Bản án số 123/2024/DS-PT ngày 30/08/2024 của TAND tỉnh Bạc Liêu về tranh chấp về quyền sở hữu và các quyền khác đối với tài sản về quyền sở hữu tài sản

  • Thuộc tính
  • Nội dung
  • VB gốc
  • VB liên quan
  • Lược đồ
  • Đính chính
  • Án lệ
  • BA/QĐ cùng nội dung
  • Tải về
Tải văn bản
Báo lỗi
  • Gửi liên kết tới Email
  • Chia sẻ:
  • Chế độ xem: Sáng | Tối
  • Thay đổi cỡ chữ:
    17

Thuộc tính Bản án 123/2024/DS-PT

Tên Bản án: Bản án số 123/2024/DS-PT ngày 30/08/2024 của TAND tỉnh Bạc Liêu về tranh chấp về quyền sở hữu và các quyền khác đối với tài sản về quyền sở hữu tài sản
Quan hệ pháp luật: Tranh chấp về quyền sở hữu và các quyền khác đối với tài sản về quyền sở hữu tài sản
Cấp xét xử: Phúc thẩm
Tòa án xét xử: TAND tỉnh Bạc Liêu
Số hiệu: 123/2024/DS-PT
Loại văn bản: Bản án
Ngày ban hành: 30/08/2024
Lĩnh vực: Dân sự
Áp dụng án lệ:
Đã biết

Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để xem áp dụng án lệ. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!

Đính chính:
Đã biết

Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để xem đính chính. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!

Thông tin về vụ/việc: Thuỷ - Tuyết
Tóm tắt Bản án

Nội dung tóm tắt đang được cập nhật, Quý khách vui lòng quay lại sau!

Tải văn bản

TÒA ÁN NHÂN DÂN CỘNG HÒA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM
TỈNH BẠC LIÊU Độc lập – Tự do – Hạnh phúc
Bản án số: 123/2024/DS-PT
Ngày 30 - 8 - 2024
V/v tranh chấp đòi bồi thường thiệt hại
tài sản, đòi gia cố nhà cửa và hợp đồng
chuyển nhượng quyền sử dụng đất.
NHÂN DANH
NƯỚC CỘNG HÒA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM
TÒA ÁN NHÂN DÂN TỈNH BẠC LIÊU
- Thành phần Hội đồng xét xử phúc thẩm gồm có:
Thẩm phán – Chủ tọa phiên tòa: Giang Thị Cẩm Thúy
Các Thẩm phán: Bà Huỳnh Thị Kiều Anh
Ông Lê Thanh Hùng
- Thư phiên tòa: Ông Nguyễn Văn Phái Thư Tòa án nhân dân
tỉnh Bạc Liêu.
- Đại diện Viện Kiểm sát nhân dân tỉnh Bạc Liêu tham gia phiên tòa:
Nguyễn Nguyệt Hân - Kiểm sát viên.
Ngày 30 tháng 8 năm 2024, tại trụ sở Tòa án nhân dân tỉnh Bạc Liêu xét
xử phúc thẩm công khai vụ án dân sự thụ lý số 70/2024/TLPT-DS ngày 12 tháng
7 năm 2024 về việc tranh chấp đòi bồi thường thiệt hại tài sản, đòi gia cố nhà
cửa và hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất”.
Do Bản án dân sự thẩm số 36/2024/DS-ST ngày 19 tháng 4 năm 2024
của Tòa án nhân dân thị xã Giá Rai, tỉnh Bạc Liêu bị kháng cáo.
Theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử phúc thẩm số 55/2024/QĐ-PT ngày
05 tháng 6 năm 2024, giữa các đương sự:
- Nguyên đơn: Phạm Hồng T, sinh năm 1974. Địa chỉ: Khóm 2,
phường Láng T, thị xã G, tỉnh B.
Người đại diện theo ủy quyền của Phạm Hồng T: Nguyễn Việt Q,
sinh năm 1985. Địa chỉ: Khóm 2, Phường 5, thành phố B, tỉnh B (có mặt).
- Bị đơn: Trần Bạch T1, sinh năm 1951. Địa chỉ: Khóm 2, phường
Láng T, thị xã G, tỉnh B (có mặt).
- Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan:
1. Ông Nguyễn Văn V, sinh năm 1967. Địa chỉ: Khóm 2, phường Láng T,
thị xã G, tỉnh B.
Người đại diện theo ủy quyền của ông Nguyễn Văn V: Nguyễn Việt Q,
sinh năm 1985. Địa chỉ: Khóm 2, Phường 5, thành phố B, tỉnh B (có mặt).
2. Ông Trần Văn T, sinh năm 1954. Địa chỉ: Khóm 2, phường Láng T, thị
xã G, tỉnh B (vắng mặt).
2
- Người kháng cáo: Phạm Hồng T nguyên đơn; ông Nguyễn Văn V
người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan.
NỘI DUNG VỤ ÁN:
Tại đơn khởi kiện, các lời khai, trình bày của nguyên đơn Phạm Hồng
T, người quyền lợi, nghãi vụ liên quan ông Nguyễn Văn V do người đại diện
theo uỷ quyền trình bày: Nguyên đơn Phạm Hồng T được Uỷ ban nhân dân
huyện Giá Rai cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất ngày 12/01/1999 tại thửa
0411, tờ bản đồ số 13, phần đất toạ lạc tại ấp 2, xã Phong Thạnh Đông A, huyện
Giá Rai (Nay khóm 2, phường Láng Tròn, thị Giá Rai), tỉnh Bạc Liêu.
Năm 2001, bà T xin phép xây dựng nhà theo hồ xây dựng ngày 27/7/2001
tiến hành xây dựng ntheo đúng bản vẽ thiết kế sử dụng nhà ổn định sau
khi hoàn thành thi công. Năm 2011 bà Trần Bạch T1 xây dựng nhà một bên
dọng cừ tông, cặp vách nhà T, loại cừ tràm nên tường nhà bà T1 nghiêng
qua nhà bà T, nền nhà bà T sụt lún, bà T thuê thần đèn nâng nhà lên thì phát hiện
5 cây đà ngang nhà T1 xây dựng c lên đà xuôi nhà T. T đề nghị gia
đình bà T1 qua chứng kiến thì con của bà T1 là bà Nh qua xem xét thực tế. Bà T
đề nghị cắt bỏ 5 cây đà ngang c lên đà xuôi nhà của T thì Nh kêu thợ
đang xây nhà Nh cắt bỏ 5 cây đà ngang để T nâng nhà lên. Sau khi gia cố
lại nhà sử dụng một thời gian, nT bị tường, bong gạch dán tường do
tường nhà T1 ngã sát qua tường nhà T; nay tường nhà T1 nghiêng hẳn
qua sát tường nhà bà T có nguy bị sập, vì nhà T1 cao hơn nhà bà T, bà T1
nói khắc phục nhưng không thực hiện. Năm 2015 2016, T khởi kiện tại
Toà án Giá Rai, bà T1 đồng ý khắc phục, nên bà T rút đơn khởi kiện, nhưng đến
nay bà T1 vẫn không tiến hành gia cố nhà.
Hiện tại nền nhà T1 bị sụp, tường nhà ngã sát tường nT, do sau
khi cắt bỏ 5 cây đà ngang c trên đà nhà T do nhà T1 dọng cừ không
đúng quy cách xây dựng nên nguy đổ sập, nhà T1 sử dụng đà nhờ qua
nhà bà T. Nay T yêu cầu buộc Trần Bạch T1 gia cố nhà, bồi thường thiệt
hại số tiền khắc phục sửa chữa nâng chỉnh thẳng căn nhà bà T là 344.382.000
đồng (theo dự toán sửa chữa của Công ty kiểm định xây dựng S đưa ra), không
yêu cầu thẩm định cũng như xác định lại giá chi phí sửa chữa khắc phục thiệt
hại; thống nhất giá chi phí kích nâng, chỉnh thẳng căn nhà do Công ty kiểm định
xây dựng S đưa ra. T không đồng ý theo yêu cầu của phản tố của bị đơn
T1.
B đơn Trần Bạch T1 người quyền lợi, nghĩa vụ liên quan ông
Trần Văn T thống nhất trình bày: Năm 2007, T1 mua đất của ông T, chiều
ngang 5,4m, chiều dài theo giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, khi mua xong
thì T1 giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, phần đất toạ lạc tại ấp 2,
Phong Thạnh Đông A, huyện Giá Rai, tỉnh Bạc Liêu (nay Khóm 2, phường
Láng T, thị xã G, tỉnh B). Năm 2010, thì bà T1 xây dựng nhà hết đất đã mua của
ông T, khi bà T1 xây dựng nhà thì ông V ngăn không cho xây dựng, thời điểm
đó cái đường mươn nằm bên đất của ông V khoảng 3 tấc (30cm), ông V kêu
T1 mua với giá 100.000.000 đồng thì T1 đồng ý mua (lập biên bản
nhận tiền) nhưng T1 không đến quan chuyên môn thẩm quyền để làm
3
thủ tục tách giấy chứng nhận quyền sdụng đất, do nếu không mua đất thì
ông V không cho xây dựng nhà.
Năm 2013 2014, T mướn thần đèn nâng nhà lên, dời nhà sát n
T1 làm cho nhà T1 bị nghiêng. T1 xác định phía gia đình ông V, T
là người nâng nền, tự ý cắt đà nhà bà T1. Tại thời điểm khi nâng nhà thì gia đình
T bao bọc hết xung quanh, không ai ra vào được nên người nào cắt đà T1
không biết. Khi giải quyết tại địa phương thì một số cán bộ tỉnh Bạc Liêu
xuống hoà giải nhưng không lập biên bản. Ông V nói bà T1 đổ đà qua đất ông V
nên ông V thuê thợ cắt đà nhà bà T1. Khi biết gia đình ông V kêu thợ cắt đà nhà
thì T1 đến quan chuyên môn thẩm quyền yêu cầu giải quyết.
T1 chưa yêu cầu phía gia đình ông V bồi thường thì ông V đã khởi kiện T1
đến Toà án, sau đó ông V rút đơn, lý do rút đơn thì bà T1 không biết. Thời điểm
đó các bên tự thoả thuận vợ chồng ông V sẽ trả bà T1 100.000.000 đồng đ
T1 mướn thần đèn nâng nền lên nhưng phía gia đình Thủy không thực hiện
nên tranh chấp cho đến nay. Nay T1 u cầu T, ông V bồi thường chi phí
sữa chữa thiệt hại, kích nâng chỉnh thẳng căn nhà của nhà T1 theo dự toán
sửa chữa của ng ty kiểm định xây dựng S đưa ra là 371.568.000 đồng. Không
yêu cầu thẩm định cũng như xác định lại giá chi phí sửa chữa khắc phục thiệt
hại. Thống nhất giá chi phí kích nâng, chỉnh thẳng căn nhà do Công ty kiểm
định xây dựng S đưa ra. Đối với yêu cầu phản tố về việc yêu cầu bà Thủy trả lại
số tiền 100.000.000 đồng (tiền mua phần đất có diện tích ngang 03 tấc); yêu cầu
T dỡ bỏ hàng rào đã lấn sang nhà T1 bên mặt chợ phía sau, T1 xin rút
yêu cầu.
Tnội dung nêu trên, tại Bản án dân sthẩm số 55/2024/DS-ST ngày
05 tháng 6 năm 2024 của Tòa án nhân dân thị G Rai, tỉnh Bạc Liêu đã
quyết định:
1. Không chấp nhận toàn bộ yêu cầu khởi kiện của Phạm Hồng T về
việc yêu cầu đòi bồi thường thiệt hại về tài sản, với số tiền 344.382.000 đồng
và gia cố nhà cửa đối với bị đơn bà Trần Bạch T1.
2. Chấp nhận yêu cầu phản tố củaTrần Bạch T1 về việc đòi bồi thường
thiệt hại về tài sản. Buộc bà Phạm Hồng T ông Nguyễn Văn V cùng có nghĩa
vụ bồi thường cho bà Trần Bạch T1 số tiền khắc phục, sửa chữa kích nâng chỉnh
thẳng căn nhà 371.568.000 đồng.
3. Đình chỉ yêu cầu phản tố của Trần Bạch T1 về yêu cầu Thủy trả
lại 100.000.000 đồng tiền mua 03 tấc đất; yêu cầu T dỡ bỏ hàng rào đã lấn
sang nhà bà T1 n mặt chợ phía sau.
Ngoài ra, Bản án thẩm còn tuyên về chi phí giám định, chi phí tố tụng,
về án phí, lãi phát sinh giai đoạn thi hành án quyền kháng cáo theo quy định
của pháp luật.
Ngày 06 tháng 6 năm 2024, nguyên đơn Phạm Hồng T người
quyền lợi, nghĩa vụ liên quan ông Nguyễn Văn V kháng cáo cùng nội dung: yêu
cầu cấp phúc thẩm xem xét lại toàn bộ bản án thẩm số 55/2024/DS-ST ngày
05 tháng 6 năm 2024 của Toà án nhân dân thị Giá Rai, tỉnh Bạc Liêu và giải
4
quyết theo hướng chấp nhận toàn bộ yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn
không chấp nhận yêu cầu phản tố của bị đơn.
Tại phiên tòa phúc thẩm, người kháng cáo giữ nguyên yêu cầu kháng cáo.
Đại diện Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Bạc Liêu đề nghị xác minh theo các
nội dung thể hiện tại văn bản số 39/YC-VKS-DS ngày 22/8/2024 để căn cứ
giải quyết vụ án nên không phát biểu ý kiến.
NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN:
Sau khi nghiên cứu toàn bộ các tài liệu chứng cứ có lưu trong hồ sơ vụ án
đã được thẩm tra tại phiên tòa, nghe ý kiến tranh luận của các đương sự, sau khi
thảo luận, nghị án, Hội đồng xét xử nhận định:
[1] Về tố tụng:
[1.1] Xét đơn kháng cáo của Phạm Hồng T, ông Nguyễn Văn V nộp
trong thời hạn luật định nộp tiền tạm ứng án phí phúc thẩm đúng quy định.
Căn cứ vào các Điều 273 Điều 276 của Bộ luật Tố tụng dân sự, được chấp
nhận xét xử theo thủ tục phúc thẩm.
[1.2] Người quyền lợi, nghĩa vụ liên quan ông Trần Văn T đơn yêu
cầu vắng mặt nên Hội đồng xét xử căn cứ Điều 228 của Bộ luật tố tụng dân sự
xử vắng mặt đương sự.
[2] Xét kháng cáo của nguyên đơn Phạm Hồng T người quyền
lợi, nghĩa vụ liên quan ông Nguyễn Văn V yêu cầu cấp phúc thẩm chấp nhận
toàn bộ yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn, nhận thấy:
[2.1] Căn cứ kết quả kiểm định công trình ngày 05/4/2023 của Công ty Cổ
phần kiểm định xây dựng S xác định nguyên nhân gây hỏng công trình nhà
ông bà T1 và bà T như sau:
- Công trình nhà bị đơn Trần Bạch T1: hiện hỏng chủ yếu như:
Tường bị thấm, nứt, nền lát gạch tầng trệt bị nứt lún sụn,…Những hỏng y
cần được sửa chữa để đảm bảo an toàn trong quá trình sản xuất. Để sửa chữa các
hỏng hiện trạng cần thực hiện theo các biện pháp kỹ thuật nêu trong phần
Thuyết minh tại mục A.VI.I, với dự toán sửa chữa 90.690.000 đồng. Công
trình nhà của bị đơn tại thời điểm khảo sát có hiện tượng lún nghiêng về phía A.
Để khôi phục độ thẳng đứng cho công trình, Tổ chức kiểm định kiến nghị dùng
biện pháp kích nâng, chỉnh thẳng; với chi phí kiến nghị tạm tính (bao gồm cả chi
phí sửa chữa những hỏng phát sinh) 280.878.000 đồng. Tổng chi phí dự
toán sửa chữa kích nâng chỉnh thẳng công trình nhà bị đơn là 90.690.000 đồng +
280.878.000 đồng = 371.568.000 đồng.
- Công trình nhà nguyên đơn bà Phạm Hồng T: hiện hỏng chủ yếu
như: ờng bị thấm, nứt; nền lát gạch bị nứt bể; Một s vị trí sàn bị thm,
nứt….Những hỏng này cần được sửa chữa đđảm bảo an toàn trong quá
trình sản xuất. Đsửa chữa các hỏng hiện trạng cần thực hiện theo các biện
pháp kỹ thuật nêu trong phần Thuyết minh tại mục A.VI.I, với dự toán sửa chữa
123.279.000 đồng. Công trình nhà nguyên đơn tại thời điểm khảo sát hiện
tượng lún nghiêng về phía trục B. Để khôi phục độ thẳng đứng cho công trình,
5
tchức kiểm định kiến nghị dùng biện pháp kích nâng, chỉnh thẳng; với chi phí
kiến nghị tạm tính (bao gồm cả chi phí sửa chữa những hư hỏng phát sinh)
221.103.000 đồng. Tổng chi phí dự toán sửa chữa ch nâng 344.382.000
đồng.
- ng ty Cổ phần kiểm định xây dựng S (SCQC) kiến nghị tỷ lệ nguyên
nhân gây hiện tượng lún nghiêng, hư hỏng hiện 02 công trình như sau:
+ Nhà của b đơn:
Nguyên nhân do bản thân (do bản thân bị lún nghiêng, do cắt bỏ phần
móng nhà bị đơn đè lên phần đà kiềng dọc nhà nguyên đơn): tỷ lệ 70%.
Nguyên nhân do ảnh hưởng tác động từ quá trình thi công kích nâng nhà
nguyên đơn, tỷ lệ 30%.
+ Nhà của nguyên đơn:
Nguyên nhân: do bản thân (quá trình công kích nâng), tỷ lệ 60%.
Nguyên nhân: do ảnh hưởng tác động từ hiện tượng lún nghiêng của nhà
bị đơn tỷ lệ 40%.
Nguyên đơn, bị đơn thống nhất kết quả giám định thống nhất chi phí
dự toán sửa chữa kích nâng của Công ty Cổ phần kiểm định xây dựng S đưa
ra và yêu cầu T án sử dụng làm căn cứ giải quyết vụ án.
[2.2] Xét thấy, hồ thiết kế xây dựng nhà của nguyên đơn 1 trệt, 1
lầu phù hợp với Biên bản thẩm định kết quả giám định của Công ty Cổ phần
kiểm định xây dựng S; hồ thiết kế xây dựng của bị đơn 1 trệt 1 gác, tại
Biên bản thẩm định kết quả giám định Công ty Cổ phần kiểm định xây dựng
S cho thấy hiện trạng nhà bị đơn 1 trệt 02 lầu.Tại phiên toà, bà T1 thừa
nhận nhà xây dựng không đúng thiết kế được phép xây dựng nhưng khi làm
nhà bà vẫn làm phần móng nhà đảm bảo chịu lực của căn nhà có kết cấu 1 trệt, 2
lầu. không tài liệu, chứng cứ chứng minh việc xây móng nhà đám bảo
chất lượng nhưng thực tế từ khi xây nhà cho đến khi ông V, T sửa nâng nhà
thì nhà của không lún, nghiêng. Như vậy, nhà bị đơn Trần Bạch T1 xây
dựng nhà không đúng thiết kế được phép xây dựng, chính T1 thừa nhận s
việc này. Do đó, nguyên đơn cho rằng căn nhà của bị đơn xây dựng không đúng
thiết kế không đảm bảo chất lượng ảnh hưởng đến chất lượng căn ncủa
nguyên đơn sở. Mặt khác, tại Kết quả giám định thể hiện nguyên nhân
ncủa bị đơn Trần Bạch T1 hỏng gồm: Nguyên nhân do bản thân (do
bản thân blún nghiêng, do cắt bỏ phần móng nhà bị đơn đè lên phần đà kiềng
dọc nhà nguyên đơn): tỷ lệ 70%. Như vậy, trong 70% nguyên nhân này gồm 2
nội dung là tự thân nhà bị đơn bị lún nghiêng và do cắt bỏ phần móng nhà bị đơn
đè lên phần đà kiềng dọc n nguyên đơn. Kết luận này cho thấy, nhà bị đơn xây
dựng sau nhà nguyên đơn nhưng nhà bị đơn xây dng lại phần móng nhà đè
lên phần đà kiềng dọc nhà nguyên đơn. Trong khi, chính bị đơn xác định: nhà bị
đơn xây dựng cách nhà nguyên đơn khoảng 5 tấc. Điều này thhiện khi xây
dựng nhà bị đơn đã đổ phần đà ngang gác lên phần đà dọc nhà nguyên đơn (gác
đà nhờ), tạo điểm chịu lực cho nhà nguyên đơn nên nhà nguyên đơn hiện
tượng nghiêng lún về hướng nhà bị đơn khi chưa kích nâng nhà nguyên đơn năm
2013 khi cắt rời phần đà đè lên thì tthân nhà bị đơn không còn điểm chịu
6
lực nên tự lún nghiêng ảnh hưởng đến nhà của nguyên đơn nghiêng theo n
kết luận giám định ghi nhận. Như vậy, bị đơn phải chịu bồi thường thiệt hại
phần 40% trong nguyên nhân nhà nguyên đơn hỏng do ảnh hưởng tác động
từ hiện tượng lún nghiêng của nhà bị đơn. Còn lại 60% nguyên nhân do bản thân
(quá trình công kích nâng) nhà nguyên đơn thì nguyên đơn phải chịu nên yêu
cầu khởi kiện của nguyên đơn không được chấp nhận đối với thiệt hại 60% trong
tổng số tiền dự toán khắc phục thiệt hại là: 344.382.000 đồng x 60% =
206.629.200 đồng yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn được chấp nhận
137.752.800 đồng nên buộc bị đơn Trần Bạch T1 người quyền lợi,
nghĩa vụ liên quan ông Trần Văn T nghĩa vụ bồi thường cho nguyên đơn bà
Phạm Hồng T số tiền 137.752.800 đồng.
[2.3] Xét kháng cáo của nguyên đơn Phạm Hồng T người quyền
lợi, nghĩa vụ liên quan ông Nguyễn Văn V yêu cầu cấp phúc thẩm không chấp
chận yêu cầu phản tố của b đơn bà Trần Bạch T1, nhận thấy:
T1 phản tyêu cầu T, ông V bồi thường chi phí sửa chữa thiệt hại,
kích nâng chỉnh thẳng căn nhà của nhà bà T1 theo dự toán sửa chữa của Công ty
kiểm định xây dựng S đưa ra) 371.568.000 đồng. Như phân tích nêu trên về
kết quả giám định xác định nguyên nhân gây ra thiệt hại của bị đơn gm 2
nguyên nhân chính: Nguyên nhân do tự thân (do bản thân bị lún nghiêng, do cắt
bỏ phần móng nhà bị đơn đè lên phần đà kiềng dọc nhà nguyên đơn): tỷ lệ 70%
thì bị đơn phải chịu do nhà bị đơn thi công nhà gác nhờ đà nhà nguyên đơn
không sự đồng ý của nguyên đơn nên bị đơn phải tự chịu thiệt hại, do đó
yêu cầu phản tố về thiệt hại này không được chấp nhận; đối với nguyên nhân do
ảnh hưởng tác động từ qtrình thi công kích nâng nhà nguyên đơn, tỷ lệ 30%
là có căn cứ nên được chấp nhận, cụ thể: tổng số tiền dự toán khắc phục thiệt hại
371.568.000 đồng x 30% = 111.470.400 đồng, nguyên đơn Phạm Hồng T,
người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan ông Nguyễn Văn V phải nghĩa vụ bồi
thường thiệt hại cho bị đơn là 111.470.400 đồng; không chấp nhận yêu cầu phản
tố của bị đơn số tiền 260.097.600 đồng.
[3] Đối với yêu cầu xác minh của Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Bạc Liêu,
nhận thấy: Trước ngày mở phiên toà đã văn bản đề nghị xác minh sự việc đà
ngang nhà T1 gác lên đà dọc nhà T1 như thế nào xác minh đơn vị thi
công kích nâng, cải tạo, sửa chữa căn nhà của T đảm bảo đúng quy định
hay không tại phiên toà đại diện viện kiểm sát vẫn giữ nguyên đề nghị xác
minh. Nhận thấy, theo đề nghị xác minh của Viện kiểm sát làm phát sinh chi phí
giám định. Trong khi, các bên đương sự thống nhất với kết quả giám định của
Công ty Cổ phần kiểm định xây dựng S (SCQC), không yêu cầu giám định lại
công trình bnghiêng lún, hỏng, cùng thống nhất Toà án sử dụng kết quả
giám định làm căn cứ giải quyết vụ án. Mặt khác, nguyên đơn xác định khi nâng
chỉnh căn n thì nguyên đơn không xin phép, hồ nâng chỉnh đã thất lạc
không còn. Do đó, đề nghị xác minh của Viện kiểm sát là không thực hiện được.
vậy, không có cơ sở để chấp nhận.
[3] Từ những phân tích trên, Hội đồng xét xcăn cứ chấp nhận một
phần kháng cáo của Phạm Hồng T, ông Nguyễn Văn V; không chấp nhận đề
nghị xác minh của Kiểm sát viên. Sửa một phần Bản án dân sự thẩm số
7
55/2024/DS-ST ngày 05/6/2024 của a án nhân dân thGiá Rai, tỉnh Bạc
Liêu.
[4] Các phần khác của bản án sơ thẩm không bị kháng cáo, kháng nghị có
hiệu lực pháp luật nên Hội đồng xét xử không đặt ra xem xét.
[5] Về chi phí kiểm định: Yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn Phạm
Hồng T được chấp nhận một phần theo t lệ chấp nhận 40%, không chấp nhận
60%; đối với yêu cầu phản tố của bị đơn không được chấp nhận 70%, được chấp
nhận 30% nên nguyên đơn phải chịu 40% chi phí kiểm định (tương đương số
tiền 48.000.000 đồng), bị đơn phải chịu 60% chi phí kiểm định (tương đương số
tiền 72.000.000 đồng). Nguyên đơn Phạm Hồng T đã dự nộp 120.000.000
đồng, đã chi phí hết nên buộc bị đơn Trần Bạch T1 nghĩa vụ hoàn trả
nguyên đơn Phạm Hồng T số tiền 72.000.000 đồng, nộp tại Chi cục Thi hành
án dân sự tỉnh Bạc Liêu.
[6] Về án phí:
[6.1] Án phí dân sthẩm giá ngạch: Do sửa một phần bản án
thẩm, chấp chận một phần yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn, không chấp nhận
một phần yêu cầu phản tố của bị đơn nên sửa về án phí sơ thẩm có giá ngạch các
bên phải chịu, cụ thể:
- Nguyên đơn bà Phạm Hồng T phải chịu án phí đối với yêu cầu khởi kiện
không được chấp nhận 10.331.460 đồng, đối trừ số tiền T đã dự nộp
300.000 đồng theo Biên lai thu số 0003703 ngày 11/10/2021 tại Chi cục thi hành
án dân sự thị xã Giá Rai,Phạm Hồng T còn phải nộp thêm số tiền 10.031.460
đồng. T, ông V phải chịu án phí phần yêu cầu phản tố của bị đơn được chấp
nhận là 5.573.500 đồng (mỗi người phải nộp 2.786.750 đồng).
- Bà Trần Bạch T1, ông Trần Văn T được miễn án phí do có đơn và thuộc
trường hợp người cao tuổi.
[6.2] Án phí dân sự phúc thẩm: Phạm Hồng T ông Nguyễn Văn V
không phải chịu án phí phúc thẩm. T đã dự nộp tạm ứng án phí phúc thẩm số
tiền 300.000 đồng (ông V nộp thay) theo Biên lai thu số 0008898 ngày
10/6/2024 tại Chi cục Thi hành án dân sự thị Giá Rai được hoàn lại đủ. Ông
V đã dự nộp tạm ứng án phí phúc thẩm số tiền 300.000 đồng theo Biên lai thu số
0008900 ngày 11/6/2024 tại Chi cục Thi hành án dân sự thị Giá Rai được
hoàn lại đủ.
Vì các lẽ trên,
QUYẾT ĐỊNH
Căn cứ vào khoản 2 Điều 308 Bộ luật Tố tụng dân sự;
Chấp nhận một phần kháng cáo của Phạm Hồng T, ông Nguyễn Văn
V. Sửa một phần Bản án dân sự thẩm số 55/2024/DS-ST ngày 05 tháng 6
năm 2024 của Tòa án nhân dân thị xã Giá Rai, tỉnh Bạc Liêu.
Áp dụng khoản 6 Điều 26, điểm a khoản 1 Điều 35, điểm a khoản 1 Điều
39, điểm c khoản 1 Điều 217, Điều 244 Bộ luật tố tụng dân sự năm 2015; Điều
8
164, 170, 174, 589, 605 Bộ luật dân sự năm 2015; khoản 2 Điều 26 Nghị quyết
số 326/2016/NQUBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội
Nước Cộng Hòa Xã Hội Chủ Nghĩa Việt Nam.
Tuyên xử:
1. Chấp nhận một phần yêu cầu khởi kiện của Phạm Hồng T về việc
đòi bị đơn Trần Bạch T1 bồi thường thiệt hại về tài sản gia cố nhà cửa đối
với số tiền 137.752.800 đồng.
Buộc bị đơn bà Trần Bạch T1 người quyền lợi, nghĩa vụ liên quan
ông Trần Văn T liên đới bồi thường thiệt hại cho nguyên đơn Phạm Hồng T
số tiền 137.752.800 đồng (một trăm ba mươi bảy triệu bảy trăm năm mươi hai
ngàn tám trăm đồng).
2. Không chấp nhận một phần yêu cầu khởi kiện của Phạm Hồng T về
việc đòi bị đơn bà Trần Bạch T1 bồi thường thiệt hại về tài sản và gia cố nhà cửa
đối với số tiền 206.629.200 đồng.
3. Chấp nhận một phần yêu cầu phản tố của bị đơn Trần Bạch T1 về
việc đòi Phạm Hồng T bồi thường thiệt hại về tài sản số tiền 111.470.400
đồng.
Buộc Phạm Hồng T ông Nguyễn Văn V liên đới bồi thường cho
Trần Bạch T1 số tiền khắc phục, sửa chữa kích nâng chỉnh thẳng căn nhà số tiền
111.470.400 đồng (một trăm mười một triệu, bốn trăm bảy mươi ngàn bốn trăm
đồng).
4. Không chấp nhận một phần yêu cầu phản tố của Trần Bạch T1 về
việc đòi nguyên đơn Phạm Hồng T bồi thường thiệt hại về tài sản đối với số
tiền 260.097.600 đồng.
5. Kể từ ngày có đơn yêu cầu thi hành án của người được thi hành án, cho
đến khi thi hành xong tất cả các khoảng tiền, hàng tháng bên phải thi hành án
còn phải chịu thêm khoản tiền lãi của số tiền còn phải thi hành án theo quy định
tại khoản 2 Điều 468 Bộ Luật dân sự.
6. Đình chỉ yêu cầu phản tố của Trần Bạch T1 về yêu cầu Thủy trả
lại 100.000.000 đồng tiền mua 03 tấc đất; yêu cầu T dỡ bỏ hàng rào đã lấn
sang nhà bà T1 n mặt chợ phía sau.
7. Về chi phí kiểm định: Tổng chi phí kiểm định 120.000.000 đồng.
Nguyên đơn T phải chịu số tiền 48.000.000 đồng; bị đơn Trần Bạch T1
phải chịu số tiền 72.000.000 đồng. Nguyên đơn bà Phạm Hồng T đã dự nộp
120.000.000 đồng, đã chi phí xong nên buộc bị đơn bà Trần Bạch T1 nghĩa
vụ hoàn trả nguyên đơn Phạm Hồng T số tiền 72.000.000 đồng, nộp tại Chi
cục Thi hành án dân sự tỉnh Bạc Liêu.
8. Về chi phí xem xét, thẩm định tại chỗ định giá đối với yêu cầu phản
tố của bị đơn là 2.217.765 đồng, bà T1 tự nguyện chịu và đã nộp xong.
9. Về án phí:
9
9.1. Án phí dân sự sơ thẩm có giá ngạch:
- Nguyên đơn bà Phạm Hồng T phải chịu án phí đối với yêu cầu khởi kiện
không được chấp nhận 10.331.460 đồng, đối trừ số tiền T đã dự nộp
300.000 đồng theo Biên lai thu số 0003703 ngày 11/10/2021 tại Chi cục thi hành
án dân sự thị Giá Rai thì Phạm Hồng T n phải nộp thêm số tiền
10.031.460 đồng. Bà T, ông V phải chịu án phí phần yêu cầu phản tố của bị đơn
được chấp nhận là 5.573.500 đồng (mỗi người phải nộp 2.786.750 đồng).
- Bà Trần Bạch T1, ông Trần Văn T được miễn án phí theo quy định.
9.2. Án phí dân sự phúc thẩm: Phạm Hồng T và ông Nguyễn Văn V
không phải chịu án phí phúc thẩm. T đã dự nộp tạm ứng án phí phúc thẩm số
tiền 300.000 đồng (ông V nộp thay) theo Biên lai thu số 0008898 ngày
10/6/2024 tại Chi cục Thi hành án dân s thị Giá Rai được hoàn lại đủ. Ông
V đã dự nộp tạm ứng án phí phúc thẩm số tiền 300.000 đồng theo Biên lai thu số
0008900 ngày 11/6/2024 tại Chi cục Thi hành án dân sự thị Giá Rai được
hoàn lại đủ.
10. Trường hợp Bản án, Quyết định được thi hành theo quy định tại Điều
2 Luật Thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi
hành án dân sự quyền thỏa thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự
nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các Điều 6,
7 9 Luật Thi hành án dân sự; thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy
định tại Điều 30 Luật thi hành án dân sự.
Bản án phúc thẩm có hiệu lực pháp luật kể từ ngày tuyên án.
Nơi nhn TM. HỘI ĐỒNG XÉT XỬ PHÚC THẨM
- TANDCC tại TP. Hồ C Minh; THẨM PHÁN CHỦ TỌA PHIÊN A
- VKSND tỉnh Bạc Lu; đã ký
- TAND thị G Rai;
- CCTHADS thị xã G Rai;
- Đương sự;
- Lưu, THCTP.
Giang Thị Cẩm Thúy
Tải về
Bản án số 123/2024/DS-PT Bản án số 123/2024/DS-PT

Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để tải file. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!

Bản án số 123/2024/DS-PT Bản án số 123/2024/DS-PT

Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để tải file. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!

Bản án/ Quyết định cùng đối tượng

Bản án cùng lĩnh vực

Bản án mới nhất