng cáo cho rằng
cần phải đưa UBND thành phố Chí Linh và Chi nhánh Văn phòng đăng ký đất đai
tham gia tố tụng là không có căn cứ chấp nhận.
Tại phiên tòa sơ thẩm anh Mạnh mới đưa ra yêu cầu Tòa án hủy các
GCNQSDĐ của các bị đơn. Yêu cầu của anh Mạnh vượt quá phạm vi khởi kiện
ban đầu. Tòa án cấp sơ thẩm không chấp nhận xem xét yêu cầu này và tiếp tục
giải quyết vụ án là phù hợp quy định tại mục 7, phần IV, Giải đáp số 01/2017/GĐ-
TANDTC ngày 07/4/2017 của Toà án nhân dân tối cao. Kháng cáo của anh Mạnh
về nội dung này không có căn cứ chấp nhận.
16
[2] Về nội dung:
[2.1] UBND phường Cộng Hòa, nguyên đơn, bị đơn là ông Phu và lời khai
của những người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan và người làm chứng đều xác
định có lối đi chung giữa thửa đất số 61 (thửa đất của ông Phu) và thửa đất số 120
(thửa đất của bà Thụy) để vào thửa đất số 82 (thửa đất của ông Chiếm). Lời khai
của các đương sự phù hợp với Đơn xin cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất
của ông Phu, ông Tuất, Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất đã cấp cho ông Phụ,
trích lục bản đồ địa chính năm 1992 (bản đồ làm căn cứ cấp GCNQSDĐ cho cá
nhân) đều thể hiện có lối đi chung giữa thửa đất số 61 (thửa đất của ông Phu) và
thửa đất số 120 (thửa đất của bà Thụy) để vào thửa đất số 82 (thửa đất của ông
Chiếm). Cấp sơ thẩm xác định có lối đi chung giữa thửa đất số 61 (thửa đất của
ông Phu) và thửa đất số 120 (thửa đất của bà Thụy) để vào thửa đất số 82 (thửa
đất của ông Chiếm) là phù hợp.
[2.2] Về kích thước, vị trí lối đi chung:
[2.2.1] Tại Đơn xin cấp đất của ông Phu, ông Tuất có thể hiện lối đi chung
có chiều rộng là 2m, nhưng không thể hiện đầy đủ chiều dài, kích thước các cạnh
của lối đi chung; trích lục bản đồ địa chính năm 1992 và GCNQSDĐ đã cấp cho
ông Phụ năm 2002 (ông Chiếm nhận chuyển nhượng của ông Phụ) chỉ thể hiện
hình thể lối đi chung không thể hiện chiều dài, chiều rộng, kích thước các cạnh.
Đến năm 2004, 2008 sau khi ông Phụ tách thửa chuyển nhượng được cấp lại GCN
QSD đất thể hiện lối đi rộng 3m, không thể hiện chiều dài lối đi; năm 2009, ông
Chiếm được cấp GCN QSD đất thể hiện lối đi rộng 3m và cũng không thể hiện
chiều dài lối đi vào thửa đất. UBND phường Cộng Hoà cũng như Văn phòng đăng
ký quyền sử dụng đất cũng không xác định được chính xác lối đi chung có chiều
rộng, chiều dài, kích thước các cạnh. Tòa án cấp sơ thẩm đã xác định diện tích đất
thuộc quyền sử dụng đất của các hộ dân liên quan theo hồ sơ địa chính từ đó trừ
ra phần còn lại sẽ là lối đi chung là phù hợp, cụ thể:
[2.2.2] Căn cứ vào hồ sơ cấp GCNQSDĐ đối với thửa đất số 61 của ông
Nguyễn Quang Phu sau nhiều lần tách thửa chuyển nhượng QSD đất, năm 2019
được cấp GCN QSD đất đối với thửa số 432 tờ bản đồ số 19 diện tích 444m
2
thể
hiện hình thể chiều dài cạnh tiếp giáp đường là 10,40m. Thửa đất số 62 của ông
Hoàng Văn Tuất năm 1992 tách thửa chuyển nhượng cho gia đình bà Hoàng Thị
Thụy, ông Nguyễn Văn Linh, ông Linh được cấp GCN QSD đất thửa 120 tờ bản
đồ số 19 diện tích 195m
2
, hình thể chiều dài cạnh tiếp giáp đường là 6,5m. Năm
2008 ông Tuất tách đất chuyển nhượng cho vợ chồng ông bà Quang Huệ thửa đất
giáp thửa đất nhà ông Linh bà Thụy, năm 2017 ông Quang Huệ cho con là vợ
chồng chị Ly anh Khánh được cấp GCN QSD đất số 210 tờ bản đồ số 19, GCN
QSD đất thể hiện cạnh giáp mặt đường là 5m. Năm 2021 ông Tuất được cấp GCN
QSD đất đối với diện tích còn lại thửa 62 tờ bản đồ số 19 thể hiện cạnh giáp mặt
đường có chiều dài 22,50m. Nhưng kết quả thẩm định tại chỗ thể hiện chiều dài
cạnh giáp mặt đường của thửa số 432 (bao gồm cả phần đất ông Phu đã chuyển
nhượng cho anh Mạnh, chị Nhung nhưng ông Phu vẫn đang sử dụng) là
15,29+1,60m; chiều dài cạnh giáp mặt đường của thửa 120 là 5,04+1,40m; chiều
17
dài cạnh giáp mặt đường của thửa 210 là 5,07m; chiều dài cạnh giáp mặt đường
của thửa số 62 là 22,63m. Các cạnh khác của các thửa đất đều có sự thay đổi về
kích thước so với GCN QSD đất nên diện tích các thửa có thay đổi so với GCN
QSD đất. Căn cứ vào giải trình xác định lý do sai số trong quá trình đo đạc; các
biên bản xác định hiện trạng đất (qua các lần chuyển nhượng đất đối với các thửa
đất) đều đã được các hộ giáp ranh ký xác nhận (Mặc dù, tại phiên tòa các đương
sự không thừa nhận chữ ký trong các văn bản trong hồ sơ cấp GCNQSDĐ nhưng
không đề nghị giám định chữ ký, chữ viết nên không chấp nhận lời khai này của
các đương sự), lời khai của ông Tuất, bà Thụy, ông Phu đều xác định có hiến đất
làm đường, nhưng không xác định được chính xác kích thước, diện tích phần đất
đã hiến, và UBND phường Cộng Hòa cũng không xác định được phần đất mà các
hộ dân đã hiến có kích thước, diện tích như nào, nên không cung cấp cho Tòa án
được. Sau khi Tòa án tiến hành lồng ghép giữa GCNQSDĐ của ông Tuất, chị Ly
anh Khánh, bà Thụy, ông Phu thì xác định các hộ có hiến đất làm đường, kích
thước các cạnh theo hiện trạng đo đạc của các thửa đất có sự thay đổi so với
GCNQSDĐ đã cấp. Căn cứ vào hồ sơ cấp GCNQSDĐ đã cấp cho ông Phu năm
2018 thể hiện vợ chồng ông Phu có xây dựng các công trình trên 54m
2
đất thuộc
lối đi chung; tại phiên tòa sơ thẩm ông Phu thừa nhận và đồng ý tháo dỡ các công
trình trả lại lối đi chung cho Nhà nước. Vì vậy, Tòa án cấp sơ thẩm chấp nhận sự
tự nguyện của ông Phu tháo dỡ các công trình trả lại lối đi chung cho Nhà nước
với diện tích là 54m
2
.
[2.2.3] Đất của bà Thụy, ông Linh nhận chuyển nhượng của vợ chồng ông
Tuất, bà Mơ. Năm 1992, vợ chồng ông Linh, bà Thụy và vợ chồng ông Tuất, bà
Mơ đã được cấp GCNQSDĐ. Các ông bà đều thừa nhận kể từ khi nhận chuyển
nhượng, vợ chồng bà Thụy, ông Linh sử dụng đúng mốc giới do vợ chồng ông
Tuất, bà Mơ bàn giao cho đến nay, phù hợp với GCNQSDĐ. Đến năm 2021, khi
gia đình ông Linh xây dựng nhà kiên cố 02 tầng có làm thủ tục xin cấp phép xây
dựng và đã được cơ quan Nhà nước có thẩm quyền cấp phép xây dựng. Do đó, bà
Thụy và hai con đều xác định bà xây dựng công trình và sử dụng đất theo đúng
GCNQSDĐ được cấp năm 1992, không xây dựng vào lối đi chung, nên gia đình
bà không đồng ý yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn. Trong trường hợp Tòa án có
xác định phần công trình gia đình bà xây dựng vào lối đi chung thì không phải lỗi
do gia đình bà, nên gia đình bà không đồng ý tháo dỡ công trình. Nếu gia đình bà
có xây dựng không đúng mốc giới do gia đình ông Tuất không bàn giao đúng mốc
giới thì gia đình bà, gia đình ông Tuất, gia đình chị Ly sẽ tự thỏa thuận giải quyết
với nhau mà không yêu cầu Tòa án giải quyết. Căn cứ vào GCNQSDĐ đã cấp cho
ông Tuất năm 1992 thể hiện cạnh phía nam của thửa đất có kích thước là 25,5m,
và hồ sơ chuyển nhượng đất từ ông Tuất, bà Mơ cho ông Quang bà Huệ và từ ông
Quang, bà Huệ cho vợ chồng chị Ly anh Khánh có kích thước cạnh phía nam là
5m, nên cạnh phía nam của thửa đất của ông Tuất, bà Mơ có kích thước là 20,5m;
nhưng đến năm 2020 khi cấp lại GCNQSDĐ cho ông Tuất, bà Mơ thể hiện cạnh
nam có kích thước là 20,88m, tăng 0,38m, còn các cạnh khác của thửa đất kích
thước không thay đổi, dẫn đến diện tích tăng 23m
2
, với lý do trước đây đo đạc,
tính toán diện tích bằng phương pháp thủ công nên không chính xác. Khi làm lại
18
GCNQSDĐ cho ông Tuất, bà Mơ có hiến đất làm đường là 40m
2
nằm ở phía bắc
của thửa đất. Quá trình sử dụng đất và đến tại phiên toà, giữa thửa đất ông Chiếm
và thửa đất ông Tuất (thửa đất nguồn gốc 1992) thì các bên không có tranh chấp
gì về mốc giới. Sau khi tiến hành lồng ghép GCNQSDĐ của ông Tuất (năm 1992),
chị Ly, bà Thụy thì thấy rằng, theo đúng GCNQSDĐ của ông Tuất (năm 1992) vị
trí thửa đất của bà Thụy và thửa đất của chị Ly sử dụng không đúng vị trí, Tòa án
cấp sơ thẩm xác định hiện trạng bà Thụy có sử dụng vào một phần đất của lối đi
chung, cụ thể: Cạnh phía Đông Bắc là 0,33m, cạnh phía Tây Nam là 0,43m, chiều
dài giáp với phần đất của bà Thụy là 25,55m, cạnh còn lại là 25,49m, diện tích
9,5m
2
là có căn cứ.
[2.2.4] Trên phần lối đi chung mà gia đình bà Thụy đang sử dụng có các
công trình gồm: Một phần tường bao, một phần mái tôn lạnh, một phần sân, một
phần nhà kho, một phần nhà 02 tầng liền móng với nhà vệ sinh 02 tầng. Do nhà
02 tầng liền móng với nhà vệ sinh 02 tầng là công trình kiên cố có giá trị lớn, nếu
tháo rời sẽ ảnh hưởng đến toàn bộ công trình, gây thiệt hại lớn; ngoài ra, khi gia
đình bà Thụy xây dựng nhà kiên cố đã được cấp phép xây dựng, và giám sát việc
thi công và theo đề nghị của UBND phường Cộng Hòa là không bắt buộc phải
tháo dỡ nhà 02 tầng liền móng với nhà vệ sinh 02 tầng và tạm giao phần đất đó
cho gia đình bà Thụy sử dụng cho đến khi gia đình bà Thụy tháo dỡ công trình thì
phải trả lại phần đất đó cho Nhà nước quản lý. Xét thấy, khi Nhà nước mở lối đi
chung vào thửa đất nhà ông Chiếm nhưng gia đình ông Chiếm không sử dụng lối
đi này từ năm 1997 và xây dựng công trình bịt lại lối đi này và việc quản lý lỏng
lẻo của chính quyền địa phương nên mới dẫn đến việc gia đình ông Phu, bà Thụy
xây dựng các công trình trên phần lối đi này. Cấp sơ thẩm không buộc bà Thụy
và chị Phương, anh Đông phải tháo dỡ một phần nhà 02 tầng liền móng với nhà
vệ sinh 02 tầng là phù hợp. Tuy nhiên việc cấp sơ thẩm tạm giao phần đất công
có nhà ở và công trình kiên cố cho bà Thụy sử dụng cho đến khi gia đình bà Thụy
tháo dỡ công trình thì phải trả lại phần đất đó cho Nhà nước quản lý là không phù
hợp cần sửa lại theo hướng gia đình bà Thụy sử dụng phần đất có nhà ở, công
trình kiên cố đến khi cơ quan quản lý Nhà nước về đất đai có thẩm quyền sử lý
theo quy định; buộc bà Thụy và chị Phương, anh Đông phải tháo dỡ các công trình
khác thuộc vào lối đi chung trả lại cho lối đi cho Nhà nước quản lý là phù hợp.
[3] Về án phí phúc thẩm: Do sửa bản án sơ thẩm nên anh Mạnh không phải
chịu án phí dân sự phúc thẩm.
[4] Các nội dung khác của bản án không có kháng cáo, kháng nghị, không
được Hội đồng xét xử xem xét giải quyết có hiệu lực pháp luật kể từ ngày hết thời
hạn kháng cáo, kháng nghị.
Vì các lẽ trên,
QUYẾT ĐỊNH:
Căn cứ vào khoản 2 Điều 308, Điều 309, Điều 148 Bộ luật Tố tụng dân sự;
Điều 29 Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường
vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp quản lý và sử dụng án phí
và lệ phí Tòa án, xử:
19
1. Chấp nhận một phần kháng cáo của nguyên đơn Nguyễn Đình Mạnh.
Sửa Bản án dân sự sơ thẩm số 08/2025/DS-ST ngày 11/4/2025 của Tòa án nhân
dân thành phố Chí Linh, tỉnh Hải Dương (nay là Tòa án nhân dân khu vực 9 - Hải
Phòng) như sau:
Căn cứ khoản 47 Điều 3, khoản 8 Điều 26, Điều 236 Luật Đất đai; Điều
147, Điều 148 Bộ luật Tố tụng dân sự; Luật phí, lệ phí; Nghị quyết số
326/2016/UBTVQH14 ngày 30/6/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội quy định
về mức thu, miễn, giảm, thu nộp, quản lý và sử dụng án phí, lệ phí Tòa án, xử:
Chấp nhận một phần yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn Nguyễn Đình Mạnh.
1. Chủ sử dụng thửa đất số 82, tờ bản đồ số 19, tại phường Trần Hưng Đạo,
thành phố Hải Phòng có quyền sử dụng lối đi chung nằm giữa thửa đất số số 61
(thửa đất của gia đình ông Nguyễn Quang Phu) và thửa đất số 120 (của gia đình
bà Hoàng Thị Thụy), đều thuộc tờ bản đồ số 19, tại phường Trần Hưng Đạo, thành
phố Hải Phòng để đi ra đường xóm. Lối đi chung được xác định bởi các điểm từ
B1, B2, B3, B4, B8, B9, B6 đến B1. Trong đó: Phần lối đi do ông Phu, bà Mai
đang sử dụng được xác định bởi các điểm từ B1, B2, B5, B8, B9, B6 đến B1 có
diện tích: 51,6m
2
; phần lối đi do bà Thụy, chị Phương, anh Đông đang sử dụng
được xác định bởi các điểm từ B2, B3, B4, B5 đến B2 có diện tích là 9,5m
2
.
Ghi nhận sự tự nguyện của ông Nguyễn Quang Phu, bà Nguyễn Thị Mai về
việc ông Phu, bà Mai tự tháo dỡ toàn bộ các công trình, vật kiến trúc, cây cối trên
phần đất lối đi chung.
Bà Thụy, chị Phương, anh Đông được tiếp tục sử dụng một phần nhà 02
tầng liền móng với nhà vệ sinh 02 tầng xây dựng trên phần diện tích đất ngõ đi
chung cho đến khi Cơ quan Nhà nước có thẩm quyền quản lý đất đai xử lý theo
quy định của pháp luật. Buộc bà Thụy, chị Phương, anh Đông phải tháo dỡ các
công trình, vật kiến trúc khác trên phần đất lối đi chung.
Chi tiết theo sơ đồ kèm theo bản án.
2. Về chi phí xem xét thẩm định tại chỗ và định giá tài sản:
Anh Nguyễn Đình Mạnh phải chịu chi phí xem xét thẩm định tại chỗ và
định giá tài sản là 5.350.000 đồng. Ông Nguyễn Quang Phu, bà Nguyễn Thị Mai
phải chịu chi phí xem xét thẩm định tại chỗ và định giá tài sản là 2.675.000 đồng.
Bà Hoàng Thị Thuỵ, chị Nguyễn Thị Phương, anh Nguyễn Thành Đông phải chịu
chi phí xem xét thẩm định tại chỗ và định giá tài sản là 2.675.000 đồng.
Buộc ông Nguyễn Quang Phu, bà Nguyễn Thị Mai phải trả cho anh Nguyễn
Đình Mạnh số tiền xem xét thẩm định tại chỗ và định giá tài sản là: 2.675.000
đồng; buộc bà Hoàng Thị Thụy, chị Nguyễn Thị Phương, anh Nguyễn Thành
Đông phải trả cho anh Nguyễn Đình Mạnh số tiền xem xét thẩm định tại chỗ và
định giá tài sản là: 2.675.000 đồng.
Kể từ ngày có đơn yêu cầu thi hành án của người được thi hành án đến khi
thi hành án xong, bên phải thi hành án còn phải chịu khoản lãi của số tiền còn phải
20
thi hành án theo mức lãi suất quy định tại Điều 357, Điều 468 của Bộ luật Dân sự,
trừ trường hợp pháp luật có quy định khác.
3. Về án phí:
- Anh Nguyễn Đình Mạnh phải chịu 300.000đồng án phí dân sự sơ thẩm
được đối trừ vào số tiền 300.000 đồng đã nộp tạm ứng án phí theo Biên lai số
AA/2022/0000685 ngày 17/10/2023 của Chi cục Thi hành án dân sự thành phố
Chí Linh (nay là Phòng Thi hành án dân sự khu vực 9 - Hải Phòng). Anh Mạnh
đã nộp đủ án phí dân sự sơ thẩm.
- Buộc bà Hoàng Thị Thụy, chị Nguyễn Thị Phương, anh Nguyễn Thành
Đông phải chịu 300.000 đồng án phí dân sự sơ thẩm.
- Miễn án phí dân sự sơ thẩm cho ông Nguyễn Quang Phu, bà Nguyễn Thị
Mai
- Anh Nguyễn Đình Mạnh không phải chịu án phí phúc thẩm. Hoàn trả anh
Nguyễn Đình Mạnh 300.000 đồng đã nộp tạm ứng án phí phúc thẩm theo biên lai
số 0002668 ngày 06/5/2025 tại Chi cục Thi hành án dân sự thành phố Chí Linh,
tỉnh Hải Dương (nay là Phòng thi hành án dân sự khu vực 9 - Hải Phòng).
4. Bản án phúc thẩm có hiệu lực pháp luật kể từ ngày tuyên án.
Trường hợp bản án được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật Thi hành
án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có
quyền thoả thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án
hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các Điều 6, 7, 7a và 9 Luật Thi
hành án dân sự; thời hiệu yêu cầu thi hành án được thực hiện theo qui định tại
Điều 30 Luật Thi hành án dân sự.
Nơi nhận:
- VKSND TP. Hải Phòng;
- TAND khu vực 9 - Hải Phòng;
- Phòng THADS khu vực 9- Hải
Phòng;
- Các đương sự;
- Lưu hồ sơ vụ án.
TM. HỘI ĐỒNG XÉT XỬ PHÚC THẨM
THẨM PHÁN – CHỦ TỌA PHIÊN TÒA
Trần Hữu Hiệu
Tải về
Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để tải file. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!
Bản án/ Quyết định cùng đối tượng
1
Ban hành: 25/11/2025
Cấp xét xử: Phúc thẩm
2
Ban hành: 25/11/2025
Cấp xét xử: Phúc thẩm
3
Ban hành: 25/11/2025
Cấp xét xử: Phúc thẩm
4
Ban hành: 25/11/2025
Cấp xét xử: Phúc thẩm
5
Ban hành: 18/11/2025
Cấp xét xử: Phúc thẩm
6
Ban hành: 17/11/2025
Cấp xét xử: Phúc thẩm
7
Ban hành: 17/11/2025
Cấp xét xử: Phúc thẩm
8
Ban hành: 29/10/2025
Cấp xét xử: Phúc thẩm
9
Ban hành: 25/10/2025
Cấp xét xử: Phúc thẩm
10
Ban hành: 21/10/2025
Cấp xét xử: Phúc thẩm
11
Ban hành: 06/10/2025
Cấp xét xử: Phúc thẩm
12
Ban hành: 02/10/2025
Cấp xét xử: Phúc thẩm
13
Ban hành: 30/09/2025
Cấp xét xử: Phúc thẩm
14
Ban hành: 30/09/2025
Cấp xét xử: Phúc thẩm
15
Ban hành: 30/09/2025
Cấp xét xử: Phúc thẩm
16
Ban hành: 30/09/2025
Cấp xét xử: Phúc thẩm
17
Ban hành: 30/09/2025
Cấp xét xử: Phúc thẩm
18
Ban hành: 30/09/2025
Cấp xét xử: Phúc thẩm
19
Ban hành: 30/09/2025
Cấp xét xử: Phúc thẩm
20
Ban hành: 30/09/2025
Cấp xét xử: Phúc thẩm