Bản án số 11/2024/HNGĐ-ST ngày 20/06/2024 của TAND huyện Trùng Khánh, tỉnh Cao Bằng về tranh chấp về nuôi con, chia tài sản của nam, nữ chung sống với nhau như vợ chồng mà không đăng ký kết hôn hoặc hủy kết hôn trái pháp luật
- Thuộc tính
- Nội dung
- VB gốc
- VB liên quan
- Lược đồ
- Đính chính
- Án lệ
- BA/QĐ cùng nội dung
- Tải về
Tải văn bản
-
Bản án số 11/2024/HNGĐ-ST
Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để tải file. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!
-
Bản án số 11/2024/HNGĐ-ST
Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để tải file. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!
Báo lỗi
Thuộc tính Bản án 11/2024/HNGĐ-ST
Tên Bản án: | Bản án số 11/2024/HNGĐ-ST ngày 20/06/2024 của TAND huyện Trùng Khánh, tỉnh Cao Bằng về tranh chấp về nuôi con, chia tài sản của nam, nữ chung sống với nhau như vợ chồng mà không đăng ký kết hôn hoặc hủy kết hôn trái pháp luật |
---|---|
Quan hệ pháp luật: | Tranh chấp về nuôi con, chia tài sản của nam, nữ chung sống với nhau như vợ chồng mà không đăng ký kết hôn hoặc hủy kết hôn trái pháp luật |
Cấp xét xử: | Sơ thẩm |
Tòa án xét xử: | TAND huyện Trùng Khánh (TAND tỉnh Cao Bằng) |
Số hiệu: | 11/2024/HNGĐ-ST |
Loại văn bản: | Bản án |
Ngày ban hành: | 20/06/2024 |
Lĩnh vực: | Hôn nhân gia đình |
Áp dụng án lệ: |
Đã biết
Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để xem áp dụng án lệ. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây! |
Đính chính: |
Đã biết
Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để xem đính chính. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây! |
Thông tin về vụ/việc: | Không công nhận quan hệ vợ chồng giữa nam, nữ chung sống với nhau mà không đăng ký kết hôn, chia con chung, nợ chung. |
Tóm tắt Bản án
Nội dung tóm tắt đang được cập nhật, Quý khách vui lòng quay lại sau!
Tải văn bản

1
TÒA ÁN NHÂN DÂN
HUYỆN TRÙNG KHÁNH
TỈNH CAO BẰNG
Bản án số: 11/2024/HNGĐ - ST
Ngày 20/6/2024
V/v: Không công nhận quan hệ vợ
chồng giữa chị Riêm và anh Quang
CỘNG HÒA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM
Độc lập – Tự do – Hạnh phúc
NHÂN DANH
NƯỚC CỘNG HÒA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM
TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN TRÙNG KHÁNH, TỈNH CAO BẰNG
- Thành phần Hội đồng xét xử sơ thẩm gồm có:
Thẩm phán – Chủ tọa phiên tòa: Bà Bế Thị Thùy Linh.
Các Hội thẩm nhân dân: Ông Hoàng Văn Tâm và ông Hoàng Văn Học.
- Thư ký phiên tòa: Bà La Thị Huệ - Thư ký Tòa án nhân dân huyện Trùng
Khánh - tỉnh Cao Bằng.
- Đại diện Viện kiểm sát nhân dân huyện Trùng Khánh tham gia phiên tòa:
Bà Ma Kim Hiệp - Kiểm sát viên.
Trong ngày 20 tháng 6 năm 2024, tại Trụ sở Tòa án nhân dân huyện Trùng
Khánh, tỉnh Cao Bằng xét xử sơ thẩm công khai vụ án Hôn nhân và gia đình thụ lý
số 113/2023/TLST - HNGĐ ngày 13 tháng 11 năm 2023 về việc: “Không công
nhận quan hệ vợ chồng giữa nam, nữ chung sống với nhau mà không đăng ký kết
hôn, chia con chung, nợ chung”.
Theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 08/2024/QĐXXST-HNGĐ ngày 10
tháng 5 năm 2024; Quyết định hoãn phiên tòa số 08/2024/QĐST- HNGĐ ngày 24
tháng 5 năm 2024 và Thông báo mở lại phiên tòa số 08/TB-TA ngày 04 tháng 6
năm 2024 giữa các đương sự:
Nguyên đơn: Chị Hoàng Thị Riêm, sinh năm: 1988. (Có mặt)
Hộ khẩu thường trú: xóm Giộc Giao, xã Đình Phong, huyện Trùng Khánh,
tỉnh Cao Bằng.
Chỗ ở hiện nay: xóm Đồng Tâm, xã Chí Viễn, huyện Trùng Khánh, tỉnh Cao
Bằng.
Bị đơn: Anh Đàm Vinh Quang, sinh năm: 1985. (Vắng mặt không có lý do)
Hộ khẩu thường trú và chỗ ở hiện nay: xóm Giộc Giao, xã Đình Phong, huyện
Trùng Khánh, tỉnh Cao Bằng.
Người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan: Ngân hàng chính sách xã hội Việt
Nam. Người được ủy quyền: Bà Hoàng Thu Phương - Giám đốc Phòng giao dịch
2
Ngân hàng chính sách xã hội huyện Trùng Khánh, tỉnh Cao Bằng. (Vắng mặt có lý
do)
Địa chỉ: Tổ dân phố 05 Thị trấn Trùng Khánh, huyện Trùng Khánh, tỉnh Cao
Bằng.
NỘI DUNG VỤ ÁN
Theo đơn khởi kiện đề ngày 27 tháng 10 năm 2023 nộp tại Tòa án ngày 10
tháng 11 năm 2023, các bản tự khai, nguyên đơn chị Hoàng Thị Riêm trình bày:
Chị và anh Đàm Vinh Quang sống chung từ năm 2009, không đăng ký kết hôn tại
chính quyền địa phương, kết hôn trên cơ sở tự nguyện do hai bên gia đình giới
thiệu và tổ chức cưới hỏi theo phong tục tập quán địa phương. Sau khi sống chung
được khoảng 05 tháng, hai vợ chồng thường xuyên xảy ra mâu thuẫn, cãi nhau, anh
Quang đánh đập chị nhiều lần, đánh đến nỗi tím tái và đã được mọi người can
ngăn. Hai bên gia đình cũng đã hòa giải nhiều lần nhưng anh Quang vẫn không
thay đổi, vẫn thường xuyên đi chơi, uống rượu và đánh đập chị. Hai vợ chồng sống
ly thân đã được hơn 4 năm. Nay chị yêu cầu Tòa án giải quyết không công nhận
quan hệ vợ chồng cho chị và anh Quang; về con chung: trong quá trình chung sống
có 01 con chung tên Đàm Anh Khoa, sinh ngày 01/01/2011, hiện nay con đang ở
với anh Quang. Chị yêu cầu được trực tiếp nuôi con chung, tuy nhiên tại bản tự
khai bổ sung ngày 19/12/2023 chị thay đổi yêu cầu do chị đi làm công nhân xa nhà
không có đầy đủ điều kiện để trực tiếp chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục con chung
nên chị yêu cầu giao con chung cho anh Quang trực tiếp chăm sóc, nuôi dưỡng,
giáo dục và chị sẽ có trách nhiệm cấp dưỡng nuôi con hàng tháng theo quy định
của pháp luật; về tài sản chung chị không yêu cầu Tòa án giải quyết; về nợ chung,
hai anh chị có khoản nợ chung 50.000.000 đồng tại Phòng giao dịch Ngân hàng
chính sách xã hội huyện Trùng Khánh, đã trả được 10.000.000 đồng, hiện nay còn
40.000.000 đồng tiền gốc. Nay chị yêu cầu anh Quang có trách nhiệm cùng chị trả
khoản nợ chung. Tuy nhiên, đến ngày 16/5/2024 chị Riêm cung cấp Phiếu giao
dịch tại Chi nhánh Ngân hàng chính sách xã hội tỉnh Cao Bằng - Phòng giao dịch
Trùng Khánh thể hiện chị đã thanh toán một nửa số tiền gốc là 20.000.000 đồng
(tổng của hai mã món vay) và toàn bộ số tiền lãi đến ngày 15/5/2024 là 7.367.349
đồng (tổng của cả hai món vay). Nay số tiền gốc còn lại là 20.000.000 đồng (tổng
của hai mã món vay) và số lãi phát sinh từ ngày 15/5/2024 đến khi thanh toán
xong, khoản tiền còn lại này anh Quang có trách nhiệm tự trả hết. Ngoài ra, không
có ý kiến gì thêm.
Tại biên bản lấy lời khai ngày 19 tháng 12 năm 2023 , bị đơn anh Đàm Vinh
Quang trình bày: Anh xác nhận thời gian sống chung, con chung và tài sản chung,
3
nợ chung đúng như chị Riêm đã trình bày. Tuy nhiên, về mâu thuẫn vợ chồng anh
xác nhận không có mâu thẫu. Nay chị Riêm yêu cầu không công nhận quan hệ vợ
chồng anh không đồng ý, mong muốn được đoàn tụ với chị Riêm và cùng anh nuôi
con chung trưởng thành. Trong trường hợp không thể sống chung anh yêu cầu
được trực tiếp nuôi dưỡng, chăm sóc, giáo dục con chung và yêu cầu chị Riêm cấp
dưỡng nuôi con hàng tháng với số tiền là 2.000.000 đồng/01 tháng; về tài sản
chung để lại cho con không yêu cầu chia; về nợ chung xác nhận về khoản vay tại
Phòng giao dịch Ngân hàng chính sách xã hội huyện Trùng Khánh, tuy nhiên
không nhất trí trả, cho chị Riêm tự trả khoản nợ đó.
Tại biên bản lấy lời khai ngày 19 tháng 12 năm 2023, cháu Đàm Anh Khoa
trình bày: Cháu là con của mẹ Riêm, bố Quang. Hiện cháu đang học lớp 7 Trường
trung học cơ sở (THCS) Đình Phong. Mẹ của cháu đã bỏ nhà đi từ lúc cháu mới
học lớp 3, từ đó cũng không về thăm, gọi điện hỏi thăm cháu. Hiện nay cháu đang
ở với bố nhưng cháu tự nấu ăn, thức ăn thì qua nhà bà nội lấy, tiền học các năm
trước đó thì mẹ có gửi cho cô chủ nhiệm nộp, đến năm nay thì bố là người nộp tiền
học cho cháu. Nay bố mẹ ly hôn, cháu có nguyện vọng được ở với mẹ.
Tại biên bản xác minh ngày 19/12/2023 tại Ủy ban nhân dân (UBND) xã
Đình Phong, nội dung thể hiện: Qua kiểm tra thông tin sổ đăng ký kết hôn được
lưu tại UBND xã Đình Phong thể hiện giữa chị Riêm và anh Quang không làm thủ
tục đăng ký kết hôn tại UBND xã Đình Phong, huyện Trùng Khánh, tỉnh Cao
Bằng.
Tại biên bản xác minh ngày 08/5/2024 tại UBND xã Đình Phong, nội dung
thể hiện: Đàm Văn Quang và Đàm Vinh Quang là một người, có số căn cước công
dân là 004085008863, cấp ngày 09/5/2021 do Cục Cảnh sát quản lý hành chính về
trật tự xã hội, Bộ Công an cấp. Đàm Vinh Quang có vay vốn tại Phòng giao dịch
Ngân hàng chính sách xã hội huyện Trùng Khánh, tỉnh Cao Bằng vào tháng 5 năm
2020 và tháng 10 năm 2020. Tổng 02 lần vay là 40.000.000 đồng. Người đứng tên
vay là Đàm Văn Quang (Đàm Vinh Quang). Mục đích vay là mua trâu sinh sản,
vay theo chương trình hộ nghèo. Đến thời điểm hiện nay đã trả được bao nhiêu thì
không nắm được.
Tại văn bản số 43/ĐYC -NHCS ngày 12/3/2024 của Phòng giao dịch Ngân
hàng chính sách xã hội huyện Trùng Khánh, nội dung thể hiện: Căn cứ vào hợp
đồng tín dụng (Mã món vay): Số 6600000717670345 vay ngày 07/5/2020 số tiền
10.000.000 đồng, hạn trả nợ ngày 07/5/2025; số 6600000718949538 vay ngày
07/10/2020 số tiền 30.000.000 đồng, hạn trả nợ ngày 07/10/2025 của ông Đàm
Văn Quang (Đàm Vinh Quang (trú tại: xóm Giộc Giao, xã Đình Phong, huyện
4
Trùng Khánh, tỉnh Cao Bằng. Đến ngày 12/3/2024 tổng số tiền nợ của hộ gia đình
vay là 46.868.280 đồng. Trong đó, số tiền gốc là 40.000.000 đồng, số tiền lãi là
6.868.280 đồng. Tuy món vay chưa đến hạn, nhưng để bảo vệ quyền và lợi ích hợp
pháp của Ngân hàng đề nghị xác định nghĩa vụ trả nợ của vợ chồng bà Hoàng Thị
Riêm và ông Đàm Văn Quang. (Kèm theo văn bản là bộ hồ sơ vay vốn của hộ gia
đình ông Đàm Văn Quang). Do công việc của Phòng giao dịch Ngân hàng chính
sách xã hội huyện Trùng Khánh rất bận nên đề nghị Tòa án giải quyết vắng mặt
Ngân hàng.
Tại phiên tòa:
Nguyên đơn xác định không có tài liệu, chứng cứ nào khác để cung cấp
thêm và vẫn giữ nguyên yêu cầu khởi kiện, yêu cầu không công nhận quan hệ vợ
chồng giữa chị và anh Quang; về con chung: giao con chung cho anh Quang trực
tiếp chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục con chung và chị có trách nhiệm cấp dưỡng
nuôi con chung mỗi tháng 1.000.000 đồng; về tài sản chung, tài sản riêng, nợ riêng
không có nên không yêu cầu Tòa án giải quyết; đối với khoản nợ chung, chị yêu
cầu anh Quang có trách nhiệm trả số tiền gốc còn lại 20.000.000 đồng và lãi phát
sinh sau thời điểm ngày 15/5/2024 cho Phòng giao dịch Ngân hàng chính sách xã
hội huyện Trùng Khánh, tỉnh Cao Bằng, phần của chị Riêm đã trả đủ.
Đại diện Viện kiểm sát nhân dân huyện Trùng Khánh tham gia tố tụng tại
phiên tòa phát biểu ý kiến: Việc tuân theo pháp luật tố tụng trong quá trình giải
quyết vụ án của Thẩm phán, Hội đồng xét xử, Thư ký Tòa án và của đương sự, kể
từ khi thụ lý vụ án đến trước thời điểm Hội đồng xét xử nghị án là đúng theo quy
định của pháp luật, không có gì sai phạm. Quan điểm giải quyết vụ án, đề nghị Hội
đồng xét xử: Áp dụng Điều 5, 28, 35, 39, khoản 4 Điều 147, điểm b khoản 2 Điều
227, khoản 1 Điều 228, Điều 271, Điều 273 của Bộ luật Tố tụng dân sự; Điều 27,
37, 51, 53, 56, 57, 81, 82, 83, 84 Luật Hôn nhân và gia đình năm 2014; Nghị
quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Uỷ ban Thường vụ Quốc hội
quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa
án.
Tuyên xử: Chấp nhận yêu cầu khởi kiện của chị Hoàng Thị Riêm.
- Về quan hệ hôn nhân: Không công nhận chị Hoàng Thị Riêm và anh Đàm
Vinh Quang là vợ chồng;
- Về con chung, nghĩa vụ cấp dưỡng nuôi con chung và mức cấp dưỡng: Giao
con chung Đàm Anh Khoa, sinh ngày 01/01/2011 cho anh Quang trực tiếp chăm
5
sóc, nuôi dưỡng, giáo dục đến tuổi trưởng thành, chị Riêm có trách nhiệm cấp
dưỡng nuôi con chung Đàm Anh Khoa mỗi tháng 1.000.000 đồng;
- Về tài sản chung: Không yêu cầu nên không xem xét giải quyết;
- Về nợ chung: Xác nhận chị Hoàng Thị Riêm đã thanh toán đầy đủ phần
nghĩa vụ đối với khoản vay tại Phòng giao dịch Ngân hàng chính sách xã hội
huyện Trùng Khánh, tỉnh Cao Bằng. Anh Quang có trách nhiệm trả số tiền gốc còn
lại 20.000.000 đồng và lãi phát sinh sau thời điểm ngày 15/5/2024 cho Phòng giao
dịch Ngân hàng chính sách xã hội huyện Trùng Khánh, tỉnh Cao Bằng.
- Về án phí: Chị Riêm được miễn án phí dân sự sơ thẩm theo quy định của
pháp luật. Anh Quang phải chịu án phí dân sự sơ thẩm có giá ngạch theo quy định
của pháp luật.
NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN:
Sau khi nghiên cứu các tài liệu, chứng cứ có trong hồ sơ vụ án được thẩm tra
tại phiên tòa và sau khi nghe đương sự trình bày tại phiên tòa, Hội đồng xét xử
nhận định:
[1] Về thủ tục tố tụng: Nguyên đơn đã chấp hành các quy định của pháp luật,
bị đơn đã được Tòa án triệu tập hợp lệ lần thứ hai để tham gia phiên tòa nhưng
vắng mặt, người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan vắng mặt có đơn đề nghị Tòa án
xét xử vắng mặt. Căn cứ vào điểm b khoản 2 Điều 227, khoản 1 Điều 228 của Bộ
luật tố tụng dân sự, Tòa án tiến hành xét xử theo thủ tục vắng mặt bị đơn và người
có quyền lợi nghĩa vụ liên quan.
[2] Về quan hệ tranh chấp và thẩm quyền: Chị Riêm và anh Quang đều đăng
ký hộ khẩu và cư trú trên địa bàn huyện Trùng Khánh, tỉnh Cao Bằng. Nay chị
Riêm có đơn khởi kiện yêu cầu Tòa án không công nhận quan hệ vợ chồng giữa
chị và anh Quang, yêu cầu giải quyết về con chung và nợ chung. Theo quy định tại
khoản 7 Điều 28, điểm a khoản 1 Điều 35, Điều 39 của Bộ luật Tố tụng Dân sự thì
vụ án thuộc thẩm quyền giải quyết của Toà án nhân dân huyện Trùng Khánh, tỉnh
Cao Bằng.
[3] Về lý lịch đương sự: Theo đơn khởi kiện ngày 27/10/2023 và các tài liệu
kèm theo đơn khởi kiện, người bị kiện có tên Đàm Vinh Quang. Tuy nhiên, trong
quá trình giải quyết vụ án, người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan có cung cấp sổ
vay vốn, mã khách hàng 7056689371 tại Phòng giao dịch Ngân hàng chính sách xã
hội huyện Trùng Khánh, xác định họ tên người vay là Đàm Văn Quang. Tại biên
bản xác minh ngày 08/5/2024 tại UBND xã Đình Phong xác nhận Đàm Vinh

6
Quang và Đàm Văn Quang là cùng một người, tên chính xác là Đàm Vinh Quang,
có số căn cước công dân là 004085008863, cấp ngày 09/5/2021 do Cục Cảnh sát
quản lý hành chính về trật tự xã hội, Bộ Công an cấp.
[4] Về quan hệ hôn nhân: Chị Riêm và anh Quang được hai bên gia đình tổ
chức cưới hỏi cho theo phong tục tập quán địa phương vào ngày 24 tháng 11 năm
2009 và không đăng ký kết hôn.
Trong quá trình chung sống, chị Riêm cho rằng hai vợ chồng thường xuyên
xảy ra mâu thuẫn, cãi nhau, anh Quang đánh đập chị nhiều lần, đánh đến nỗi tím
tái và đã được mọi người can ngăn. Hai bên gia đình cũng đã hòa giải nhiều lần
nhưng anh Quang vẫn không thay đổi, vẫn thường xuyên đi chơi, uống rượu và
đánh đập chị. Hai vợ chồng sống ly thân đã được hơn 04 năm. Tại biên bản lấy lời
khai đương sự ngày 19 tháng 12 năm 2023, bị đơn Đàm Vinh Quang cho rằng, tình
cảm vợ chồng vẫn bình thường và không xảy ra mâu thuẫn, cãi vã gì. Anh cũng
không biết nguyên nhân, lý do vì sao chị Riêm lại bỏ đi và yêu cầu ly hôn với anh.
Tại phiên tòa chị Riêm vẫn giữ nguyên yêu cầu Tòa án giải quyết không công
nhận quan hệ vợ chồng giữa chị và anh Quang.
Căn cứ vào lời khai của nguyên đơn Hoàng Thị Riêm và bị đơn Đàm Vinh
Quang và những chứng cứ, tài liệu thu thập được có trong hồ sơ vụ án, Hội đồng
xét xử có cơ sở khẳng định: Chị Riêm và anh Quang chưa đăng ký kết hôn theo
quy định của pháp luật Hôn nhân và gia đình. Theo hướng dẫn tại khoản 4 Điều 3
Thông tư liên tịch số 01/2016/TTLT-TANDTC-VKSNDTC-BTP ngày 06/01/2016
của Tòa án nhân dân Tối cao, Viện kiểm sát nhân dân Tối cao, Bộ Tư pháp hướng
dẫn một số quy định của Luật Hôn nhân và gia đình “ Trường hợp nam, nữ chung
sống với nhau như vợ chồng mà không có đăng ký kết hôn (không phân biệt có vi
phạm điều kiện kết hôn hay không) và có yêu cầu hủy việc kết hôn trái pháp luật
hoặc yêu cầu ly hôn thì Tòa án thụ lý, giải quyết và áp dụng Điều 9 và Điều 14 của
Luật hôn nhân và gia đình tuyên bố không công nhận quan hệ hôn nhân giữa
họ...".
Mặt khác, theo khoản 1 Điều 14 Luật Hôn nhân và gia đình năm 2014 quy
định: “Nam, nữ có đủ điều kiện kết hôn theo quy định của Luật này chung sống với
nhau như vợ chồng mà không đăng ký kết hôn thì không làm phát sinh quyền,
nghĩa vụ giữa vợ và chồng. Quyền, nghĩa vụ đối với con, tài sản, nghĩa vụ và hợp
đồng giữa các bên được giải quyết theo quy định tại Điều 15 và Điều 16 của Luật
này.”
7
Do đó, Hội đồng xét xử xét thấy yêu cầu khởi kiện của chị Riêm và ý kiến của
đại diện Viện kiểm sát là có căn cứ và phù hợp với quy định của pháp luật nên cần
được chấp nhận.
[5] Về con chung: Chị Riêm và anh Quang có 01 con chung tên Đàm Anh
Khoa, sinh ngày 01/01/2011. Hiện nay con chung đang ở với anh Quang.
Tại đơn khởi kiện chị Riêm yêu cầu được trực tiếp nuôi dưỡng, chăm sóc,
giáo dục con chung và yêu cầu anh Quang cấp dưỡng nuôi con chung là 1.000.000
đồng/01 tháng. Tuy nhiên, tại bản tự khai bổ sung ngày 19/12/2023, chị Riêm thay
đổi yêu cầu do chị đi làm công nhân xa nhà không có đầy đủ điều kiện để trực tiếp
chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục con chung nên chị yêu cầu giao con chung cho anh
Quang trực tiếp chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục và chị sẽ có trách nhiệm cấp
dưỡng nuôi con hàng tháng là 1.000.000 đồng. Tại biên bản lấy lời khai đối với
anh Quang, anh yêu cầu được trực tiếp nuôi dưỡng, chăm sóc, giáo dục con chung
và yêu cầu chị Riêm cấp dưỡng nuôi con hàng tháng với số tiền là 2.000.000
đồng/01 tháng.
Căn cứ vào các tài liệu chứng cứ có trong hồ sơ cũng như lời khai của đương
sự, kết quả xác minh tại địa phương thể hiện, hiện nay cháu Khoa đang ở với bố.
Cháu Khoa có nguyện vọng được ở với mẹ, tuy nhiên cháu xác nhận mẹ của cháu
đã bỏ nhà đi từ lúc cháu mới học lớp 3, từ đó cũng không về thăm, gọi điện hỏi
thăm cháu, cháu cũng đã tự lập, tự nấu ăn, thức ăn thì qua nhà bà nội lấy, tiền học
các năm trước đó thì mẹ có gửi cho cô chủ nhiệm nộp, đến năm nay thì bố là người
nộp tiền học cho cháu. Mặt khác, chị Riêm trình bày do chị đi làm công nhân xa
nhà không có đầy đủ điều kiện để trực tiếp chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục con
chung; anh Quang có nguyện vọng được trực tiếp nuôi dưỡng, chăm sóc giáo dục
con chung. Do đó, Hội đồng xét xử xét thấy để đảm bảo quyền lợi về mọi mặt cho
con chung cần giao con chung Đàm Anh Khoa cho anh Quang trực tiếp chăm sóc,
nuôi dưỡng, giáo dục đến khi cháu trưởng thành (hoặc đến khi có Bản án, Quyết
định khác của Tòa án thay thế) là hoàn toàn phù hợp với thực tế về nơi ăn, ở, sinh
hoạt của cháu, cũng như nguyện vọng của chị Riêm, anh Quang, tạo sự ổn định về
cuộc sống sinh hoạt cho cả chị Riêm và anh Quang và cháu Khoa.
[6] Về nghĩa vụ cấp dưỡng nuôi con chung và mức cấp dưỡng: Theo quy định
tại khoản 2 Điều 82 Luật Hôn nhân và gia đình năm 2014 quy định “cha mẹ không
trực tiếp nuôi con có nghĩa vụ cấp dưỡng cho con”. Trong quá trình giải quyết vụ
án và tại phiên tòa, chị Riêm có nguyện vọng cấp dưỡng nuôi con chung theo quy
định của pháp luật, anh Quang yêu cầu chị có trách nhiệm cấp dưỡng nuôi con
chung là 2.000.000 đồng/01 tháng. Hội đồng xét xử xét thấy, chị Riêm và anh
8
Quang không tự thỏa thuận được mức cấp dưỡng nuôi con chung. Vì vậy, Tòa án
xem xét mức thu nhập thực tế và mức sống chung ở địa phương, căn cứ vào mức
lương tối thiểu, điều kiện hoàn cảnh kinh tế và nguyện vọng của chị Riêm thấy
mức cấp dưỡng 1.000.000 đồng/01 tháng cho con chung Đàm Anh Khoa là có căn
cứ và phù hợp với quy định của pháp luật. Thời điểm cấp dưỡng được tính từ tháng
7 năm 2024 cho đến khi con chung trưởng thành (Đủ 18 tuổi hoặc đến khi có Bản
án, Quyết định khác của Tòa án thay thế).
Sau khi ly hôn, người không trực tiếp nuôi con có quyền, nghĩa vụ thăm nom
con chung, không ai được cản trở. Cha, mẹ trực tiếp nuôi con cùng các thành viên
gia đình không được cản trở người không trực tiếp nuôi con trong việc thăm nom,
chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục con chung.
Việc thay đổi người trực tiếp nuôi con, thay đổi mức cấp dưỡng nuôi con
được giải quyết theo quy định của pháp luật khi có yêu cầu.
[7] Về tài sản chung, các đương sự không yêu cầu Tòa án giải quyết nên Hội
đồng xét xử không xem xét.
[8] Về nợ chung: Trong thời kỳ chung sống, chị Hoàng Thị Riêm và anh Đàm
Vinh Quang có vay tiền tại Phòng giao dịch Ngân hàng chính sách xã hội huyện
Trùng Khánh, tỉnh Cao Bằng 02 lần: Lần 1 vay số tiền 10.000.000 đồng vào ngày
07/5/2020, mục đích mua trâu sinh sản; lần 2 vay số tiền 30.000.000 đồng vào
ngày 07/10/2020, mục đích mua trâu sinh sản. Tổng cộng số tiền vay là 40.000.000
đồng là đúng thực tế.
Anh Đàm Vinh Quang đã được Tòa án triệu tập hợp lệ lần thứ hai để tham gia
phiên tòa nhưng vắng mặt không có lý do. Tại phiên tòa, chị Hoàng Thị Riêm xác
nhận đã thanh toán đầy đủ phần nghĩa vụ đối với khoản vay tại Phòng giao dịch
Ngân hàng chính sách xã hội huyện Trùng Khánh, tỉnh Cao Bằng. Chị Riêm yêu
cầu anh Quang có trách nhiệm trả số tiền gốc còn lại 20.000.000 đồng và lãi phát
sinh sau thời điểm ngày 15/5/2024 cho Phòng giao dịch Ngân hàng chính sách xã
hội huyện Trùng Khánh, tỉnh Cao Bằng.
Hội đồng xét xử xét thấy, các tài liệu có trong hồ sơ vụ án, lời trình bày của
các đương sự xác định trong thời kỳ chung sống với nhau như vợ chồng của chị
Riêm và anh Quang còn tồn tại khoản vay tại Phòng giao dịch Ngân hàng chính
sách xã hội huyện Trùng Khánh, tỉnh Cao Bằng số tiền 20.000.000 đồng. Nay chị
Riêm yêu cầu Tòa án giải quyết không công nhận quan hệ vợ chồng giữa chị Riêm
và anh Quang, phòng Giao dịch Ngân hàng chính sách xã hội huyện Trùng Khánh,
tỉnh Cao Bằng đã có ý kiến bằng văn bản yêu cầu chị Riêm và anh Quang phải có
9
trách nhiệm trả số tiền vay gốc 40.000.000 đồng theo sổ vay vốn và lãi suất phát
sinh cho Ngân hàng; đến ngày 16/5/2024 chị Riêm cung cấp Phiếu giao dịch tại
Chi nhánh Ngân hàng chính sách xã hội tỉnh Cao Bằng - Phòng giao dịch Trùng
Khánh thể hiện chị đã thanh toán một nửa số tiền gốc là 20.000.000 đồng (tổng của
hai mã món vay) và toàn bộ số tiền lãi đến ngày 15/5/2024 là 7.367.349 đồng (tổng
của cả hai món vay). Nay số tiền gốc còn lại là 20.000.000 đồng (tổng của hai mã
món vay) và số lãi phát sinh từ ngày 15/5/2024. Do đó, chị Riêm yêu cầu anh
Quang phải có trách nhiệm trả khoản tiền vay với số tiền gốc còn lại là 20.000.000
đồng (tổng của hai mã món vay) và số lãi phát sinh từ ngày 15/5/2024 và ý kiến
của đại diện Viện kiểm sát là có căn cứ và phù hợp với quy định của pháp luật cần
được chấp nhận.
[9] Về án phí: Chị Hoàng Thị Riêm, anh Đàm Vinh Quang phải chịu án phí
dân sự sơ thẩm theo quy định của pháp luật để sung vào Ngân sách Nhà nước. Tuy
nhiên, chị Riêm có đơn xin miễn án phí, trong đơn thể hiện, chị Riêm đang sinh
sống tại vùng kinh tế, xã hội đặc biệt khó khăn. Hội đồng xét xử xét thấy việc chị
Riêm yêu cầu xin miễn án phí là phù hợp với quy định tại điểm đ khoản 1 Điều 12
Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14 ngày 30 tháng 12 năm 2016 của Uỷ ban
Thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu nộp, quản lý và sử
dụng án phí và lệ phí Tòa án nên cần được chấp nhận. Hoàn trả lại cho chị Riêm số
tiền 1.550.000 đồng (một triệu năm trăm năm mươi nghìn đồng) theo Biên lai thu
tạm ứng án phí, lệ phí Tòa án số 0002615 ngày 13 tháng 11 năm 2023 tại Chi cục
Thi hành án dân sự huyện Trùng Khánh, tỉnh Cao Bằng;
Anh Đàm Vinh Quang phải chịu án phí dân sự sơ thẩm có giá ngạch phần
trách nhiệm trả nợ 20.000.000 đồng x 5% = 1.000.000 đồng.
[10] Về quyền kháng cáo: Các đương sự có quyền kháng cáo bản án theo
quy định của pháp luật.
Vì các lẽ trên:
QUYẾT ĐỊNH:
Căn cứ Điều 5, 28, 35, 39, khoản 4 Điều 147, điểm b khoản 2 Điều 227,
khoản 1 Điều 228, Điều 271, Điều 273 của Bộ luật Tố tụng dân sự;
Căn cứ các Điều 27, 37, 51, 53, 56, 57, 81, 82, 83, 84 Luật Hôn nhân và gia
đình năm 2014;
Căn cứ điểm đ khoản 1 Điều 12; điểm a khoản 5 Điều 27 Nghị quyết số
326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Uỷ ban Thường vụ Quốc hội quy
định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án.
10
Tuyên xử:
1. Về quan hệ hôn nhân: Không công nhận quan hệ vợ chồng giữa chị
Hoàng Thị Riêm và anh Đàm Vinh Quang.
2. Về con chung, nghĩa vụ cấp dưỡng nuôi con chung và mức cấp
dưỡng: Giao con chung Đàm Anh Khoa, sinh ngày 01 tháng 01 năm 2011 cho anh
Quang trực tiếp trông nom, chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục cho đến khi con chung
trưởng thành (đủ 18 tuổi hoặc đến khi có Bản án, Quyết định khác của Tòa án thay
thế). Chị Hoàng Thị Riêm có nghĩa vụ cấp dưỡng nuôi con chung là 1.000.000
đồng/01 tháng. Phương thức cấp dưỡng theo tháng, thời điểm cấp dưỡng tính từ
tháng 7 năm 2024 cho đến khi con chung trưởng thành (đủ 18 tuổi hoặc đến khi có
Bản án, Quyết định khác của Tòa án thay thế).
Sau khi ly hôn, người không trực tiếp nuôi con có quyền, nghĩa vụ thăm nom
con chung, không ai được cản trở. Cha, mẹ trực tiếp nuôi con cùng các thành viên
gia đình không được cản trở người không trực tiếp nuôi con trong việc thăm nom,
chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục con chung.
Việc thay đổi người trực tiếp nuôi con, thay đổi mức cấp dưỡng nuôi con
được giải quyết theo quy định của pháp luật khi có yêu cầu.
3. Về tài sản chung: Không xem xét, giải quyết.
4. Về nợ chung: Anh Đàm Vinh Quang có trách nhiệm trả tiền vay cho
Phòng Giao dịch Ngân hàng chính sách xã hội huyện Trùng Khánh, tỉnh Cao Bằng
hai khoản vay là 20.000.000 đồng (hai mươi triệu đồng) tiền gốc vay vốn và lãi
suất phát sinh.
5. Về án phí: Anh Đàm Vinh Quang phải chịu 1.000.000 đồng (một triệu
đồng) án phí dân sự sơ thẩm có giá ngạch sung vào Ngân sách Nhà nước.
Kể từ ngày bản án có hiệu lực pháp luật (đối với các trường hợp cơ quan thi
hành án có quyền chủ động ra quyết định thi hành án) hoặc kể từ ngày có đơn yêu
cầu thi hành án của người được thi hành án (đối với các khoản tiền phải trả cho
người được thi hành án) cho đến khi thi hành án xong tất cả các khoản tiền, hàng
tháng bên phải thi hành án còn phải chịu khoản tiền lãi của số tiền còn phải thi
hành án theo mức lãi suất quy định tại khoản 2 Điều 468 của Bộ luật Dân sự năm
2015.
11
Trường hợp Bản án, Quyết định được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật
thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân
sự có quyền thỏa thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành
án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các Điều 6,7 và 9 Luật thi hành
án dân sự. Thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật thi
hành án dân sự.
6. Về quyền kháng cáo: Chị Hoàng Thị Riêm có quyền kháng cáo bản án
trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án; Anh Đàm Vinh Quang, người có
quyền lợi nghĩa vụ liên quan vắng mặt có quyền kháng cáo bản án trong thời hạn
15 ngày kể từ ngày nhận được bản án hoặc bản án được niêm yết hợp lệ./.
Nơi nhận:
- TAND tỉnh Cao Bằng;
- VKSND tỉnh Cao Bằng;
- VKSND huyện Trùng Khánh;
- Các đương sự;
- Chi cục THADS huyện Trùng Khánh;
- UBND xã Đ;
- Lưu HS vụ án;
- Lưu án văn.
T.M HỘI ĐỒNG XÉT XỬ SƠ THẨM
THẨM PHÁN - CHỦ TỌA PHIÊN TÒA
Bế Thị Thùy Linh
Tải về
Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để tải file. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!
Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để tải file. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!
Bản án/ Quyết định cùng đối tượng
1
Ban hành: 09/04/2025
Cấp xét xử: Sơ thẩm
2
Ban hành: 26/03/2025
Cấp xét xử: Sơ thẩm
3
Ban hành: 26/03/2025
Cấp xét xử: Sơ thẩm
4
Ban hành: 12/03/2025
Cấp xét xử: Sơ thẩm
5
Ban hành: 07/03/2025
Cấp xét xử: Sơ thẩm
6
Ban hành: 24/02/2025
Cấp xét xử: Sơ thẩm
7
Ban hành: 13/02/2025
Cấp xét xử: Sơ thẩm
8
Ban hành: 13/02/2025
Cấp xét xử: Sơ thẩm
9
Ban hành: 24/01/2025
Cấp xét xử: Sơ thẩm
10
Ban hành: 23/01/2025
Cấp xét xử: Sơ thẩm
11
Ban hành: 22/01/2025
Cấp xét xử: Sơ thẩm
12
Ban hành: 20/01/2025
Cấp xét xử: Sơ thẩm
13
Ban hành: 16/01/2025
Cấp xét xử: Sơ thẩm
14
Ban hành: 08/01/2025
Cấp xét xử: Sơ thẩm
15
Ban hành: 06/01/2025
Cấp xét xử: Sơ thẩm
16
Ban hành: 30/12/2024
Cấp xét xử: Sơ thẩm
17
Ban hành: 30/12/2024
Cấp xét xử: Sơ thẩm
18
Ban hành: 29/12/2024
Cấp xét xử: Sơ thẩm
19
Ban hành: 27/12/2024
Cấp xét xử: Sơ thẩm
20
Ban hành: 25/12/2024
Cấp xét xử: Sơ thẩm