Bản án số 108/2025/DS-PT ngày 26/02/2025 của TAND tỉnh Bến Tre về tranh chấp quyền sử dụng đất
- Thuộc tính
- Nội dung
- VB gốc
- VB liên quan
- Lược đồ
- Đính chính
- Án lệ
- BA/QĐ cùng nội dung
- Tải về
Tải văn bản
-
Bản án số 108/2025/DS-PT
Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để tải file. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!
-
Bản án số 108/2025/DS-PT
Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để tải file. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!
Báo lỗi
Thuộc tính Bản án 108/2025/DS-PT
Tên Bản án: | Bản án số 108/2025/DS-PT ngày 26/02/2025 của TAND tỉnh Bến Tre về tranh chấp quyền sử dụng đất |
---|---|
Quan hệ pháp luật: | Tranh chấp quyền sử dụng đất |
Cấp xét xử: | Phúc thẩm |
Tòa án xét xử: | TAND tỉnh Bến Tre |
Số hiệu: | 108/2025/DS-PT |
Loại văn bản: | Bản án |
Ngày ban hành: | 26/02/2025 |
Lĩnh vực: | Dân sự |
Áp dụng án lệ: |
Đã biết
Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để xem áp dụng án lệ. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây! |
Đính chính: |
Đã biết
Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để xem đính chính. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây! |
Thông tin về vụ/việc: | - Không chấp nhận kháng cáo của nguyên đơn ông Hồ Văn Đ, bà Đặng Thị G. - Giữ nguyên Bản án dân sự sơ thẩm. |
Tóm tắt Bản án
Nội dung tóm tắt đang được cập nhật, Quý khách vui lòng quay lại sau!
Tải văn bản

1
NHÂN DANH
NƯỚC CỘNG HÒA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM
TÒA ÁN NHÂN DÂN TỈNH BẾN TRE
- Thành phần Hội đồng xét xử phúc thẩm gồm có:
Thẩm phán - Chủ tọa phiên tòa: Ông Lê Minh Đạt
Các Thẩm phán: Ông Nguyễn Hữu Lương
Ông Lê Văn Phận
- Thư ký phiên tòa: Bà Phạm Thị Yến Mai - Thẩm tra viên chính Tòa án
nhân dân tỉnh Bến Tre.
- Đại diện Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Bến Tre: Bà Nguyễn Thị Xa
Riêng - Kiểm sát viên.
Ngày 19 tháng 02 năm 2025, tại trụ sở Tòa án nhân dân tỉnh Bến Tre xét
xử phúc thẩm công khai vụ án đã thụ lý số: 574/2024/TLPT-DS ngày 02 tháng
12 năm 2024 về việc
“
Tranh chấp quyền sử dụng đất và yêu cầu chấm dứt hành
vi cản trở quyền sử dụng đất”.
Do Bản án dân sự sơ thẩm số: 148/2024/DS-ST ngày 06 tháng 9 năm
2024 của Tòa án nhân dân huyện T, tỉnh Bến Tre bị kháng cáo.
Theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử phúc thẩm số: 60/2025/QĐ-PT ngày
03 tháng 01 năm 2025, giữa các đương sự:
1. Nguyên đơn:
1.1. Ông Hồ Văn Đ, sinh năm 1953;
1.2. Bà Đặng Thị G, sinh năm 1954;
Cùng địa chỉ: Ấp Đ1, xã T, huyện T, tỉnh Bến Tre.
- Người đại diện theo ủy quyền của các nguyên đơn: Bà Nguyễn Thị Ngọc
P, sinh năm 1960. Địa chỉ: Khu phố A, thị trấn T, huyện T, tỉnh Bến Tre. (có
mặt)
2. Bị đơn:
2.1. Bà Nguyễn Thị M, sinh năm 1947; (đã được Tòa án triệu tập hợp lệ
TÒA ÁN NHÂN DÂN
TỈNH BẾN TRE
Bản án số: 108/2025/DS-PT
Ngày: 19/02/2025
V/v “
Tranh chấp quyền sử
dụng đất và yêu cầu chấm
dứt hành vi cản trở quyền sử
dụng đất”.
CỘNG HÒA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM
Độc lập - Tự do - Hạnh phúc
2
lần hai nhưng vắng mặt không có lý do)
2.2. Bà Đặng Thị P, sinh năm 1964; (đã được Tòa án triệu tập hợp lệ lần
hai nhưng vắng mặt không có lý do)
Cùng địa chỉ: Ấp Đ1, xã T, huyện T, tỉnh Bến Tre.
3. Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan:
3.1. Bà Hồ Thị T, sinh năm 1976;
3.2. Bà Hồ Thị Lệ T, sinh năm 1978;
3.3. Bà Hồ Thị T, sinh năm 1980;
3.4. Ông Hồ Văn B, sinh năm 1983;
3.5. Bà Đặng Ngọc B, sinh năm 1997;
Cùng địa chỉ: Ấp Đ1, xã T, huyện T, tỉnh Bến Tre.
- Người đại diện theo ủy quyền của những người có quyền lợi, nghĩa vụ
liên quan: Bà Nguyễn Thị Ngọc P, sinh năm 1960. Địa chỉ: Khu phố A, thị trấn
T, huyện T, tỉnh Bến Tre. (có mặt)
* Người kháng cáo: Ông Hồ Văn Đ, bà Đặng Thị G là nguyên đơn trong
vụ án.
NỘI DUNG VỤ ÁN:
Theo bản án sơ thẩm:
* Theo đơn khởi kiện đề ngày 12/12/2022, đơn sửa đổi bổ sung đơn kiện
ngày 08/02/2024, trong quá trình tố tụng và tại phiên tòa sơ thẩm, người đại
diện theo ủy quyền của nguyên đơn bà Nguyễn Thị Ngọc P trình bày:
Vào năm 1995, ông Đ và bà G có nhận thục của bà M phần đất có diện
tích khoảng 1.200m
2
với giá là 5 chỉ vàng 24k, kỳ hạn chuộc là 3 năm. Việc thục
đất hai bên có làm giấy tay, do bà G giữ. Khoảng vài tháng sau cũng trong năm
1995, bà M kêu đưa thêm 2 chỉ vàng 24k nữa để hai bên chuyển nhượng hẳn đất
trên luôn. Sau khi thống nhất chuyển từ thục đất sang chuyển nhượng đất, hai
bên bỏ giấy thục đất trước đó và lập lại một bản giấy tay thể hiện nội dung bà M
chuyển nhượng cho ông Đ, bà G phần đất 1.200m
2
với giá 7 chỉ vàng 24k. Tuy
nhiên, hiện nay giấy chuyển nhượng trên không còn, do khi bà G đi đăng ký kê
khai đất này để được cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất trong đó có phần
đất chuyển nhượng của bà M thì bà G đã nộp luôn giấy tay sang nhượng đất với
bà M cho cơ quan nhà nước có thẩm quyền. Đến năm 1997, Nhà nước cấp giấy
chứng nhận quyền sử dụng đất phần đất chuyển nhượng của bà M cho hộ ông Đ
đại diện đứng tên là thửa 285, tờ bản đồ số 16, diện tích là 1.134m
2
. Đến ngày
22/12/2015, Nhà nước tiến hành cấp đổi lại giấy chứng nhận quyền sử dụng đất
cho cả huyện nên đã nhập các thửa đất nhà của hộ ông Đ cùng với thửa đất 285
3
chuyển nhượng của bà M thành một thửa chung là thửa 285, tờ bản đồ số 16,
diện tích chung là 3.205,5m
2
.
Về quản lý, sử dụng phần đất tranh chấp thì sau khi chuyển nhượng từ
năm 1995, bà Đ, ông G quản lý, sử dụng trồng lúa, không có tranh chấp. Đến
năm 2017, bà M và bà P có hành vi cản trở quyền sử dụng đất của nguyên đơn
đối với phần đất đã chuyển nhượng cho nguyên đơn, cụ thể không cho nguyên
đơn vào đất xạ lúa, khi đó nguyên đơn có yêu cầu chính quyền giải quyết thì
canh tác được năm 2017 đến năm 2018 không canh tác được do bà P và bà M
cản trở. Từ năm 2018 đến nay nguyên đơn không canh tác được nên tranh chấp
với bị đơn. Khi Tòa án thẩm định đo đạc hiện trạng đất vào năm 2020 thì bị đơn
đã lấn chiếm một phần đất của nguyên đơn sử dụng nên nguyên đơn rút đơn
khởi kiện để làm thủ tục khởi kiện lại cho đúng hiện trạng tranh chấp, vụ án đó
được đình chỉ giải quyết vào ngày 26/4/2021.
Nay nguyên đơn ông Đ, bà G khởi kiện yêu cầu Tòa án giải quyết buộc bị
đơn bà Nguyễn Thị M và bà Đặng Thị P phải chấm dứt hành vi cản trở quyền sử
dụng đất của nguyên đơn với diện tích là 880,5m
2
thuộc phần số 2 của bản vẽ đo
ngày 27/10/2020, đồng thời buộc bị đơn bà Nguyễn Thị M và bà Đặng Thị P di
dời tài sản và cây trồng trả lại phần đất lấn chiếm của nguyên đơn là 161,5m
2
thuộc phần số 3 của bản vẽ đo ngày 27/10/2020. Phần đất có diện tích 33,5m
2
thuộc phần số 4 của bản vẽ nguyên đơn không tranh chấp.
Nguyên đơn thống nhất kết quả định giá và sử dụng trích lục bản vẽ đo
đạc ngày 27/10/2020 để xét xử.
* Đối với bị đơn bà Nguyễn Thị M và bà Đặng Thị P: Trong quá trình tố
tụng, Tòa án đã tống đạt rất nhiều lần thư mời bị đơn bà Nguyễn Thị M và bà
Đặng Thị P tham gia giải quyết vụ kiện theo tranh chấp của nguyên đơn Hồ Văn
Đ, Đặng Thị G nhưng bà M và bà P đều không đến tham dự. Bà P, bà M cũng
không có văn bản nêu ý kiến phản hồi đối với yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn
đến Tòa án.
Tại biên bản hòa giải của Ủy ban nhân dân xã T ngày 13/01/2022, bị đơn
bà Nguyễn Thị M có trình bày: Trước đây bà có thục đất cho ông Đ, bà G với
diện tích là 1.250m
2
với số vàng là 7 chỉ vàng 24k. Nay bà yêu cầu xin được
chuộc lại để canh tác.
Tại biên bản đối chất ngày 25/8/2020 của Tòa án theo hồ sơ vụ án thụ lý
số 192 ngày 24/7/2019 được Tòa án đình chỉ giải quyết ngày 26/4/2021 thì bị
đơn bà Nguyễn Thị M và bà Đặng Thị P cùng trình bày như sau: Phần đất tranh
chấp là của bà M. Năm 1987, bà có cho vợ chồng ông Đ, bà G thục đất trên với
hình thức là thục bạc còn, với giá thục là 7 chỉ vàng 24k, không có kỳ hạn. Việc
4
thục đất hai bên có làm giấy tay, giấy do bà G giữ. Năm 1995, Nhà nước có chủ
trương kê khai đăng ký làm giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, do gia cảnh ít
người, thiếu hiểu biết nên không rõ thủ tục chỉ làm theo hướng dẫn của chính
quyền. Khi nhận giấy chứng nhận quyền sử dụng đất không có thửa đất này thì
gia đình có khiếu nại nhiều lần, khiếu nại lần cuối là năm 2019, các lần khiếu
nại chỉ có báo miệng nên không được xem xét giải quyết. Bà đã nhiều lần đến
gặp ông Đ, bà G yêu cầu cho chuộc lại đất nhưng ông Đ, bà G đòi cho chuộc lại
với giá 15 chỉ vàng, bà không đồng ý nên ngăn cản không cho ông Đ, bà G sử
dụng đất. Phần đất bà P sử dụng là thửa đất khác của gia đình, đất từ khi thục
đến nay có hiện trạng trồng lúa không thay đổi.
Do hòa giải không thành nên Tòa án nhân dân huyện T, tỉnh Bến Tre đưa
vụ án ra xét xử.
Tại Bản án dân sự sơ thẩm số 148/2024/DS-ST ngày 06/9/2024 của Tòa
án nhân dân huyện T, tỉnh Bến Tre đã tuyên xử:
1. Chấp nhận một phần yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn về việc yêu cầu
chấm dứt hành vi cản trở quyền sử dụng đất. Buộc các bị đơn bà Nguyễn Thị M
và bà Đặng Thị P phải chấm dứt hành vi cản trở quyền sử dụng đất của nguyên
đơn ông Hồ Văn Đ, bà Đặng Thị G tại phần đất có diện tích là 880,5m² thuộc
phần số 2 của bản vẽ thuộc một phần của thửa đất số 285, tờ bản đồ số 16, tọa
lạc tại xã T, huyện T, tỉnh Bến Tre.
2. Không chấp nhận phần yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn về tranh
chấp quyền sử dụng đất, cụ thể về việc yêu cầu buộc các bị đơn bà Nguyễn Thị
M và bà Đặng Thị P di dời cây trồng trả phần đất lấn chiếm cho nguyên đơn ông
Hồ Văn Đ, bà Đặng Thị G tại phần đất có diện tích là 161,5m² thuộc phần số 3
của bản vẽ, thuộc một phần của thửa đất số 285, tờ bản đồ số 16, tọa lạc tại xã T,
huyện T, tỉnh Bến Tre.
(Có bản vẽ đo ngày 17/10/2020 của Chi nhánh Văn phòng đăng ký đất đai
huyện T kèm theo).
Ngoài ra, bản án sơ thẩm còn tuyên về chi phí tố tụng, án phí, quyền yêu
cầu thi hành án và quyền kháng cáo của các đương sự.
Ngày 18/9/2024, nguyên đơn ông Hồ Văn Đ, bà Đặng Thị G có đơn
kháng cáo Bản án dân sự sơ thẩm số 148/2024/DS-ST ngày 06/9/2024 của Tòa
án nhân dân huyện T, tỉnh Bến Tre, yêu cầu Tòa án cấp phúc thẩm sửa bản án sơ
thẩm theo hướng chấp nhận toàn bộ yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn.
Tại phiên tòa phúc thẩm:
* Người đại diện theo ủy quyền của các nguyên đơn và những người có
quyền lợi, nghĩa vụ liên quan bà Nguyễn Thị Ngọc P trình bày:

5
Ông Đ, bà G vẫn giữ nguyên yêu cầu kháng cáo, đề nghị Hội đồng xét xử
chấp nhận kháng cáo của các nguyên đơn theo hướng chấp nhận toàn bộ yêu cầu
khởi kiện của các nguyên đơn, sửa một phần bản án sơ thẩm, công nhận cho các
nguyên đơn được quyền quản lý, sử dụng phần đất có diện tích là 161,5m² (ký
hiệu phần đất số 3) của họa đồ.
* Kiểm sát viên tham gia phiên tòa phát biểu ý kiến:
Về tố tụng: Hội đồng xét xử, Thư ký và những người tham gia tố tụng tại
phiên tòa đã thực hiện đúng theo quy định pháp luật.
Về nội dung vụ án: Đề nghị Hội đồng xét xử căn cứ khoản 1 Điều 308 Bộ
luật Tố tụng dân sự năm 2015 không chấp nhận kháng cáo của các nguyên đơn
ông Hồ Văn Đ, bà Đặng Thị G, giữ nguyên Bản án dân sự sơ thẩm số
148/2024/DS-ST ngày 06/9/2024 của Tòa án nhân dân huyện T, tỉnh Bến Tre.
Sau khi nghiên cứu các tài liệu có trong hồ sơ vụ án được thẩm tra tại
phiên tòa, căn cứ vào kết quả tranh tụng, xét kháng cáo của các nguyên đơn ông
Hồ Văn Đ, bà Đặng Thị G và đề nghị của Kiểm sát viên đại diện Viện kiểm sát
nhân dân tỉnh Bến Tre.
NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN:
[1] Nguyên đơn ông Đ, bà G khởi kiện yêu cầu Tòa án giải quyết buộc bị
đơn bà M, bà P phải di dời tài sản là 05 cây dừa trả lại phần đất có diện tích
161,5m² (ký hiệu phần đất số 3) và phải chấm dứt hành vi cản trở quyền sử dụng
đất đối với phần đất có diện tích 880,5m² (ký hiệu phần đất số 2) thuộc một phần
thửa đất số 285, tờ bản đồ 16, tọa lạc tại xã T, huyện T, tỉnh Bến Tre. Tòa án cấp
sơ thẩm chấp nhận một phần yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn đối với phần đất
có diện tích 880,5m² (ký hiệu phần đất số 2) và bị đơn cũng không có kháng cáo
đối với phần đất này nên phát sinh hiệu lực pháp luật; đối với phần đất có diện
tích là 161,5m² (ký hiệu phần đất số 3) nguyên đơn có kháng cáo vì cho rằng
phần đất này cũng nằm trong diện tích đất mà trước đây nguyên đơn nhận
chuyển nhượng đất của bị đơn và nguyên đơn đã được cơ quan có thẩm quyền
cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất.
[2] Xét thấy, nguyên đơn cho rằng thửa đất trước đây nguyên đơn nhận
chuyển nhượng đất của bị đơn là thửa 222, tờ bản đồ số 16, diện tích 1.134m
2
,
tọa lạc tại xã T, huyện T, tỉnh Bến Tre, tuy nhiên căn cứ hồ sơ cấp giấy chứng
nhận quyền sử dụng đất do Ủy ban nhân dân huyện T cấp cho hộ ông Đ vào
ngày 26/6/1997 thì ông Đ lại kê khai nguồn gốc thửa đất này là do tập đoàn cấp,
hồ sơ cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất cho hộ ông Đ không có giấy tờ
chuyển nhượng đất giữa nguyên đơn và bị đơn, đồng thời khi cấp đổi giấy
chứng nhận quyền sử dụng đất vào ngày 22/12/2015 thì thửa 222, tờ bản đồ số
6
16 lại được đo nhập vào các thửa đất khác của hộ ông Đ, bà G thành thửa 285,
tờ bản đồ số 16, diện tích 3.205,5m
2
nên không có căn cứ để xác định diện tích
đất cụ thể mà bị đơn trước đây đã thục và chuyển nhượng cho nguyên đơn. Quá
trình giải quyết vụ án, nguyên đơn trình bày khi nhận chuyển nhượng đất thì
không tiến hành đo đạc, thời điểm đó bị đơn cũng chưa được cấp giấy chứng
nhận quyền sử dụng đất, chỉ chuyển nhượng trên phần đất đã thục và sử dụng
thực tế. Theo Biên bản xem xét, thẩm định tại chỗ ngày 08/12/2023 thể hiện
hiện trạng phần số 2 và số 3, 4 trên họa đồ được ngăn cách bởi một hàng rào
B40 của bị đơn, phần 3 và phần 4 là bờ đất cao ngang với nền nhà của bà P, còn
phần số 2 là ruộng cỏ thấp; đồng thời, thực tế phần đất số 3, 4 của họa đồ hiện
trạng thửa đất tranh chấp là bị đơn đang quản lý, sử dụng thể hiện qua việc bị
đơn có trồng 05 cây dừa ăn trái trên phần đất có diện tích là 161,5m² (ký hiệu
phần đất số 3) và nguyên đơn cũng thừa nhận những cây dừa này là do phía bị
đơn trồng. Nguyên đơn cho rằng bị đơn chỉ mới lấn chiếm sử dụng phần đất có
diện tích 161,5m² (ký hiệu phần đất số 3) trên từ khi phát sinh tranh chấp vào
năm 2020 và có báo chính quyền địa phương lập biên bản nhưng nguyên đơn
không cung cấp được chứng cứ chứng minh. Quá trình giải quyết vụ án, nguyên
đơn cũng không có chứng cứ chứng minh quá trình quản lý, sử dụng đất của
nguyên đơn đối với phần đất có diện tích 161,5m² (ký hiệu phần đất số 3) nên
không có căn cứ xác định phần đất này là bị đơn đã chuyển nhượng cho nguyên
đơn. Do đó, Tòa án cấp sơ thẩm không chấp nhận yêu cầu khởi kiện của nguyên
đơn đối với phần đất tranh chấp có diện tích 161,5m² (ký hiệu phần đất số 3) là
có căn cứ. Ông Đ, bà G kháng cáo nhưng không cung cấp được chứng cứ chứng
minh nên không được chấp nhận.
[3] Quan điểm của đại diện Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Bến Tre phù hợp
với nhận định của Hội đồng xét xử nên được chấp nhận.
[4] Từ những nhận định trên, căn cứ khoản 1 Điều 308 Bộ luật Tố tụng
dân sự, Hội đồng xét xử không chấp nhận kháng cáo của các nguyên đơn ông
Hồ Văn Đ, bà Đặng Thị G, giữ nguyên Bản án dân sự sơ thẩm số 148/2024/DS-
ST ngày 06/9/2024 của Tòa án nhân dân huyện T, tỉnh Bến Tre.
[5] Về án phí dân sự phúc thẩm: Do kháng cáo không được chấp nhận nên
ông Đ, bà G phải chịu án phí phúc thẩm. Tuy nhiên, ông Đ, bà G thuộc trường
hợp người cao tuổi nên được miễn án phí.
Vì các lẽ trên,
QUYẾT ĐỊNH:
Căn cứ khoản 1 Điều 308 Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2015, tuyên xử:

7
- Không chấp nhận kháng cáo của nguyên đơn ông Hồ Văn Đ, bà Đặng
Thị G.
- Giữ nguyên Bản án dân sự sơ thẩm số 148/2024/DS-ST ngày 06/9/2024
của Tòa án nhân dân huyện T, tỉnh Bến Tre. Cụ thể:
Áp dụng các Điều 197, 199, 221 Bộ luật Dân sự năm 2015; Nghị quyết số
326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội quy
định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án.
1. Chấp nhận một phần yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn về việc yêu cầu
chấm dứt hành vi cản trở quyền sử dụng đất. Buộc các bị đơn bà Nguyễn Thị M
và bà Đặng Thị P phải chấm dứt hành vi cản trở quyền sử dụng đất của nguyên
đơn ông Hồ Văn Đ, bà Đặng Thị G tại phần đất có diện tích là 880,5m² thuộc
phần số 2 của bản vẽ, thuộc một phần của thửa đất số 285, tờ bản đồ số 16, tọa
lạc tại xã T, huyện T, tỉnh Bến Tre.
2. Không chấp nhận phần yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn về tranh
chấp quyền sử dụng đất, cụ thể về việc yêu cầu buộc các bị đơn bà Nguyễn Thị
M và bà Đặng Thị P di dời cây trồng trả phần đất lấn chiếm cho nguyên đơn ông
Hồ Văn Đ, bà Đặng Thị G tại phần đất có diện tích là 161,5m² thuộc phần số 3
của bản vẽ, thuộc một phần của thửa đất số 285, tờ bản đồ số 16, tọa lạc tại xã T,
huyện T, tỉnh Bến Tre.
(Có bản vẽ đo ngày 17/10/2020 của Chi nhánh Văn phòng đăng ký đất đai
huyện T kèm theo).
3. Chi phí tố tụng thẩm định và định giá, thu thập quy trình: số tiền
2.000.000đ (Hai triệu đồng), nguyên đơn chịu và đã thanh toán xong.
4. Về án phí dân sự:
4.1. Án phí dân sự sơ thẩm:
Án phí dân sự sơ thẩm không có giá ngạch là 300.000đ (Ba trăm nghìn
đồng) buộc các bị đơn bà Đặng Thị P và bà Nguyễn Thị M phải nộp tại Chi cục
Thi hành án dân sự huyện T, tỉnh Bến Tre.
Nguyên đơn ông Hồ Văn Đ, bà Đặng Thị G được miễn nộp án phí cho
phần yêu cầu không được chấp nhận.
4.2. Án phí dân sự phúc thẩm: Nguyên đơn ông Hồ Văn Đ, bà Đặng Thị G
được miễn nộp án phí.
Trường hợp bản án được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật Thi hành
án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có
quyền thỏa thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành, tự nguyện thi hành án
hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các Điều 6, 7, 7a, 7b và 9 Luật
Thi hành án dân sự; thời hiệu thi hành án được thực hiện theo qui định tại Điều
8
30 Luật Thi hành án dân sự.
Bản án phúc thẩm có hiệu lực pháp luật kể từ ngày tuyên án.
Nơi nhận: TM. HỘI ĐỒNG XÉT XỬ PHÚC THẨM
- VKSND tỉnh Bến Tre (1b); THẨM PHÁN - CHỦ TỌA PHIÊN TÒA
- TAND huyện T (1b);
- Chi cục THADS huyện T (1b);
- Phòng KTNV và THA; VP (3b);
- Các đương sự (3b);
- Lưu hồ sơ (1b).
Lê Minh Đạt
Tải về
Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để tải file. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!
Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để tải file. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!
Bản án/ Quyết định cùng đối tượng
1
Ban hành: 11/03/2025
Cấp xét xử: Phúc thẩm
2
Bản án số 152/2025/DS-PT ngày 10/03/2025 của TAND cấp cao tại TP.HCM về tranh chấp quyền sử dụng đất
Ban hành: 10/03/2025
Cấp xét xử: Phúc thẩm
3
Ban hành: 07/03/2025
Cấp xét xử: Phúc thẩm
4
Ban hành: 06/03/2025
Cấp xét xử: Phúc thẩm
5
Bản án số 144/2025/DS-PT ngày 06/03/2025 của TAND cấp cao tại TP.HCM về tranh chấp quyền sử dụng đất
Ban hành: 06/03/2025
Cấp xét xử: Phúc thẩm
6
Ban hành: 05/03/2025
Cấp xét xử: Phúc thẩm
7
Ban hành: 03/03/2025
Cấp xét xử: Phúc thẩm
8
Ban hành: 03/03/2025
Cấp xét xử: Phúc thẩm
9
Ban hành: 28/02/2025
Cấp xét xử: Phúc thẩm
10
Ban hành: 27/02/2025
Cấp xét xử: Phúc thẩm
11
Ban hành: 27/02/2025
Cấp xét xử: Phúc thẩm
12
Ban hành: 27/02/2025
Cấp xét xử: Phúc thẩm
13
Ban hành: 26/02/2025
Cấp xét xử: Phúc thẩm
14
Ban hành: 26/02/2025
Cấp xét xử: Phúc thẩm
15
Ban hành: 26/02/2025
Cấp xét xử: Phúc thẩm
16
Ban hành: 26/02/2025
Cấp xét xử: Phúc thẩm
17
Ban hành: 26/02/2025
Cấp xét xử: Phúc thẩm
18
Ban hành: 25/02/2025
Cấp xét xử: Phúc thẩm
19
Ban hành: 25/02/2025
Cấp xét xử: Phúc thẩm