Bản án số 119/2025/DS-PT ngày 13/06/2025 của TAND tỉnh Bình Thuận về tranh chấp quyền sử dụng đất

  • Thuộc tính
  • Nội dung
  • VB gốc
  • VB liên quan
  • Lược đồ
  • Đính chính
  • Án lệ
  • BA/QĐ cùng nội dung
  • Tải về
Tải văn bản
Báo lỗi
  • Gửi liên kết tới Email
  • Chia sẻ:
  • Chế độ xem: Sáng | Tối
  • Thay đổi cỡ chữ:
    17

Thuộc tính Bản án 119/2025/DS-PT

Tên Bản án: Bản án số 119/2025/DS-PT ngày 13/06/2025 của TAND tỉnh Bình Thuận về tranh chấp quyền sử dụng đất
Quan hệ pháp luật: Tranh chấp quyền sử dụng đất
Cấp xét xử: Phúc thẩm
Tòa án xét xử: TAND tỉnh Bình Thuận
Số hiệu: 119/2025/DS-PT
Loại văn bản: Bản án
Ngày ban hành: 13/06/2025
Lĩnh vực: Dân sự
Áp dụng án lệ:
Đã biết

Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để xem áp dụng án lệ. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!

Đính chính:
Đã biết

Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để xem đính chính. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!

Thông tin về vụ/việc: Không chấp nhận kháng cáo
Tóm tắt Bản án

Nội dung tóm tắt đang được cập nhật, Quý khách vui lòng quay lại sau!

Tải văn bản

TÒA ÁN NHÂN DÂN
TỈNH BÌNH THUẬN
CỘNG HÒA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM
Độc lập - Tự do - Hạnh phúc
Bản án số: 119/2025/DS-PT
Ngày: 13-6-2025
V/v Tranh chấp quyền sử
dụng đất
NHÂN DANH
NƯỚC CỘNG HÒA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM
TÒA ÁN NHÂN DÂN TỈNH BÌNH THUẬN
- Thành phần Hội đồng xét xử phúc thẩm gồm có:
Thẩm phán - Chủ tọa phiên tòa: Ông Nguyễn Lê Phương.
Các Thẩm phán:Nguyễn Thị Hồng Hạnh và bà Phạm Phong Lan.
- Thư ký phiên tòa: Bà Cao Thị Mai là Thẩm tra viên Tòa án nhân dân tỉnh
Bình Thuận.
- Đại diện Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Bình Thuận tham gia phiên tòa:
Bà Trần Thị Kim Trang - Kiểm sát viên.
Trong các ngày 11 và 13 tháng 6 năm 2025, tại trụ sở Tòa án nhân dân tỉnh
Bình Thuận t xử phúc thẩm công khai vụ án thụ lý số 166/2024/TLPT-DS ngày
09/10/2024 về việc: “Tranh chấp quyền sử dng đất”.
Do Bản án dân sự thẩm số 03/2024/DS-ST ngày 31 tháng 01 năm 2024
của Toà án nhân dân huyện Bắc Bình bị kháng cáo. Theo Quyết định đưa vụ án
ra xét xphúc thẩm số 250/2024/QĐ-PT ngày 21 tháng 11 năm 2024; Quyết định
hoãn phiên tòa phúc thẩm số 192/2024/QĐ-PT ngày 24/12/2024, Thông báo về
việc mở lại phiên tòa phúc thẩm số 60/2025/TB-TA ngày 05/5/2025, Thông báo
về việc thay đổi thời gian xét xử số 73/2025/TB-TA ngày 28/5/2025 của Tòa án
nhân dân tỉnh Bình Thuận, giữa các đương sự:
1. Nguyên đơn: Ông Trần Phước H, sinh năm 1955; địa chỉ: 0 đường số D,
khu phố F, phường H, quận T, Thành phố Hồ Chí Minh. (Vắng mặt)
Người đại diện theo ủy quyền của nguyên đơn: Ông Trần Phước B, sinh năm
1952; địa chỉ: Thôn B, xã P, huyện B, tỉnh Bình Thuận. (Có mặt)
2. Bị đơn: Ông Trần H1, sinh năm 1962; địa chỉ: Thôn B, xã P, huyện B,
Bình Thuận. (Có mặt)
Người bảo vệ quyền lợi ích hợp pháp của ông Trần H1: Ông Nguyễn
Hùng Q - Luật sư thuộc Công ty L3 - Đoàn Luật sư Thành phố H; địa chỉ: Số D
(tầng A) N, phường T, thành phố T, Thành phố Hồ Chí Minh. (Có mặt)
2
3. Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan:
3.1 Bà Nguyễn Thị N, sinh năm 1968; địa chỉ: Thôn B, xã P, huyện B, Bình
Thuận. (Có mặt)
Người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của Nguyễn Thị N: Ông Nguyễn
Hùng Q - Luật sư thuộc Công ty L3 - Đoàn Luật sư Thành phố H. (Có mặt)
3.2 Ủy ban nhân dân huyện B; địa chỉ: Thị trấn C, huyện B, tỉnh Bình Thuận.
(Vắng mặt)
4. Người làm chứng:
4.1. Bà Trần Thị L, sinh năm 1938; (Có mặt)
4.2. Bà Nguyễn Thị H2, sinh năm 1950; (Có mặt)
4.3. Ông Trần Phước B, sinh năm 1952; (Có mặt)
4.4. Ông Trần P, sinh năm 1957; (Có mặt)
Cùng địa chỉ: Thôn B, xã P, huyện B, tỉnh Bình Thuận
4.5. Nguyễn Thị Ngọc Ú, sinh năm 1959; địa chỉ: Thôn B, xã P, huyện
B, tỉnh Bình Thuận. (Có mặt)
4.6. Ông Phan Ngọc L1, sinh năm 1949 Nguyễn Thị H3 , sinh năm
1948; cùng địa chỉ: Thôn T, xã H, huyện B, tỉnh Bình Thuận. (Có mặt)
Người kháng cáo: Bị đơn - ông Trần H1 người có quyền lợi, nghĩa vụ
liên quan – bà Nguyễn Thị N.
NỘI DUNG VỤ ÁN:
* Tại đơn khởi kiện ngày 05/01/2015 và đơn khởi kiện bổ sung, nguyên
đơn ông Trần Phước H do ông Trần Phước B đại diện trình bày: Vào năm
1953, cha của ông H là cụ Trần B1 có nhận sang nhượng lại của ông Ung Văn C
ước độ diện tích đất 700m
2
với giá 600 đồng. Trên phần đất 700m
2
một căn
nhà ba gian vách đất và 05 ngôi mcủa dòng họ chủ đất. Sau khi mua, cha ông H
tiếp tục khai phá xác định ranh giới thửa đất tứ cận như sau: Đông giáp
Quốc lộ A, Nam giáp đường mòn giao Quốc lộ cũ, Tây giáp nhà bà Tăng Thị C1,
Bắc giáp đất chuồng ông Văn Ý, đất thuộc thôn B, P. Đến năm 1978,
cha mẹ ông đlại di chúc cho bốn người con là Trần Thị L, Trần Phước B,
Trần P và ông H. Trong đó, ông H được chia diện tích là 234m
2
có tứ cận: Đông
giáp Quốc lộ A, Nam giáp đường mòn giao Quốc lộ cũ, Tây giáp nhà bà Nguyễn
Thị H4 Nguyễn Thị H2, B2 giáp nông Trần H1. Trong phần diện tích đất
của ông 05 ngôi mộ bằng đá vôi của chủ đất, đã bốc đi cốt năm 1991, nhưng
phần mvẫn còn 2/3 đá vôi, năm 2000 ông phải thuê người dọn dẹp, di dời đi nơi
khác. Trong diện tích đất này, ông đã cho Nguyễn Thị H2 một con đường đi
rộng 1m, dài 12m. Đến năm 1991, nhà nước đo lại diện ch đất của ông 378m
2
,
3
thuộc tờ bản đồ số 1, bản đồ 299, thửa số 449. Đến năm 2012, xã P đo lại theo dự
án I thì diện tích đất của ông còn lại là 261,6m
2
. Đến năm 2013, Ủy ban nhân dân
(UBND) huyện B cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất cho ông Trần H1. Nay,
ông H yêu cầu ông Trần H1, bà Nguyễn Thị N phải trả diện tích 261,6m
2
và hủy
giấy chứng nhận quyền sử dụng đất số BQ 199758 được UBND huyện B cấp ngày
14/10/2013 cho ông Trần H1, bà Nguyễn Thị N.
Sau khi Tòa án tiến hành xem xét, thẩm định tại chỗ đất tranh chấp, xác định
diện tích đất tranh chấp 227,4m
2
. vậy, ông H yêu cầu ông Trần H1, bà
Nguyễn Thị N phải trả diện tích đất 227,4m
2
theo Giấy chứng nhận quyền sử dụng
đất số BQ 199758 được UBND huyện B cấp ngày 14/10/2013 cho ông Trần H1,
Nguyễn Thị N đề nghị Hội đồng xét xử hủy Giấy chứng nhận quyền sử dụng
đất số BQ 199758 được UBND huyện B cấp ngày 14/10/2013 cho ông Trần H1,
Nguyễn Thị N.
* Quá trình giải quyết vụ án bị đơn - ông Trần H1 trình bày: m 1982,
vợ chồng ông có cất một căn nhà tôn, vách đất sát ranh khu đất mồ mả của dòng
họ nhà bà Hồ Thị L2 (bà M). Đến năm 1993, dòng họ nhà bà L2 bốc những ngôi
mộ này đi nơi khác (trong khi bốc cốt dòng họ nhà bà L2 ăn ở nhà ông) và bà L2
dặn con dâu tên Nguyễn Thị Ngọc Ú đã cho đất cho vợ chồng ông rồi không
được lấy lại và sau đó bà Ú có làm giấy cho ông khu đất trên. Trên đất này có hai
cây me cổ thụ và những cây bụi rậm, sau đó ông phát dọn đến năm 2002 thì hoàn
tất. Đến năm 2013, ông đi đăng kýđược UBND huyện B cấp giấy chứng nhận
quyền sử dụng đất số BQ 199758 với diện tích 261,6m
2
. Quá trình giải quyết vụ
án, xác định diện tích đất tranh chấp là 227,4m
2
.
Nay, ông Trần Phước H yêu cầu
ông phải trả 227,4m
2
theo Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất số BQ 199758
được UBND huyện B cấp ngày 14/10/2013 và hủy giấy chứng nhận quyền sử
dụng đất nói trên ông không đồng ý.
* Quá trình giải quyết vụ án tại phiên tòa người có quyền lợi, nghĩa
vụ liên quan - bà Nguyễn Thị N trình bày: Thống nhất vi ý kiến của chồng
ông Trần H1 về nguồn gốc và quá trình sdụng đất tranh chấp. Bà N đề nghị Tòa
án xem xét bác toàn bộ yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn ông Trần Phước H.
* Luật sư bảo vquyền lợi ích hợp pháp của ông Trần H1
Nguyễn Thị N: Việc ông Trần H1 Nguyễn Thị N sử dụng đất đang tranh
chấp hợp pháp đã được UBND huyện B cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng
đất theo đúng quy định. Việc nguyên đơn khởi kiện mà không cung cấp được tài
liệu, chứng cứ để chứng minh cho yêu cầu khởi kiện của mình chỉ cung cấp
một số giấy tờ không giá trị pháp lý. Nguyên đơn cũng không phải người
quản lý, sử dụng đất ổn định và không đăng ký kê khai cấp giấy chứng nhận theo
quy định của pháp luật đất đai qua các thời kỳ. Do đó, đề nghị HĐXX bác toàn
bộ yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn.
4
* UBND huyện B trình bày: Diện tích đất tranh chấp 261,6m
2
tại: thôn B,
P, huyện B, tỉnh Bình Thuận đã được UBND huyện B cấp giấy chứng nhận
quyền sử dụng đất số BQ 199758 ngày 14/10/2013 cho ông Trần H1 Nguyễn
Thị N. Việc UBND huyện B cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất cho ông
Trần H1 và bà Nguyễn Thị N là do UBND xã P hồ ban đầu xác định nguồn
gốc đất. Nay, UBND xã P xác định lại nguồn gốc đất tranh chấp là của ông Trần
B1 nhận chuyển nhượng lại từ ông Ung Văn C ông B người trực tiếp quản
lý, ông Trần H1 chỉ quản diện tích đất tranh chấp 216,6m
2
sau khi được cấp
giấy chứng nhận quyền sử dụng. vậy, việc UBND huyện B cấp giấy chứng
nhận quyền sử dụng đất số BQ 199758 ngày 14/10/2013 cho ông Trần H1
Nguyễn Thị N không đúng đối tượng. Từ những lý do trên, đề nghị Hội đồng
xét xử căn cứ vào quy định của pháp luật đất đai và các quy định của pháp luật
liên quan để xem xét giải quyết v án đúng theo quy định của pháp luật.
* Quá trình giải quyết vụ án và ti phiên tòa sơ thẩm, những người làm
chứng trình bày:
- Trần Thị L: Cha mẹ bà L cho một đất giáp ranh với đất tranh
chấp, sau đó bà cùng với con trai là ông Trần H1 cất nhà ở trên đó. Giáp ranh với
đất của bà là đất mồ mả, sau khi người ta bốc mộ đi có cho lại cho con bà là Trần
H1.
- Bà Nguyễn Thị Ngọc Ú: Năm 1993, mẹ chồng bà thông báo cho con cháu
trong họ hàng đi bốc những ngôi mộ tại đất tranh chấp chuyển vào khu động đỏ
chôn cất. Do trong quá trình bốc mộ, ông H1 phụ giúp nên mẹ chồng cho
ông H1 khu đất đang tranh chấp. Việc mẹ chồng cho chỉ cho bằng miệng,
sau nay bà có làm giấy cho đất cho ông Trần H1 khu đất trên.
- Ông Nguyễn Hồng A, ông Phan Ngọc L1, bà Nguyễn Thị N1, ông Nguyễn
Văn T: Thống nhất với ý kiến trình bày của bà Nguyễn Thị Ngọc Ú.
- Ông Trần Văn P1: Nguồn gốc đất tranh chấp của gia đình ông Trần B1
mua lại của ông C chia cho ông Trần Phước H. Tháng 6 năm 2000 ông B
thuê ông và một số người khác di dời 05 ngôi mả vôi vào trong động cát đỏ. Ông
03 người khác di dời mả vôi, còn ông M1 người được ông B thuê chặt cây
me.
- Ông Phan Văn M1: Ông không biết gì về nguồn gốc đất tranh chấp, nhưng
còn nhớ là ông B có thuê ông chặt hàng me trên đất tranh chấp để hầm than. Trên
đất có 05 cái mã vôi và khoảng 2, 3 cây me.
- Bà Nguyễn Thị H2: Nguồn gốc đất tranh chấp là của gia đình ông Trần B1
cha của ông Trần Phước B. Trên đất một số ngôi mộ vôi, ông B là người trực
tiếp quản khu đất đang tranh chấp. Sau khi các ngôi mộ được bốc đi, ông B tiếp
tục quản lý, khi bà H4 xây nhà có lấn con đường đi, không có đường đi nên có
5
đến gặp ông B để xin đường đi như hiện nay. H2 đến gặp ông B xin đất để mở
lối đi là vì bà thấy ông B là người quản lý đất này.
- Bà Nguyễn Thị H4: Nguồn gốc đất tranh chấp là của gia đình ông Trần B1
cha của ông Trần Phước B. Trên đất tranh chấp trước đây một sngôi mộ
vôi. Ông B người trực tiếp quản khu đất đang tranh chấp từ trước cho đến
khi xảy ra tranh chấp. Ngoài ông B ra, bà không thấy ai quản lý đất này, vì khi bà
H2 xây nhà có đến gặp ông B xin đất để đổ vật liệu xây dựng.
- Ông Trần P: Nguồn gốc đất tranh chấp của cha ông mua của ông Ung
Văn C. Quá trình sử dụng, cha mẹ ông có khai phá thêm và có phân ranh rõ ràng
và trước kia cha ông có sử dụng đất tranh chấp nêu trên làm sân phơi lúa trồng
một số cây ăn trái. Một thời gian sau, cha ông chia đều cho các con, cụ thể: ông
nhà thờ, phía trước nhà thờ là đất của ông P, hướng đông nhà ông P là đất của bà
L và hướng đông nhà bà L là đất (đất một số ngôi mộ) của ông H. Phần đất của
ông H được chia, ông người trực tiếp quản trông coi dùm cho ông H. Quá
trình quản lý trông coi, do phần đất có một số ngôi mộ vôi nên ông chỉ phát dọn
cho sạch sẽ. Sau khi các ngôi mộ được bốc đi, ông tiếp tục thuê người dọn dẹp
cây cối và di chuyển một số mảnh đá vôi đi nơi khác và trực tiếp quản lý cho đến
khi xảy ra tranh chấp. Hình thể thửa đất tranh chấp có sự thay đổi so với trước, vì
sau khi các ngôi mộ vôi được bốc đi, gia đình H2 xây dựng nlấn sang
một ít, gia đình H4 không lối đi nên đến gặp ông để xin mở lối đi như
hiện nay.
Tại Bản án dân sự thẩm số 03/2024/DS-ST ngày 31 tháng 01 năm 2024
của Toà án nhân dân huyện Bắc Bình quyết định:
Căn cứ vào: Khoản 9 Điều 26, khoản 1 Điều 34, điểm a khoản 1 Điều 35,
điểm c khoản 1 Điều 39, các Điều 147, 157, 158, 165, 166 Bộ luật Tố tụng dân
sự; Điều 166 Bộ luật Dân sự năm 2015; Điều 106, khoản 7 Điều 166, Điều 167,
điểm b khoản 2 Điều 203 Luật Đất đai năm 2013; điểm đ khoản 1 Điều 12, Điều
14, Điều 48 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban
Thường vụ Quốc hội;
Tuyên xử:
1. Không chấp nhận yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn về việc yêu cầu ông
Trần H1 trả lại diện tích đất 261,6m
2
theo Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất
BQ 199758 được UBND huyện B cấp ngày 14/10/2013 (vị trí, tọa độ khu đất
được xác định theo Sơ đồ đo vẽ ngày 27/3/2023 của Chi nhánh Văn phòng Đ1).
2. Hủy Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất số BQ 199758 được UBND
huyện B cấp ngày 14/10/2013 cho ông Trần H1 và bà Nguyễn Thị N.
3. Về án phí: Miễn toàn bộ án phí dân sự sơ thẩm cho nguyên đơn ông Trần
Phước H. H5 lại cho ông Trần Phước H 1.654.000 đồng (Một triệu, sáu trăm năm
6
mươi bốn nghìn đồng) tiền tạm ứng án phí dân sự thẩm đã nộp theo biên lai thu
số 0006731 ngày 15/01/2015 của Chi cục Thi hành án dân sự huyện Bắc Bình.
4. Về chi phí định giá và xem xét, thẩm định tại chỗ: Buộc ông Trần Phước
H phải chịu 13.258.000 đồng tiền chi phí định giá và xem xét, thẩm định tại chỗ.
Các đương sự đã nộp đủ chi phí xem xét thẩm định tại chổ; trong đó, ông Trần
Phước H đã nộp 12.458.000 đồng, ông Trần H1 đã nộp 800.000 đồng. Do đó,
buộc ông Trần Phước H hoàn trả cho ông Trần H1 800.000 đồng tiền tạm ứng chi
phí định giá và xem xét, thẩm định tại chỗ.
Ngoài ra, bản án sơ thẩm còn tuyên vquyền, nghĩa vụ thi hành án quyền
kháng cáo của các đương sự.
Sau khi xét xử sơ thẩm, ngày 06/02/2024 ông Trần H1 và bà Nguyễn Thị N
kháng cáo Bản án dân sự sơ thẩm số 03/2024/DS-ST ngày 31 tháng 01 năm 2024
của Toà án nhân dân huyện Bắc Bình đề nghị sửa bản án dân sự sơ thẩm.
* Tại phiên tòa phúc thẩm:
- Những người làm chứng mặt đều giữ nguyên lời khai đã trình bày tại
cấp sơ thẩm. Tại phiên tòa phúc thẩm có người làm chứng bà Nguyễn Thị H3, là
vợ của ông Phan Ngọc L1, được bị đơn mời đến có lời khai xác định những ngôi
mộ tại đất tranh chấp là của gia tộc bà. Gia đình bà đã bốc đi nơi khác cải táng và
cho lại ông Trần Hải P2 đất này để sdụng. Vấn đnày địa phương ai cũng
biết.
- Ông Trần H1, bà Nguyễn Thị N giữ nguyên yêu cầu kháng cáo. Ông Trần
H1, bà Nguyễn Thị N người bảo vệ quyền lợi ích hợp pháp cùng đề nghị
Hội đồng xét xử cấp phúc thẩm sửa bản án thẩm theo hướng không hủy giấy
chứng nhận quyền sử dụng đất đã cấp cho ông Trần H1, bà Nguyễn Thị N.
- Người đại diện theo ủy quyền của nguyên đơn vẫn giữ nguyên yêu cầu khởi
kiện. Không kháng cáo và đề nghị giữ nguyên bản án sơ thẩm.
- Kiểm sát viên tham gia phiên tòa phát biểu ý kiến của Viện kiểm sát vviệc
tuân theo pháp luật trong quá trình giải quyết vụ án giai đoạn phúc thẩm quan
điểm giải quyết vụ án: Thư ký, Thẩm phán, Hội đồng xét xử đã tuân thủ đúng
pháp luật tố tụng; người tham gia tố tụng thực hiện đúng quyền và nghĩa vụ theo
quy định của Bộ luật Tố tụng dân sự. Về nội dung: Thửa đất tranh chấp dùng để
chôn người của họ tộc khác nên ông B, ông H, ông H1 đều không quyền sử
dụng cũng không quản lý. đất nghĩa địa nên tbản đồ theo quyết định
299 không quy chủ cho ai nên xem như đất bỏ hoang. Tại phiên tòa thẩm
phúc thẩm cũng như trong quá trình thu thập chứng cứ của cấp thẩm, những
người làm chứng đều xác định đất nghĩa địa đchôn người trong tộc họ của mình,
họ đã bốc mộ đi. Ông Trần H1 bắt đầu khai hoang từ năm 2002, năm 2013 mới
làm thủ tục kê khai, nhưng theo bản đồ theo quyết định 920 thì quy chủ cho
7
Trần Thị L. UBND cấp xác nhận nhưng không làm sao ông H1 khai
đất của bà L mà đề nghị UBND huyện B cấp giấy chứng nhận là chưa đúng trình
tự thủ tục. Ông H1 khai làm giấy tờ đất thì được cấp giấy chứng nhận quyền
sử dụng đất hợp nhưng trình tthủ tục không đúng nên phải hủy bỏ
đúng. UBND xã P cho rằng vì dự án 920 của tỉnh mà không cấp giấy cho ông H,
ông B không đưa ra tài liệu, chứng cứ không sở chấp nhận. Các tài
liệu trong hồ về thủ tục cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất không
Giấy cam kết vviệc kê khai; không Trích lục bản đồ địa chính và cũng không
Phiếu lấy ý kiến của khu dân vnguồn gốc thời điểm sử dụng đất đối với
thửa đất số 222. Do đó, việc ông H1, N kháng cáo yêu cầu không hủy giấy
chứng nhận quyền sử dụng đất không có căn cứ. Vì vậy bản án sơ thẩm tuyên
hủy giấy chứng nhận quyền sử dụng đất đúng quy định pháp luật nên kháng cáo
của ông H1, bà Nkhông cơ sở chấp nhận. Kiểm sát viên đề nghị Hội đồng
xét xử vẫn giữ nguyên bản án sơ thẩm.
NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN:
Căn cứ vào các tài liệu chứng cứ tại hồ sơ vụ án đã được thẩm tra, xác
minh tại phiên tòa phúc thẩm, căn cứ kết quả tranh tụng và đề nghị của Đại diện
Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Bình Thuận, Hội đồng xét xử (HĐXX) nhận định:
[1] Về thủ tục tố tụng: Bị đơn kháng cáo trong thời hạn đúng quy định
pháp luật nên vụ án được xem xét theo thủ tục phúc thẩm. Ngày 15/01/2015, Toà
án nhân dân huyện Bắc Bình thụ giải quyết vụ án đúng quy định khoản 7
Điều 25, Điều 32a, điểm a khoản 1 Điều 33 Bộ luật Ttụng dân sự 2004 (sửa đổi,
bổ sung 2011). Do vụ án được thụ lý giải quyết trước ngày 01/7/2016 nên Toà án
nhân dân huyện Bắc Bình thẩm quyền xem xét giải quyết các quyết định
biệt của UBND huyện B có liên quan đến vụ án là đúng thẩm quyền tại khoản 09
Điều 26, điểm a khoản 01 Điều 35, Điều 39, khoản 1, khoản 4 Điều 34 Bộ luật Tố
tụng dân sự năm 2015; khoản 5 Điều 1 Nghị quyết số 104/2015/QH13 ngày
25/11/2015 của Quốc hội về việc thi hành Luật tố tụng hành chính năm 2015 và
hướng dẫn số 01/2017/GĐ-TANDTC ngày 07/4/2017 của Tòa án nhân dân tối
cao. Tòa án sơ thẩm xác định quan hệ pháp luật tranh chấp là đúng quy định của
Bộ luật Tố tụng dân sự.
[2] Xét kháng cáo của ông Trần H1 Nguyễn Thị N, HĐXX nhận thấy:
Nguyên đơn khởi kiện bị đơn yêu cầu trả lại thửa đất số 222, thuộc tờ bản đồ số
53 với diện tích 261,6m
2
được UBND huyện B cấp giấy chứng nhận quyền sử
dụng đất số BQ 199758 tại thôn B, xã P, huyện B, tỉnh Bình Thuận, đo thực tế tại
bản vẽ ngày 27/3/2023 của Chi nhánh Văn phòng đăng đất đai thửa đất
hiệu S2, diện tích 227,4m
2
(sau đây gọi tắt thửa đất số 222). Nguyên đơn nộp
các chứng cứ sau:
8
- Biên bản họp gia đình ngày 26/11/2013 (ghi số 1) nội dung chia cho
Trần Thị L 3.400 m
2
đất 145 m
2
đất hướng đông giáp quốc lộ A. (Bản photo)
- Biên bản họp gia đình ngày 26/11/2013 (ghi số 3) nội dung chia cho ông H
4.136m
2
đất và 234 m
2
đất ở hướng đông giáp quốc lộ A. (Bản sao)
- Giấy xác nhận mối quan hệ giữa Trần Thị L với ông Trần Phước H. (Bản
sao y)
- Giấy cho đất thổ cư 27/12/2011 bản photo với nội dung bà Trần Thị L cho
ông Trần Phước H đất thổ cư.
- Giấy bán nhà đất của ông Ung Văn C năm 1953 với nội dung bán 700m
2
đất, mô trả trên đất có 5 ngôi mộ.
- Tờ di chúc ngày 20/5/1978 do ông Trần Ba V và ký tên (bản photo và bản
chính).
Xét các chứng cứ nguyên đơn nộp cho Tòa án đối với thửa đất số 222 thì bị
đơn đều không thừa nhận các chứng cứ này. HĐXX thấy rằng thông tin thửa đất
trong các chứng cứ nguyên đơn nộp thì không trùng khớp với thửa đất số 222.
Chữ ký của Trần Thị L không phải do bà bà là người không biết chữ, mặt
khác tại phiên tòa thẩm chính ông Trần P xác định giùm bà L. Đồng thời
người làm chứng ký xác nhận cũng xác định không thấy bà L ký mà chỉ thấy ông
B qua nhà nhờ vào. Như vậy, các sự kiện trong giấy tờ của nguyên đơn,
người làm chứng đều không chứng kiến trực tiếp mà chỉ nghe kể lại hoặc nhờ ký
giúp.
[3] Theo di chúc của cụ Trần Ba C2 thể hiện cho Trần Thị L 1 đám ruộng,
mồ mả; Biên bản họp gia đình ngày 26/11/2013 ghi số 1 và s2 thực tế L
không 3.400 m
2
ông H cũng không 4.136m
2
đất tại thôn B. Di chúc cụ
Trần Ba định Đ khoảng 3 đám đất, 1 đám , theo biên bản họp gia đình
của các anh em ông B, bà L, ông P, ông H thì tổng diện tích đất mà cụ B1 tạo lập
khoảng 8.000m
2
. Nội dung Giấy bán nhà đất của ông Ung Văn C không
căn cứ xác định thửa đất 222 là thửa đất cụ B1 mua của ông C. Đối chiếu với tờ
bản đồ 299, bản đồ 920, tổng số đất 4 người con cụ B1 ông Trần H1 đang sử
dụng khoảng gần 1000m
2
các thửa đất số 222, 223, 224 do các đương sự chỉ
dẫn trên bản đồ 920. Ngoài ra, các chứng cứ trong hồ sơ đều không đủ cơ sở xác
định cụ Trần B1 sau này ông Trần Phước B, Trần P, Trần Phước H người
quản lý thửa đất mồ mả, bởi lẽ nếu đất cụ B1 mua nhưng trong di chúc phần đất
mồ mả sao lại giao cho bà L. Không có chứng cứ nào xác định bà L cho đất ông
H, hoặc bà L trông coi đất giúp ông H. Do đó cấp thẩm không chấp nhận yêu
cầu khởi kiện của ông Trần Phước H về việc tranh chấp quyền sử dụng đất là
cơ sở, phù hợp với các tài liệu, chứng cứ có trong hồ sơ vụ án.
9
[4] Về việc cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, theo biên bản làm việc
với Tòa án nhân dân huyện Bắc Bình ngày 28 tháng 10 năm 2015 (BL129), UBND
P xác định đất nguồn gốc ông H1 khai hoang từ năm 2002, đất mộ, bỏ
hoang, không thuộc gia đình ông H1, ông B, căn cứ cho xác nhận này là theo tờ
bản đồ 299 bản đồ 920. Theo công văn số 94/UBND ngày 21/9/2017 UBND
P xác định nguồn gốc thửa đất của ông Trần B1 mua của ông Ung Văn C.
Trong giai đoạn từ năm 2000 đến năm 2012 hộ ông Trần Phước B3, Trần Phước
H có đến đăng ký cấp quyền sử dụng đất nhưng thời điểm từ năm 2009 đến năm
2012 đang triển khai đo đạc dự án 920 nên chưa tiến hành nhận hồ sơ cấp quyền
của hộ ông B, ông H. Khi có sự xác nhận mâu thuẫn, Tòa án nhân dân huyện Bắc
Bình tiến hành xác minh, theo biên bản ngày 24/3/2022, UBND xã P xác định
UBND không có tài liệu về đất tranh chấp. Năm 2020, để cung cấp thông tin cho
Tòa án, UBND xã P xác minh 2 người dân sống gần đất tranh chấp để xác định
thửa đất ông B, ông H quản lý. Như vậy UBND P không thông tin, không
căn cứ để xác thực nguồn gốc thửa đất của ai, mộ chôn trên đất người khác
vì sao lại gia đình ông B1, ông B, ông H lại quản lý đất. Bởi vì đất dùng để chôn
người của họ tộc kc thì ông B, ông H, ông H1 đều không có quyền sử dụng
cũng không quản lý.
[5] Tại biên bản xác minh ngày 19/01/2024 UBND xã P lại thừa nhận thửa
đất 222 đất nghĩa địa bỏ hoang qua tờ bản đồ 299, việc cấp giấy chứng nhận
quyền sử dụng đất cho người nào khi người đó có quá trình sử dụng đất ổn định.
Như vậy từ năm 1991 về trước thửa đất tranh chấp là đất dùng để chôn cất người
chết và chắc chắn không phải chôn người của tộc hgia đình cụ Trần Ba . Ông B,
ông H đều không biết đất tộc họ nào chôn cất nếu cho rằng mình quản đất từ
năm 1978. Vì là đt nghĩa địa nên không quy chủ cho ai, không có ai quản lý nên
xem như đất bỏ hoang. Tại phiên tòa thẩm và phúc thẩm cũng ntrong quá
trình thu thập chứng cứ của cấp thẩm, những người làm chứng Nguyễn
Thị Ngọc Ú, ông Nguyễn Hồng A, ông Phan Ngọc L1, Nguyễn Thị N1, ông
Nguyễn Văn T, bà Nguyễn Thị H3 đều xác định đất nghĩa địa để chôn người trong
tộc họ của mình, họ đã bốc mộ đi.
[6] Theo khoản 6 Điều 50 Luật đất đai năm 2003 thì trường hợp đất chưa có
giấy tờ mà sử dụng đất ổn định trước ngày 15/10/1993 đến trước ngày 01/7/2004
thì mới được cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất. Ông Trần H1 chỉ mới bắt
đầu khai hoang từ năm 2002, năm 2013 mới làm thủ tục kê khai, nhưng theo bản
đồ theo quyết định 920 thì quy chủ cho Trần Thị L. UBND cấp xác nhận
nhưng không làm rõ vì sao ông H1 kê khai đất của L đề nghị UBND huyện
B cấp giấy chứng nhận là chưa đúng trình tự thtục, chưa đúng đối tượng. Do đó
từ sau khi bốc mộ b đi thì đất bhoang, ông H1 kê khai làm giấy tờ đất thì được
cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất là hợp lý nhưng trình tự thủ tục là không
đúng nên phải hủy bỏ giấy chứng nhận quyền sử dụng đất đã cấp là đúng. UBND
10
P cho rằng dự án 920 của tỉnh Bình Thuận trả đơn không cấp giấy cho
ông H, ông B mà không đưa ra tài liệu, chứng cứ là không có cơ sở chấp nhận.
[7] Như vậy, HĐXX thấy rằng thửa đất tranh chấp có nguồn gốc đất nghĩa
địa, sau khi bốc mộ năm 1993 thì bỏ hoang hóa cho đến thời điểm phát sinh tranh
chấp năm 2015. Trong khi đó bị đơn gần thửa đất, tác động đến thửa đất từ năm
2002, nguyên đơn thì nơi khác, ông B, ông P gần đất nhưng không tác động
đến đất. Với phân tích như trên, nguyên đơn không chứng cứ cho rằng mình
quản đất từ năm 1993 đến năm 2015, trong khi đó bị đơn đủ căn cứ xác định
thời điểm quá trình sử dụng đất từ năm 2002. Do đó Tòa án cấp thẩm không
chấp nhận yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn căn cứ. Về việc hủy giấy chứng
nhận quyền sử dụng đất thì cấp thẩm nhận định vviệc cấp sai đối tượng
xác định ông B người quản đất đai chưa chính xác, chưa đầy đủ, HĐXX
cần điều chỉnh như nhận định trên cấp sai trình tự thủ tục quy định, sai đối
tượng sử dụng đất tại tờ bản đồ 920.
[8] Từ những nhận định trên kháng cáo của bđơn không sở chấp
nhận. Nhận định của Kiểm sát viên tại phiên tòa phù hợp với nhận định của
HĐXX nên được chấp nhận.
[9] Về án phí: Do kháng cáo không được chấp nhận nên Nguyễn Thị N
phải nộp án phí dân sphúc thẩm. Bị đơn, nguyên đơn người cao tuổi thuộc
diện miễn nộp án phí theo điểm đ khoản 1 Điều 12, Điều 48 Nghị quyết
326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội.
Vì các lẽ trên,
QUYẾT ĐỊNH:
1. Căn cứ: Khoản 1 Điều 308 Bộ luật Tố tụng dân sự;
2. Tuyên xử: Không chấp nhận kháng cáo của ông Trần H1 Nguyễn
Thị N. Giữ nguyên Bản án dân sự thẩm số 03/2024/DS-ST ngày 31-01-2024
của Tòa án nhân dân huyện Bắc Bình.
3. Căn cứ:
- Khoản 1 Điều 148 Bộ luật Tố tụng dân sự;
- Điều 256 Bộ luật Dân sự năm 2005;
- Điều 49, Điều 50 Luật Đất đai năm 2003;
- Khoản 3 Điều 42 Nghị định 181/2004/NĐ-CP ngày 29/10/2004, khoản 3
Điều 25 Nghị định 88/2009/NĐ-CP ngày 19/10/2009 của Chính phủ hướng dẫn
thi hành Luật Đất đai năm 2003;
- Điều 106, khoản 7 Điều 166, Điều 203 Luật Đất đai năm 2013;
11
- Điều 21 Nghị định 43/2014/NĐ-CP ngày 15/5/2014 của Chính phủ hướng
dẫn thi hành Luật đất đai 2013;
- Điểm đ khoản 1 Điều 12, Điều 48 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14
ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội.
4. Tuyên xử:
4.1. Không chấp nhận yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn về việc yêu cầu ông
Trần H1 trả lại diện tích đất 261,6m
2
theo Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất
BQ 199758 được UBND huyện B cấp ngày 14/10/2013 (vị trí, tọa độ khu đất
được xác định theo Sơ đồ đo vẽ ngày 27/3/2023 của Chi nhánh Văn phòng Đ1).
4.2. Hủy Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất số BQ 199758 được UBND
huyện B cấp ngày 14/10/2013 cho ông Trần H1 và bà Nguyễn Thị N.
4.3. Về án phí dân sự sơ thẩm: Nguyên đơn ông Trần Phước H thuộc trường
hợp miễn nộp án phí. H5 lại cho ông Trần Phước H 1.654.000 đồng (Một triệu,
sáu trăm năm mươi bốn nghìn đồng) tiền tạm ứng án phí dân sự thẩm đã nộp
theo biên lai thu số 0006731 ngày 15/01/2015 của Chi cục Thi hành án dân sự
huyện Bắc Bình.
4.4. Về chi phí định giá và xem xét, thẩm định tại chỗ: Buộc ông Trần Phước
H phải chịu 13.258.000 đồng tiền chi phí định giá và xem xét, thẩm định tại chỗ.
Các đương sự đã nộp đủ chi phí xem xét thẩm định tại chổ; trong đó, ông Trần
Phước H đã nộp 12.458.000 đồng, ông Trần H1 đã nộp 800.000 đồng. Do đó,
buộc ông Trần Phước H hoàn trả cho ông Trần H1 800.000 đồng tiền tạm ứng chi
phí định giá và xem xét, thẩm định tại chỗ.
Kể từ ngày bản án có hiệu lực pháp luật hoặc kể từ ngày có đơn yêu cầu thi
hành án của người được thi hành án (đối với các khoản tiền phải trả cho người
được thi hành án) cho đến khi thi hành án xong, bên phải thi hành án còn phải
chịu khoản tiền lãi của số tiền còn phải thi hành án theo mức lãi suất quy định tại
Điều 357 và Điều 468 của Bộ luật dân sự năm 2015, trừ trường hợp pháp luật có
quy định khác.
5. Ván phí dân sự phúc thẩm: Bà Nguyễn Thị N phải chịu 300.000 đồng án
phí phúc thẩm được khấu trvào số tiền tạm ứng án phí đã nộp theo biên lai số
008638 ngày 29/02/2024 của Chi cc Thi hành án dân sự huyện Bắc Bình.
Trường hợp Bản án thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật thi hành án dân
sự đã sửa đổi, bổ sung, thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án
dân sự có quyền thỏa thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi
hành án hoặc cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các Điều 6, 7, 7a, 7b 9
Luật thi hành án dân sự đã sửa đổi, bổ sung; Thời hiệu thi hành án được thực hiện
theo quy định tại Điều 30 Luật thi hành án dân sự đã sửa đổi, bổ sung.
12
Bản án phúc thẩm có hiệu lực pháp luật kể từ ngày tuyên án (13/6/2025).
Nơi nhận:
- VKSND tỉnh Bình Thuận;
- TAND, VKSND, CCTHADS
cấp huyện;
- Các đương sự;
- Cổng TTĐT-TANDTC
- Tổ HCTP - Tòa án tỉnh;
- Lưu: TDS, hồ sơ vụ án.
TM. HỘI ĐỒNG XÉT XỬ PHÚC THẨM
THẨM PHÁN - CHỦ TỌA PHIÊN TÒA
Nguyễn Lê Phương
Tải về
Bản án số 119/2025/DS-PT Bản án số 119/2025/DS-PT

Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để tải file. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!

Bản án số 119/2025/DS-PT Bản án số 119/2025/DS-PT

Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để tải file. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!

Bản án/ Quyết định cùng đối tượng

Bản án cùng lĩnh vực

Bản án mới nhất