Bản án số 110/2025/DS-PT ngày 30/05/2025 của TAND tỉnh Bình Thuận về tranh chấp quyền sử dụng đất

  • Thuộc tính
  • Nội dung
  • VB gốc
  • VB liên quan
  • Lược đồ
  • Đính chính
  • Án lệ
  • BA/QĐ cùng nội dung
  • Tải về
Tải văn bản
Báo lỗi
  • Gửi liên kết tới Email
  • Chia sẻ:
  • Chế độ xem: Sáng | Tối
  • Thay đổi cỡ chữ:
    17

Thuộc tính Bản án 110/2025/DS-PT

Tên Bản án: Bản án số 110/2025/DS-PT ngày 30/05/2025 của TAND tỉnh Bình Thuận về tranh chấp quyền sử dụng đất
Quan hệ pháp luật: Tranh chấp quyền sử dụng đất
Cấp xét xử: Phúc thẩm
Tòa án xét xử: TAND tỉnh Bình Thuận
Số hiệu: 110/2025/DS-PT
Loại văn bản: Bản án
Ngày ban hành: 30/05/2025
Lĩnh vực: Dân sự
Áp dụng án lệ:
Đã biết

Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để xem áp dụng án lệ. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!

Đính chính:
Đã biết

Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để xem đính chính. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!

Thông tin về vụ/việc: Sửa bản án sơ thẩm
Tóm tắt Bản án

Nội dung tóm tắt đang được cập nhật, Quý khách vui lòng quay lại sau!

Tải văn bản

TÒA ÁN NHÂN DÂN
TỈNH BÌNH THUẬN
Bản án số: 110/2025/DS-PT
Ngày: 30-5-2025
V/v tranh chấp quyền sử
dụng đất
CỘNG HÒA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM
Độc lập - Tự do - Hạnh phúc
NHÂN DANH
NƯỚC CỘNG HÒA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM
TÒA ÁN NHÂN DÂN TỈNH BÌNH THUẬN
- Thành phần Hội đồng xét xử phúc thẩm gồm có:
Thẩm phán - Chủ tọa phiên tòa: Ông Nguyễn Lê Phương
Các Thẩm phán: Phạm Phong Lan, Nguyễn Thị Hồng Hạnh
- Thư ký phiên tòa: Bà Cao Thị Mai TTòa án nhân dân tỉnh Bình
Thuận.
- Đại diện Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Bình Thuận tham gia phiên tòa:
Bà Nguyễn Thị Hằng – Kiểm sát viên.
Trong các ngày 27 và 30 tháng 5 năm 2025, tại trụ sở Tòa án nhân dân tỉnh
Bình Thuận xét xử phúc thẩm công khai vụ án dân sự thụ lý số 161/2023/TLPT-
DS ngày 02/10/2023 về Tranh chấp quyền sdụng đất”, do Bản án dân sự
thẩm số 14/2023/DS-ST ngày 19 tháng 4 năm 2023 của Tòa án nhân dân thị
La Gi bị kháng cáo kháng nghị. Theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số
52/2024/QĐ-PT ngày 12 tháng 03 năm 2024; Thông báo thay đổi thi gian xét x
số 47/TB-TA ngày 04/5/2024; Quyết định hoãn phiên tòa số 76/2024/QĐ-PT ngày
28/5/2024; Thông báo vviệc mở lại phiên tòa số 42/TB-TA ngày 04/4/2025;
Thông báo về việc hoãn phiên tòa phúc thẩm số 56/TB-TA ngày 24/4/2025 của
Tòa án nhân dân tỉnh Bình Thuận, giữa các đương sự:
- Nguyên đơn: Ông Khưu Kim H, sinh năm 1964; Thị N, sinh năm
1961. Cùng địa chỉ: Thôn H, xã T, thị xã L, tỉnh Bình Thuận. (có mặt)
Người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của nguyên đơn: Ông Võ Đức T -
Văn Phòng L – Đoàn luật sư tỉnh B.(có mặt)
- Bị đơn: Ông K, sinh năm 1966 (vắng mặt); Hồ Thị Hồng V, sinh
năm 1967 (có mặt). Cùng địa chỉ: Thôn H, xã T, thị xã L, tỉnh Bình Thuận.
2
- Người quyền lợi, nghĩa vụ liên quan: Ông Huỳnh Văn T1, sinh năm
1975 (vắng mặt); HThị Hồng H1, sinh năm 1978 (có mặt). Cùng địa chỉ:
Thôn T, xã T, thị xã L, tỉnh Bình Thuận.
Do có kháng cáo, kháng nghị của:
+ Nguyên đơn ông Khưu Kim H Thị N kháng cáo toàn bộ bản án
dân sự sơ thẩm s14/2023/DS-ST ngày 19 tháng 4 năm 2023 của Tòa án nhân
dân thị xã La Gi, tỉnh Bình Thuận.
+ Bị đơn ông K kháng cáo toàn bộ bản án dân sự thẩm số 14/2023/DS-
ST ngày 19 tháng 4 năm 2023 của Tòa án nhân dân thị La Gi, tỉnh Bình Thuận.
+ Tại Quyết định số 07/QĐ-VKS-DS ngày 18/5/2023 Viện kiểm sát nhân
dân tỉnh Bình Thuận kháng nghị toàn bộ bản án sơ thẩm theo hướng sửa bản án
dân sự sơ thẩm s14/2023/DS-ST ngày 19 tháng 4 năm 2023 của Tòa án nhân
dân thị xã La Gi, tỉnh Bình Thuận.
NỘI DUNG VỤ ÁN:
* Theo đơn khởi kiện và trong quá trình giải quyết vụ án, nguyên đơn
trình bày:
Vào ngày 17/12/2018, vchồng ông Khưu Kim H, Thị N nhận chuyển
nhượng của hộ ông Huỳnh Văn T1 diện tích đất 578 m
2
, thuộc thửa số 22, tờ bản
đồ số 58, giấy chứng nhận quyền sử dụng đất (viết tắt: giấy CNQSD đất) số AI
071376 do UBND thị xã L cấp ngày 13/11/2007, đất toạ lạc tại: thôn H, xã T, th
xã L, được cập nhật biến động sang tên vợ chồng ông Khưu Kim H, bà Lê Thị N
vào ngày 14/02/2019. Một thời gian sau vợ chồng ông H, N xây dựng bờ rào
thì vợ chồng ông K, bà V cản trở, vợ chồng ông K, V đã trồng cây, xây dựng
nhà lấn qua một phần đất của vợ chồng ông H, N với diện tích 278,5 m
2
.
Nay nguyên đơn vợ chồng ông H, N khởi kiện yêu cầu bị đơn vợ chồng ông
K, bà V phải di dời cây trồng tháo dỡ một phần căn nhà và công trình trên đất để
trả lại diện đất lấn chiếm 278,5 m
2
, toạ lạc tại: thôn H, xã T, thị xã L, thuộc một
phần thửa số 22, tờ bản đồ số 58, diện tích đất 578 m
2
giấy CNQSD đất số AI
071376 do UBND thị xã L cấp ngày 13/11/2007.
Qua kết quả đo đạc lần đầu thể hiện diện tích đất tranh chấp 216,7 m
2
trong
đó phần đất bị đơn đã cất dựng thì nguyên đơn không yêu cầu tháo dỡ mà chỉ yêu
cầu thanh toán lại giá trị đất cho nguyên đơn, phần còn lại yêu cầu buộc bị đơn
giao trả. Qua kết quả đo đạc lần sau thể hiện diện tích đất tranh chấp 226,6 m
2
, tại
phiên tòa nguyên đơn yêu cầu phần đất bị đơn đã cất dựng thì nguyên đơn không
yêu cầu tháo dỡ chỉ yêu cầu thanh toán lại giá trị đất cho nguyên đơn với
điều kiện bị đơn phải tự nguyện cắt btấm đan cửa sổ bên hông đập bỏ một
phần trụ ranh giới (do bị đơn trồng), phần còn lại yêu cầu buộc bị đơn giao trả.
3
Tuy nhiên với điều kiện của nguyên đơn đưa ra bị đơn không đồng ý nên nguyên
đơn quyết định buộc bị đơn phải di dời cây trồng, tháo dỡ một phần căn nhà, các
công trình cất dng khác trên đất để trả lại toàn bộ diện tích đất lấn chiếm 226,6
m
2
cho nguyên đơn. Ngoài ra, nguyên đơn ng thừa nhận khi mua đất của vợ
chồng ông T1, bà H1 đã thấy bị đơn về cất nhà ở đây từ trước.
* Bđơn, vợ chồng ông K, Hồ Thị Hồng V trình bày: Vào năm
2011 vợ chồng ông K, Hồ Thị Hồng V nhận chuyển nhượng từ vợ chồng
ông Huỳnh Văn T1, Hồ Thị Hồng H1 diện tích đất 335 m
2
(1/2 diện tích đất
trong sổ đỏ của ông T1 bà H1) với giá 20.000.000 đồng, hai bên có làm giấy tay
chữ ký của vợ chồng ông T1, bà H1 (vợ chồng ông K cung cấp giấy tay sang
nhượng đất – Giấy ủy quyền bản phô tô). Từ khi nhận chuyển nhượng vợ chồng
ông K sdụng ổn định xây nhà cấp 4 (ngang 7 x dài 19,5 mét), xây dựng mái che
phía trước (5 x 7 mét); mái che phía sau (2,1 x 7 mét); ngoài ra y một chuồng
(2 x 15 mét), trồng cây ăn trái, cây kiểng trên toàn bộ phần đất còn lại. Năm
2019 vợ chồng ông H yêu cầu vợ chồng ông K nhổ các cây trồng, tháo dỡ một
phần nhà để trả lại đất cho vợ chồng ông H, từ đó hai bên xảy ra tranh chấp. Vợ
chồng ông K biết vợ chồng ông H mua đất của vợ chồng ông T1, khi đó xác định
ranh giới đất cả 3 bên đều có mặt (bà V, ông H và vợ chồng ông T1), phần đất của
vợ chồng ông K là toàn bộ đất sử dụng từ trước đến nay, còn đất của ông H mua
phần còn lại, diện tích trước đó trong sổ đỏ ca vợ chồng ông T1 677 m
2
, bán
cho vợ chồng ông K 335 m
2
, còn lại 342 m
2
bán cho vợ chồng ông H. Vợ chồng
ông K mua đất trước sdụng ổn định từ đó đến nay, còn vợ chồng ông H mua
sau. Vợ chồng ông K cho rằng mình không lấn chiếm đất n không đồng ý
thương lượng hòa giải, và không đồng ý với yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn.
* Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan trình bày: Hồ Thị Hồng H1
em ruột của bà Hồ Thị Hồng V, vào năm 2007 vợ chồng ông T1, bà H1 được
nhà nước cấp giấy CNQSD đất số AI 071376, diện tích 677 m
2
, thửa số 22, tờ bản
đồ số 41, đất toạ lạc tại thôn H, T, thị L. Năm 2011 vợ chồng ông T1 bán
cho vợ chồng ông K một nửa diện tích đất trong sổ, hai bên làm giấy tay mua bán,
sau khi mua đất vợ chồng ông K y nhà, trồng cây sinh sống khoảng 10 năm nay,
để giảm thuế hai bên chỉ làm tách thửa sang tên 99 m
2
, phần diện tích còn lại vợ
chồng ông K vẫn sử dụng nhưng nằm trong sổ vợ chồng ông T1 đứng tên.
Năm 2018 vợ chồng ông T1 bán phần đất còn lại (bán một nửa diện tích đất
trong sổ) cho vợ chồng ông H, bà N , lúc này vợ chồng ông H chỉ xây nhà vệ sinh
trên đất chứ chưa canh tác, khi mua bán vợ chồng ông T1 đã chỉ rõ ranh giới bán
phần đất trống còn lại, còn đất của vợ chồng ông K đã trồng cây làm ranh giới sẵn
từ trước. Tuy nhiên khi làm hợp đồng chuyển nhượng cho vợ chng ông H, bà N
thì vợ chồng ông T1, bà H1 không kiểm tra mà chuyển nhượng theo sổ. Việc vợ
chồng ông H, bà N khởi kiện tranh chấpkhông đúng, vợ chồng ông T1 bán cho
4
vợ chồng ông K vợ chồng ông H mỗi bên một nửa thửa đất, đnghị Toà giải
quyết theo hướng phần đất của vchồng ông K phần đất đang cất nhà, trồng
cây trên đất, phần đất còn lại của vợ chồng ông H. Hoặc để cho hài hòa thì phần
đất vợ chồng ông K cất nhà, trồng cây để cho vợ chồng ông K sử dụng, diện tích
còn lại trả cho vợ chồng ông H.
* Tại Bản án dân sự sơ số 14/2023/DS-ST ngày 19 tháng 4 năm 2023 của
Tòa án nhân dân thị xã La Gi đã quyết định:
Căn cứ vào: Điều 26, 35, 39, 147 Bộ luật Tố tụng dân sự; Điều 166 Luật Đất
đai; Điều 26, 27 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 về mức thu, miễn, giảm,
thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí, lệ phí Tòa án ngày 30/12/2016.
Tuyên xử:
1. Chấp nhận yêu cầu khởi kiện ca nguyên đơn vợ chồng ông Khưu Kim H,
bà Lê Thị N.
- Buộc vợ chồng ông K bà Hồ Thị Hồng V di dời cây cối, kho chứa đ
giao trả diện tích đất 122,8 m
2
cho vợ chồng ông Khưu Kim H, bà Lê Thị N, đất
toạ lạc tại thôn H, xã T, thị xã L.
- Vợ chồng ông K Hồ Thị Hồng V được quyền sở hữu sử dụng diện
tích đất 103,8 m
2
thuộc thửa thuộc thửa 22, tờ bản đồ 41 (đất toạ lạc tại thôn H,
xã T, thị xã L).
- Vợ chồng ông Khưu Kim H, Thị N nghĩa vụ phải giao giấy
CNQSD đất số AI 071376 cho vợ chồng ông K Hồ Thị Hồng V để thực
hiện hoàn tất thủ tục đối với diện tích đất 103,8 m
2
theo quy định. Trường hợp vợ
chồng ông Khưu Kim H, bà Lê Thị N không giao giấy CNQSD đất số AI 071376
thì vợ chồng ông K Hồ Thị Hồng V trách nhiệm liên hệ cơ quan có thẩm
quyền để đăng ký hoàn tất thủ tục đối với diện tích đất trên.
- Vợ chồng ông K bà Hồ Thị Hồng V phải có nghĩa vụ thanh toán cho vợ
chồng ông Khưu Kim H, Thị N số tiền 30.529.000 đồng (ba mươi triệu năm
trăm hai mươi chín ngàn đồng).
Ngoài ra, bản án sơ thẩm còn tuyên chi phí xem xét, thẩm định tại chỗ
định giá tài sản, án phí, quyền kháng cáo, quyền và nghĩa vụ thi hành án của các
đương sự theo quy định của pháp luật.
Sau khi xét xử thẩm, ngày 28/04/2023 nguyên đơn ông Khưu Kim H
Thị N đơn kháng cáo toàn bộ bản án thẩm số: 14/2023/DS-ST ngày
19 tháng 4 năm 2023 của Tòa án nhân dân thị xã La Gi, tỉnh Bình Thuận.
5
Ngày 04/05/2023 bị đơn ông Lê K có đơn khángo toàn bộ bản án sơ thẩm
số: 14/2023/DS-ST ngày 19 tháng 4 năm 2023 của Tòa án nhân dân thị xã La Gi,
tỉnh Bình Thuận.
Tại Quyết định số 07/QĐ-VKS-DS ngày 18/5/2023 Viện kiểm sát nhân dân
tỉnh Bình Thuận kháng nghị toàn bộ bản án sơ thẩm theo hướng sửa bản án dân
sự sơ thẩm số: 14/2023/DS-ST ngày 19 tháng 4 năm 2023 của Tòa án nhân dân
thị xã La Gi, tỉnh Bình Thuận .
Tại phiên tòa phúc thẩm:
- Nguyên đơn vẫn giữ nguyên yêu cầu khởi kiện, yêu cầu kháng cáo đề
nghị Hội đồng xét xử cấp phúc thẩm xem xét buộc bị đơn trđất giấy chứng nhận
đã cấp, phần đất bđơn đang sdụng y nhà thì trả lại giá trị bằng tiền cho
nguyên đơn.
- Bị đơn vẫn giữ nguyên yêu cầu kháng cáo, đề nghị Hội đồng xét xử chấp
nhận kháng cáo, sửa bản án thẩm theo hướng không chấp nhận yêu cầu của
nguyên đơn. Tuy nhiên, để giải quyết tranh chấp được an cư, ổn định cuộc sống
bị đơn đề nghị phần đất còn trống phía sau và phần ranh giữa hai thửa đất bị đơn
đồng ý giao cho nguyên đơn theo bản đồ địa chínha án nhân dân tỉnh Bình
Thuận đã đi đo đạc và thẩm định tại chổ. Bị đơn chấp nhận tháo dỡ phần tấm đan
nằm bên phần đất của nguyên đơn để ổn định ranh giới giữa hai thửa đất.
- Kiểm sát viên phát biểu quan điểm về việc giải quyết vụ án:
1. Về tố tụng: Tòa án cấp phúc thẩm đã thực hiện đúng trình tự, thủ tục theo
quy định của pháp luật trong quá trình giải quyết vụ án.
2. Về nội dung: Ginguyên Quyết định kháng nghị số 07/QĐ-VKS-DS ngày
18/5/2023 Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Bình Thuận theo hướng sửa bản án dân s
sơ thẩm số: 14/2023/DS-ST ngày 19 tháng 4 năm 2023 của Tòa án nhân dân thị
La Gi, tỉnh Bình Thuận. Qua thực tế sử dụng đất của bị đơn nguyên đơn,
việc nguyên đơn mua của bà Hồ Thị Hồng H1, ông Huỳnh Văn T1 phần diện tích
578 m
2
đất còn lại trong giấy chứng nhận không căn cứ. Việc bị đơn tại phiên
tòa phúc thẩm tự nguyện giao cho nguyên đơn phần đất trống phía sau thửa đất
cho nguyên đơn sử dụng là lợi cho nguyên đơn, đề nghị HĐXX chấp nhận
kháng nghị của Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Bình Thuận, chấp nhận kháng cáo
của bị đơn, không chấp nhận kháng cáo của nguyên đơn, sửa bản án dân sự
thẩm giao phần đất trống cho nguyên đơn, công nhận quyền sử dụng đất cho các
bên đương sự theo bản vẽ đã được Chi nhánh n phòng Đ điều chỉnh ngày
28/5/2025.
NHẬN ĐNH CỦA TÒA ÁN:
6
Căn cứ vào các chứng cứ, tài liệu có trong hồ sơ vụ án đã được thẩm tra tại
phiên tòa phúc thẩm; trên cơ sở xem xét đầy đủ, toàn diện các tài liệu, chứng c,
ý kiến trình bày tranh luận của các đương sự, quan điểm của Kiểm sát viên,
Hội đồng xét xử nhận thấy:
[1] Kháng cáo của các đương sự, kháng nghị của Viện kiểm sát nhân dân tỉnh
Bình Thuận trong hạn luật định, Tòa án nhân dân tỉnh Bình Thuận xem xét giải
quyết theo thủ tục phúc thẩm. Tòa án nhân dân thị xã La Gi thụ lý giải quyết yêu
cầu khởi kiện của nguyên đơn đúng quy định tại khoản 9 Điều 26, khoản 1 Điều
35, Điều 39 của Bộ luật Tố tụng dân sự. Tại phiên tòa vắng mặt người kháng cáo
ông K nhưng đơn đề nghị xét xử vắng mặt nên HĐXX giải quyết vụ án vắng
mặt người kháng cáo.
[2] Xét kháng cáo của nguyên đơn, bị đơn và kháng nghị của Viện kiểm sát
nhân dân tỉnh Bình Thuận, HĐXX nhận thấy: Vgiấy tờ về đất, thửa đất của
nguyên đơn và bị đơn đều đã được cấp giấy CNQSD đất. Tuy nhiên các đương sự
trong vụ án đều thừa nhận việc làm thủ tục giấy tờ về đất không theo thực tế sử
dụng đất. Nguyên đơn căn cứ vào giấy CNQSD đất để khởi kiện bị đơn yêu cầu
trả đất, còn bị đơn căn cứ vào thực tế sử dụng đất của mình để không đồng ý yêu
cầu khởi kiện của nguyên đơn.
Theo sơ đồ tranh chấp do Chi nhánh Văn phòng Đ đo vẽ ngày 29/10/2024
những điểm tọa độ chưa cụ thể, thiếu việc áp hình thể thửa theo giấy CNQSD đất
lên diện tích thực tế nên ngày 22/5/2025 Tòa án nhân dân tỉnh nh Thuận có công
văn số 192/TABT-DS yêu cầu Chi nhánh Văn phòng Đ điều chỉnh cho phù hợp.
Ngày 28/5/2025 Chi nhánh Văn phòng Đ phát hành bản vẽ, tòa án đã giao cho các
đương sự bản vẽ này và HĐXX sử dụng bản đồ này để giải quyết tranh chấp. Theo
đó phần đất kí hiệu (D) diện tích 353,9m
2
nguyên đơn đang sử dụng, không tranh
chấp, phần đất hiệu (F) 99m
2
không tranh chấp, còn lại phần đất tranh
chấp. Đối với phần đất diện tích tăng thêm do đối chiếu thực tế sử dụng đất
với bản đồ địa chính do nghiệp đo đạc bản đồ địa hình nông nghiệp II đo v
năm 2006, được Sở Tài nguyên và Môi trường tỉnh B (nay là Sở N1) nghiệm thu
năm 2008 tại giấy CNQSD đất AI 071376 do UBND thị xã L cấp ngày 13/11/2007,
không thuộc diện ch đất tranh chấp, chênh lệch tăng thêm này các đương sự đăng
kí biến động với cơ quan nhà nước có thẩm quyền.
[3] Xét yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn, nguyên đơn xác định khi nhận
chuyển nhượng của bà H1, ông T1 vào năm 2018 không kiểm tra thực tế thửa đất
đúng như giấy CNQSD đất không. Theo biên bản a giải ngày 12/4/2019 của
UBND xã T, người làm chứng bà Lê Thị D được mời hòa giải đã xác địnhH1,
ông T1 đã bán một nửa thửa đất cho bị đơn. Bị đơn xây nhà trước khi nguyên
đơn đến mua đất 10 năm. Các chứng cứ trong hồ cũng như sự thừa nhận của
7
nguyên đơn, từ năm 2011 bị đơn đã mua đất cất nhà và trồng cây trên một nửa
thửa đất, sử dụng ổn định đến khi phát sinh tranh chấp. Khi nguyên đơn đến mua
đất năm 2018 đã thấy ngôi nhà của bị đơn, chính nguyên đơn xác định đã không
cắm mốc đo đạc lại thửa đất mình mua. Đồng thời, khi nguyên đơn nhận đất xây
dựng công trình phụ phía sau đất đều không lấn sang phần đất bị đơn đang sử
dụng. Hiện trạng sử dụng đất cho đến nay giữa hai bên được xác định bởi kiềng
nhà, vách nhà và hàng rào của bị đơn xây dựng. Biên bản hòa giải ngày 12/4/2019
của UBND xã T cũng đã xác định tất cả các đương sự khi thương lượng mua bán
chưa rõ ràng, không chỉ ranh, không có thỏa thuận, giao kèo. Do đó, không có cơ
sở cho rằng sau khi nguyên đơn mua đất thì bị đơn lấn chiếm đất của nguyên đơn,
giấy chứng nhận quyền sử dụng đất của nguyên đơn, bị đơn không thể hiện đúng
hiện trạng sử dụng đất. Như vậy, HĐXX xác định nguyên đơn không mua hết toàn
bộ diện tích 578 m
2
đất còn lại trong giấy CNQSD đất của H1, ông T1. Việc
nguyên đơn chỉ căn cứ vào giấy CNQSD đất đã cấp không đưa ra chứng cứ
nào khác để khởi kiện bị đơn là thiếu căn cứ, không phù hợp với thực tế sử dụng
đất giữa hai bên đương sự.
[4] Tại phiên tòa, bị đơn thống nhất giữ ranh giới hai thửa đất theo hiện trạng
phần kiềng nhà và tường rào của bị đơn, phần đất phía sau nhà của bị đơn chưa
công trình phụ bị đơn tự nguyện giao cho nguyên đơn sử dụng theo bản vẽ đã được
điều chỉnh ngày 28/5/2025 của Chi nhánh Văn phòng Đ. Sự tự nguyện thỏa thuận
này của bị đơn mặc nguyên đơn không đồng ý nhưng HĐXX nhận thấy cần
phải xử lý theo hướng này sẽ bảo đảm quyền lợi choc bên, ổn định ranh của hai
thửa đất, chấm dứt tranh chấp kéo dài quá lâu, ảnh hưởng đến an ninh trật tự địa
phương.
[5] T những phân tích trên, HĐXX sửa bản án dân sự thẩm số
14/2023/DS-ST ngày 19 tháng 4 năm 2023 của Tòa án nhân dân thị La Gi,
không chấp nhận yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn, ghi nhận sự tự nguyện của
bị đơn giao cho nguyên đơn được quyền sử dụng phần đất diện tích 68,2m
2
hiệu
1-2-15-22-23-24-1 trên Sơ đồ tranh chấp do Chi nhánh Văn phòng Đ đo vẽ ngày
28/5/2025, phần diện ch hiệu (E)=1-2-3-4-5-6-7-8-9-10-11-12-1 giao cho bị
đơn sử dụng.
[6] Ý kiến đề nghị của Kiểm sát viên đnghị ghi nhận sự tự nguyện giao đất
và thỏa thuận về ranh của bị đơn là phù hợp với nhận định của HĐXX.
[7] Về án phí dân sự phúc thẩm: do bản án thẩm bị sửa nên nguyên đơn
bị đơn không phải chịu án phí dân sphúc thẩm và phần án phí dân sự sơ thẩm
được tính lại theo quy định tại khoản 2 Điều 29 Nghị quyết số
326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội. Về chi
8
phí tố tụng định giá và đo đạc do nguyên đơn nộp tạm ứng trước, do yêu cầu khởi
kiện không được chấp nhận nên nguyên đơn tự chịu những chi phí này.
Vì các lẽ trên,
QUYẾT ĐỊNH:
1. Căn cứ vào: khoản 2 Điều 308, khoản 1 Điều 309 Bộ luật Tố tụng dân sự;
Tuyên x: Sửa Bản án dân sự thẩm 14/2023/DS-ST ngày 19 tháng 4 năm
2023 của a án nhân dân thị xã La Gi.
2. Căn cứ vào:
- Điều 147 Bộ luật Tố tụng dân sự;
- Khoản 1 Điều 203 Luật Đất đai năm 2013;
- Khoản 1 Điều 26, khoản 2 Điều 29 Nghquyết số 326/2016/UBTVQH14
về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí, lệ phí Tòa án ngày
30/12/2016.
3. Tuyên xử:
3.1. Không chấp nhận yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn vợ chồng ông Khưu
Kim H, bà Thị N về việc yêu cầu vợ chồng ông K bà Hồ Thị Hồng V trả
lại toàn bộ diện tích đất lấn chiếm 226,6 m
2
.
3.2. Ghi nhận sự tự nguyện của vợ chồng ông K bà Hồ Thị Hồng V di dời
cây cối giao trả diện tích đất 68,2 m
2
cho vợ chồng ông Khưu Kim H, Lê Thị
N, đất tọa lạc tại Thôn H, xã T, thị xã L, kí hiệu thửa đất 1-2-15-22-23-24-1 trên
đồ tranh chấp do Chi nhánh Văn phòng Đ đo vẽ ngày 28/5/2025(kèm theo bản
án).
3.3. Vợ chồng ông K, Hồ Thị Hồng V được quyền shữu sử dụng diện
tích đất 221,2 m
2
hiệu thửa đất (E)=1-2-3-4-5-6-7-8-9-10-11-12-1 trên đồ
tranh chấp do Chi nhánh Văn phòng đăng ký đất đai La Gi đo vẽ ngày 28/5/2025,
toạ lạc tại thôn H, xã T, thị xã L, tỉnh Bình Thuận.
4. Khi thực hiện giao đất nếu vướng công trình xây dng, vật cản, cây cối
(nếu có) thì phải bị tháo dỡ. Chi phí tháo dỡ công trình nằm trên phần đất của
đương sự nào thì đương sự đó tự chịu.
5. Vợ chồng ông Khưu Kim H, Thị N vợ chồng ông K, Hồ
Thị Hồng V được quyền liên hệ với quan nhà nước thẩm quyền đđược cấp
giấy chứng nhận quyền sử dụng đất theo đồ tranh chấp do Chi nhánh Văn
phòng đăng ký đất đai La Gi đo vẽ ngày 28/5/2025.
9
6. Vợ chồng ông Khưu Kim H, Thị N vợ chồng ông K Hồ
Thị Hồng V có nghĩa vụ phải giao tài sản và giấy tờ về đất khi có yêu cầu của cơ
quan nhà nước có thẩm quyền và khi thi hành án.
7. Về án phí:
- Về án phí dân sự sơ thẩm: ông Khưu Kim H, bà Lê Thị N mỗi người phải
nộp 300.000 đồng án phí dân sự sơ thẩm, được khấu trừ vào 2.500.000 đồng tiền
tạm ứng án phí đã nộp theo biên lai số 0022309, ngày 10/6/2019 tại Chi Cục Thi
hành án dân sự thị xã La Gi.
- Về án phí dân sự phúc thẩm: Trả lại cho ông Lê K 300.000 đồng tạm ứng
án phí dân sự phúc thẩm theo biên lai số 0016424 ngày 09/5/2023 của Chi Cục
Thi hành án dân sự thị xã La Gi. Trả lại cho ông Khưu Kim H 300.000 đồng tạm
ứng án phí dân sphúc thẩm theo biên lai số 0016422 ngày 08/5/2023 của Chi
Cục Thi hành án dân sự thị xã La Gi. Trả lại cho bà Lê Thị N 300.000 đồng tạm
ứng án phí dân sphúc thẩm theo biên lai số 0016423 ngày 08/5/2023 của Chi
Cục Thi hành án dân sự thị xã La Gi.
8. Bản án phúc thẩm có hiệu lực pháp luật kể từ ngày tuyên án (30/5/2025).
Trường hợp Bản án được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật Thi hành án
dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền
thỏa thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị
cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các Điều 6, 7, 7a, 7b và 9 Luật Thi hành
án dân sự.
Nơi nhận:
- VKSND tỉnh BT;
- TAND;VKSND La Gi;
- Chi cục THADS La Gi;
- Các đương sự;
- Cổng TTĐT-TANDTC
- Lưu: hồ sơ, Tổ HCTP, TDS;
TM. HỘI ĐỒNG XÉT XỬ
THẨM PHÁN – CHỦ TỌA PHIÊN TÒA
Nguyễn Lê Phương
10
11
Tải về
Bản án số 110/2025/DS-PT Bản án số 110/2025/DS-PT

Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để tải file. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!

Bản án số 110/2025/DS-PT Bản án số 110/2025/DS-PT

Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để tải file. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!

Bản án/ Quyết định cùng đối tượng

Bản án cùng lĩnh vực

Bản án mới nhất