Bản án số 108/2024/DS-PT ngày 26/04/2024 của TAND tỉnh Sóc Trăng về tranh chấp hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất

  • Thuộc tính
  • Nội dung
  • VB gốc
  • VB liên quan
  • Lược đồ
  • Đính chính
  • Án lệ
  • BA/QĐ cùng nội dung
  • Tải về
Tải văn bản
Báo lỗi
  • Gửi liên kết tới Email
  • Chia sẻ:
  • Chế độ xem: Sáng | Tối
  • Thay đổi cỡ chữ:
    17

Thuộc tính Bản án 108/2024/DS-PT

Tên Bản án: Bản án số 108/2024/DS-PT ngày 26/04/2024 của TAND tỉnh Sóc Trăng về tranh chấp hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất
Quan hệ pháp luật: Tranh chấp hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất
Cấp xét xử: Phúc thẩm
Tòa án xét xử: TAND tỉnh Sóc Trăng
Số hiệu: 108/2024/DS-PT
Loại văn bản: Bản án
Ngày ban hành: 26/04/2024
Lĩnh vực: Dân sự
Áp dụng án lệ:
Đã biết

Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để xem áp dụng án lệ. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!

Đính chính:
Đã biết

Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để xem đính chính. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!

Thông tin về vụ/việc: tranh chấp hợp đồng chuyển nhượng qsdĐ
Tóm tắt Bản án

Nội dung tóm tắt đang được cập nhật, Quý khách vui lòng quay lại sau!

Tải văn bản

TÒA ÁN NHÂN DÂN
TỈNH SÓC TRĂNG
Bản án số: 108/2024/DS-PT
Ngày: 26-04-2024
V/v tranh chấp hợp đồng chuyển
nhượng quyền sử dụng đất
CỘNG HÒA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM
Độc lập – Tự do – Hạnh phúc
NHÂN DANH
NƯỚC CỘNG HÒA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM
TÒA ÁN NHÂN DÂN TỈNH SÓC TRĂNG
- Thành phần Hội đồng xét xử phúc thẩm gồm :
Thẩm phán - Chủ tọa phiên tòa:Ông Hồ Văn Phụng.
Các Thẩm phán:Ông Nguyễn Hoàng Thành.
Ông Trần Nam Trung.
- Thư phiên tòa: Ông Đinh Quốc Thanh- Thẩm tra viên Tòa án nhân dân
tỉnh Sóc Trăng.
- Đại diện Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Sóc Trăng tham gia phiên tòa:
Ông Sơn Cươl - Kiểm sát viên.
Ngày 26 tháng 4 năm 2024, tại trụ sở Tòa án nhân dân tỉnh Sóc Trăng xét
xử phúc thẩm công khai vụ án thụ lý số: 29/2024/TLPT-DS ngày 13 tháng 3 năm
2024, về việc tranh chấp hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất.
Do Bản án dân sự sơ thẩm số 146/2024/DS-ST ngày 29 tháng 12 năm 2023
của Tòa án nhân dân huyện Mỹ Xuyên, tỉnh Sóc Trăng bị kháng cáo kháng
nghị.
Theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử phúc thẩm số 53/2024/QĐ-PT ngày
28 tháng 3 năm 2024 Quyếthoãn phiên tòa phúc thẩm số 116/2024/QĐ-PT
ngày 15 tháng 4 năm 2024 của Tòa án nhân dân tỉnh Sóc Trăng, giữa các đương
sự:
1. Nguyên đơn: Ông Hà Văn B. (vắng mặt)
Địa ch: Ấp M, thị trấn C, huyện, P, tỉnh Hậu Giang.
Người đại diện theo ủy quyền của nguyên đơn: Ông Hà Ngọc S, sinh năm
1992. Địa chỉ: Ấp M, thị trấn C, huyện, P, tỉnh Hậu Giang, theo văn bản ủy quyền
đề ngày 22/02/2024. (Có măt)
2. B đơn:
2.1. Bà Trần Thị E, sinh năm 1945. (vắng mặt).
2.2. Đoàn Thị B1 (Đoàn Thị Ngọc B2) , sinh năm 1973. (vắng mặt).
Cùng Địa ch: Ấp L, xã N, huyện M, tỉnh Sóc Trăng.
2
Người đại diện theo ủy quyền của bị đơn: Ông Nguyễn Thanh D, sinh năm
1653. Địa chỉ: Số A kênh A, Khóm F, Phường F, tỉnh Sóc Trăng (theo Văn bản
ủy quyền đế ngày 19/4/2024 - có măt)
3. Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan:
3.1. Ông Phan Văn D1. Địa chỉ: Ấp T, thị trấn M, huyện M, tỉnh c Trăng.
(có mặt)
3.2. Ông Nguyễn Văn L. (Vắng mặt)
3.3. Bà Đặng Thị Hồng Đ (Vắng mặt);
3.4. Ông Đoàn Bửu L1 (Vắng mặt)
Cùng Địa chỉ: Ấp L, xã N, huyện M, tỉnh Sóc Trăng.
3.5. Nguyễn Thị D2. Địa chỉ: p M, thị trấn C, huyện, P, tỉnh Hậu
Giang. (Có mặt)
4. Người kháng cáo: Bà Trần Thị E là bị đơn.
5. Người kháng nghị: Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân huyện Mỹ
Xuyên, tỉnh Sóc Trăng.
NỘI DUNG VỤ ÁN:
Theo bản án sơ thẩm các tài liệu, chứng cứ trong hồ vụ án, nội
dung vụ án được tóm tắt như sau:
* Trong đơn khởi kiện đngày 28/7/2022 lời khai trong quá trình giải
quyết vụ án cũng như tại phiên tòa thẩm nguyên đơn ông Văn B do ông
Kim Điền P đại diện trình bày:
Vào ngày 10/12/2001 ông nhận chuyển nhượng của vợ chồng ông Đoàn
Văn H ( chết) Trần Thị E phần đất diện ch theo số đo thực tế
5.384,8m
2
, tại thửa 766, tọa lạc ấp L, N, huyện M, tỉnh Sóc Trăng với giá
9.000.000 đồng, đã đưa trước 7.000.000 đồng còn 2.000.000 đồng khi nào hoàn
tất thủ tục xong thì đưa đủ, việc chuyển nhượng làm giấy tờ chính quyền
địa phương xác nhận. Sau khi nhận chuyễn nhượng ông B sử dụng đến năm 2006
thì cầm cố cho ông Phan Văn D1, ông D1 sdụng đến năm 2021 thì clại cho
ông Nguyễn Văn L, ông L sử dụng từ đó đến nay nhưng ông H E không
chịu làm thủ tục chuyển nhượng chuyển tên cho ông B mặc dù ông B đã yêu cầu
nhiều lần. Nay ông B yêu cầu Tòa án công nhận hợp đồng chuyển nhượng QSDĐ
đối với phần đất nêu trên giữa ông B ông H E hợp pháp để ông làm
thủ tục xin cấp giấy chứng nhận QSDĐ theo quy định.
* Bị đơn bà Trần Thị E trình bày: Vào năm 2001 ông H chồng của bà có
chuyễn nhượng cho ông B phần đất diện tích 4.812m
2
, đất do ông H đứng tên
QSDĐ. Việc chuyễn nhượng này bà không hay biết là tự ông H một mình chuyễn
nhượng cho ông B. biết giá chuyễn nhượng 9.000.000đ ông B đã đưa
trước 7.000.000 đồng còn 2.000.000 đồng khi o xong giấy tờ mới đưa. Phần
đất này ông B cầm ccho ông D1 sau đó ông D1 cầm cố cho ông L hiện tại
ông L đang sử dụng. Nay ông B yêu cầu yêu cầu Toà án công nhận hợp đồng
chuyễn nhượng QSDĐ giữa ông H và ông B thì bà không đồng ý nhưng bà thống
3
nhất trả lại cho ông B số tiền 150.000.000đ để nhận lại phần đất đã chuyễn nhượng
nêu trên.
* Bị đơn bà Đoàn Thị Ngọc B2 trình bày: Việc chuyễn nhượng QSDĐ tại
thửa 766 diện tích 4.812m
2
giữa ông H và ông B không biết. Nay ông B yêu
cầu yêu cầu Toà án công nhận hợp đồng chuyễn nhượng QSDĐ giữa ông H
ông B thì bà có ý kiến là đất này của cha mẹ nên bà xin ông B được chuộc lại g
15 chỉ vàng 24k hiện nay ông B cầm cố cho ông D1 15 chỉ vàng 24k. Tại phiên
toà bà cũng thống nhất như ý kiến của bà E là trả cho ông B 150.000.000đ để
E được nhận lại phần đất trên.
* Người quyền lợi, nghĩa vụ liên quan Nguyễn Thị D2 trình bày: D2
cũng có lời trình bày như ông B đã trình bày.
* Người quyền lợi, nghĩa vụ liên quan ông Nguyễn Văn L trình bày: Vào năm
2021 ông nhận cầm cố của ông Phan Văn D1 phần đất 4.812m
2
tại thửa 766
của ông B trước đây cầm cố cho ông D1 sau này ông D1 cố lại cho ông hiện
tại ông đang sử dụng. Giá cầm cố là 15 chỉ vàng 24k, cố không có thời hạn, khi
nào vàng thì chuộc đất. Nguồn gốc phần đất này trước đây của ông H chuyễn
nhượng cho ông B và ông B cố cho ông D1 ông D1 cố lại cho ông. Nay giữa
ông B và bà E tranh chấp với nhau ông không có yêu cầu gì, về phần vàng cố thì
nếu ông D1 hoàn trả cho ông 15 chỉ vàng 24k thì ông cho chuộc lại đất.
* Tại tờ tường trình ngày 23/11/2023 người quyền lợi nghĩa vụ liên quan
ông Phan Văn D1 trình bày: Trước đây vào năm 2001 ông H và bà E chuyễn
nhượng cho ông Văn B phần đất diện tích 4.812m
2
, sau khi nhận chuyễn
ông B canh tác được một thời gian thì cầm cố lại cho ông 15 chỉ vàng 24k, ông sử
dụng đến ngày 18/3/2021 tcầm cố lại cho ông L ông L sử dụng cho đến nay.
Nay giữa ông B và E tranh chấp với nhau ông không ý kiến gì. Vphần
vàng cố đất thì nếu ông L giao cho ông 15 chỉ vàng 24k thì ông cho ông L chuộc
lại phần đất trên.
Tại Bản án dân sự thẩm số 146/2024/DS-ST ngày 29 tháng 12 năm 2023
và Quyết định sửa chữa, bổ sung bản án sơ thẩm số 01/2024/QĐ-SCBSBA ngày
05/01/2024 cùng của Tòa án nhân dân huyện Mỹ Xuyên, tỉnh Sóc Trăng đã quyết
định: Áp dụng Khoản 3 Điều 26; Điểm a Khoản 1 Điều 35; Khoản 1 Điều 39
khoản 1 Điều 147; Khoản 1 Điều 165, khoản 3 Điều 200; Khoản 1 Điều 244; Điều
271; khoản 1 Điều 273; khoản 1 Điều 280, của Bluật Tố tụng Dân sự năm 2015;
khoản 1 Điều 203 Luật đất đai năm 2013; Điều 129; Điều 500 Bộ luật dân sự
năm 2015; Nghị quyết số 02/2004/NQ-HĐTP ngày 10/8/2004 của Hội đồng Thẩm
phán Tòa án nhân dân tối cao; khoản 1 Điều 12, Khoản 3 Điều 26 Nghị quyết số
326/2016/UBTVQH14, ngày 30/12/2016. Tuyên xử:
1/ Chấp nhận yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn ông Hà Văn B.
- Công nhận hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất giữa ông Văn
B với ông Đoàn Văn H, bà Trần Thị E vào năm 2001, đối với thửa đất số 766, tờ
bản đồ số 02, diện tích theo số đo thực tế là 5.384,8m
2
, tọa lạc ấp L, xã N, huyện
M, tỉnh Sóc Trăng.Theo giấy chứng nhận quyền sử dụng đất số B 6491503 do Ủy
4
ban nhân dân huyện M cấp ngày 21/10/1993 cho ông Đoàn Văn H có tứ cận như
sau:
+ Hướng đông giáp đường bê tông có số đo 60,73m.
+ Hướng tây giáp đất của ông Nguyễn Văn T có số đo 56,93m.
+ Hướng nam giáp đất ông Đoàn Văn C có số đo 92.24m.
+ Hướng bắc giáp đất ông Hồ Văn M số đo 94,07m.
Kiến nghị UBND huyện M điều chỉnh hoặc cấp lại Giấy chứng nhận quyền
sử dụng đất số B 649150 do UBND huyện M cấp ngày 21/10/1993 cho ông Đoàn
Văn H đối với thửa đất số 766, tờ bản đồ số 02, diện tích 4.812m
2
, tọa lạc ấp L,
xã N, huyện M, tỉnh Sóc Trăng để sang tên cho ông Hà Văn B theo quy định của
pháp luật khi ông B có đơn yêu cầu.
* Buộc ông Văn B phải có nghĩa vụ thanh toán cho Trần Thị E, bà
Đoàn Thị Ngọc B2, ông Đoàn Bửu L1 số tiền là 2.000.000đồng.
Ngoài ra, bản án sơ thẩm còn tuyên về chi phí thẩm định, định giá; án phí
dân sự sơ thẩm và thông báo quyền kháng cáo cho các đương sự theo luật định.
Ngày 30/12/2023, Trần Thị E bị đơn kháng cáo toàn bộ bản án
thẩm nêu trên, yêu cầu Tòa án cấp phúc thẩm không chấp nhận toàn bộ yêu cầu
khởi kiện của nguyên đơn về việc yêu cầu công nhận hợp đồng chuyển nhượng
quyền sử dụng đất giữa ông B và ông H.
Ngày12/01/2024, Viện kiểm sát nhận dân huyện M ban hành Quyết định
kháng nghị số 01/QĐ-VKS-DS và đề nghị Tòa án nhân dân tỉnh c Trăng xét xử
phúc thẩm theo hướng áp dụng khoản 2 Điều 308 và Điều 309 của Bộ luật Tố
tụng dân sự sửa một phần bản án dân sự sơ thẩm nêu trên.
Tại phiên tòa phúc thẩm, ông Ngọc S đai diện theo ủy quyền của nguyên
đơn ông Văn B không rút lại đơn khởi kiện; ông Nguyễn Thanh D người
đại diện theo ủy quyền của bị đơn Trần Thị E không rút đơn kháng o; đại
diện Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Sóc Trăng không rút kháng nghị; các đương sự
không thỏa thuận được với nhau về việc giải quyết vụ án.
Đại diện Viện kiểm sát nhân n tỉnh Sóc Trăng phát biểu ý kiến về việc
tuân thủ chấp hành pháp luật tố tụng của những người tiến hành tố tụng, những
người tham gia tố tụng trong quá trình giải quyết vụ án ở giai đoạn phúc thẩm và
tại phiên tòa phúc thẩm. Về nội dung vụ án, đại diện VKSND tỉnh Sóc Trăng phát
biểu quan điểm về tính căn cứ hợp pháp của kháng cáo, đề nghị Hội đồng
xét xử căn cứ khoản 2 Điều 308 Bluật Tố tụng dân sự năm 2015, chấp nhận một
phần kháng cáo của bị đơn; chấp nhận kháng nghị của Viện kiểm sát nhận dân
huyện M.
NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN:
Sau khi nghiên cứu các tài liệu trong hvụ án được thẩm tra các
chứng cứ tại phiên tòa căn cứ vào kết quả tranh luận tại phiên tòa, Hội đồng
xét xử nhận định:
5
Về tố tụng:
[1] Người kháng cáo và kháng nghị, nội dung, hình thức đơn kháng cáo và
kháng nghị, thời hạn kháng cáo và kháng nghị là đúng theo quy định tại các Điều
271, 272, 273, 278, 279 và 280 Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2015, nên kháng cáo
của bị đơn là Trần Thị E và kháng nghị của Viện kiểm sát nhận dân huyện M
là hợp lệ và đúng theo luật định.
[2] Tại phiên tòa phúc thẩm, nguyên đơn ông Hà Văn B; bđơn Trần Thị
E, Đoàn Thị B2 (Đoàn Thị Ngọc B2) vắng mặt nhưng có người đại diện theo
ủy quyền tham gia phiên tòa có mặt; người có quyền lợi và nghĩa vụ liên quan là
Đặng Thị Hồng Đ, ông Nguyễn Văn L ông Đoàn Bửu L1 đã được Tòa án
triệu tập hợp lệ đến lần thứ hai nhưng vắng mặt không do; việc vắng mặt
của những người này cũng không ảnh hưởng đến việc xét xử. Do vậy, Hội đồng
xét xử căn cứ khoản 3 Điều 296 Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2015, tiến hành xét
xử vụ án.
Về nội dung:
[3] Theo đơn khởi kiện của ông Hà Văn B yêu cầu Tòa án công nhận hợp
đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất đối với phần đất có diện tích theo số đo
thực tế là 5.384,8m
2
, tọa lạc ấp L, xã N, huyện M, tỉnh Sóc Trăng giữa ông B với
ông H E hợp pháp, để ông làm thủ tục xin cấp giấy chứng nhận QS
theo quy định.
[4] Phía đồng bị đơn Trần Thị E Đoàn Thị Ngọc B2 đều không
đồng ý yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn về việc công nhận hợp đồng chuyễn
nhượng quyền sử dụng đất giữa ông B với ông H, nhưng các bị đơn thống nhất
trả lại cho ông B số tiền 150.000.000đ để nhận lại phần đất đã chuyễn nhượng nêu
trên.
[5] Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan:
[5.1] Bà Nguyễn Thị D2 thống nhất theo yêu cầu của ông B.
[5.2] Ông Nguyễn Văn L cho rằng việc ông B và bà E tranh chấp với nhau
ông không yêu cầu gì, về phần vàng cố thì nếu ông D1 hoàn trả cho ông 15 chỉ
vàng 24k thì ông cho chuộc lại đất.
[5.3] Ông Phan Văn D1 cho rằng việc ông B E tranh chấp với nhau
ông không có yêu cầu gì, về phần vàng cố thì nếu ông L hoàn trả cho ông 15 chỉ
vàng 24k thì ông cho chuộc lại đất.
[6] Xét kháng o của Trần Thị E bị đơn, yêu cầu Tòa án cấp phúc
thẩm không chấp nhận toàn bộ yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn về việc yêu cầu
công nhận hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất giữa ông B và ông H. Xét
thấy, các chứng cứ có trong hồ sơ thể hiện:
[6.1] Qua xem xét, thẩm định tại chổ đối với thửa đất các đương sự đang
tranh chấp tọa lạc tại thửa đất 766, tờ bản đồ số 02, diện tích theo số đo thực tế là
5.384,8m
2
, tọa lạc ấp L, xã N, huyện M, tỉnh Sóc Trăng có tứ cận như sau:
6
+ Hướng đông giáp đường bê tông có số đo 60,73m.
+ Hướng tây giáp đất của ông Nguyễn Văn T có số đo 56,93m.
+ Hướng nam giáp đất ông Đoàn Văn C có số đo 92.24m.
+ Hướng bắc giáp đất ông Hồ Văn M số đo 94,07m.
* Hiện trạng trên phần đất tranh chấp: Hiện ông Nguyễn Văn L và bà Đặng
Thị Hồng Đ đang nuôi tôm, ngoài ra không cây hay xây dựng công trình
trên đất.
Theo chứng thư thẩm định gcủa Công ty cổ phần T3 thì phần đất tranh
chấp có giá thị trường là 420.014.000đồng.
[6.2] Theo nguyên đơn trình bày tvào ngày 10/12/2001, ông nhận
chuyển nhượng của ông Đoàn Văn H phần diện tích đất tại thửa đất 766, tờ bản
đồ số 02, diện tích theo số đo thực tế là 5.384,8m
2
, tọa lạc ấp L, N, huyện M,
tỉnh Sóc Trăng. Giá chuyễn nhượng 9.000.000 đồng, đã đưa trước
7.000.000đồng, phần còn lại 2.000.000đồng khi nào làm thủ tục sang tên xong sẽ
giao đủ. Sau khi nhận chuyễn nhượng thì ông H đã giao đất cho ông B sử dụng
nhưng không làm thủ tục sang tên cho ông B kéo dài cho đến nay. Phần đất
này ông B đã cho ông D1 Thuê đất để sử dụng, sau đó ông D1 cho ông L thuê và
hiện nay ông L đang sử dụng. Việc chuyễn nhượng hai bên làm tờ chuyễn
nhượng ông H tên, xác nhận của trưởng ban N2 ông Nguyễn Văn N
xác nhận tên, ngoài ra những người làm chứng là ông N1, ông H1, T1,
ông X chứng kiến biết việc chuyễn nhượng này. Nay ông H đã chết, ông B yêu
cầu bà E tiếp tục thực hiện hợp đồng chuyển nhượng cho ông B đối với phần đất
trên. Còn phía bị đơn E cho rằng việc chuyễn nhượng đất giữa ông H ông
B không hay biết và bà đã cho con là ông L1 phần đất này nên bà không có ý
kiến. Nay bà E, bà B2 không đồng ý tiếp tục thực hiện hợp đồng chuyển nhượng
theo yêu cầu của nguyên đơn. Đối với ông L1 con ông H E đã bỏ địa
phương đi không rõ địa chỉ, nên Toà án không ghi được ý kiến của ông L1.
[6.3] Xét thấy, nguyên đơn cho rằng bị đơn ông H E đã chuyễn nhượng
cho nguyên đơn phần đất trên và có cung cấp cho Toà án 01 tờ bán đất có chữ ký
của các bên. Bị đơn bà E cho rằng bà không biết việc chuyễn nhượng đất này mà
do tự ông H chuyễn nhượng cho ông B không biết. Tuy nhiên qua xác minh
những người hiểu biết sự việc tại địa phương và cũng là những người chứng kiến
việc chuyển nhượng đất giữa ông H ông B thì được biết: Ông Nguyễn Văn N
tại thời điểm năm 2001 trưởng ban N2, N, hiện nay ông N vẫn còn giữa chức
vụ này cho biết vào ngày 10/12/2001 thì ông H chuyễn nhượng cho ông B thửa
đất 766, tờ bản đồ số 02, diện tích 4.812m
2
, tọa lạc ấp L, N, sau đó ông B canh
tác được một thời gian thì cầm cố cho ông D1 và sau này ông D1 cầm cố lại cho
ông L, hiện ông L đang sử dụng. Giá hai n chuyễn nhượng 9.000.000đồng,
ông H1, ông X, T1, ông N1 (ông N1 hiện đã chết) cùng biết việc chuyễn
nhượng đất này. Qua xác minh bà Nguyễn Thị T2 là người hàng xóm của ông H
cũng trình bày như ông N đã trình bày, ngoài ra bà T2 cũng cho biết bà E và ông
H cùng đứng ra chuyễn nhượng đất cho ông B, bà E là người trực tiếp nhận tiền
của ông B giao. Mặt khác ông H, E đã giao đất cho ông B sử dụng từ đó đến
nay và không ý kiến gì. vậy việc E cho rằng khi ông H chuyễn nhượng
7
đất cho ông B không hay biết gì là không có căn cứ. Ngoài ra tại phiên toà bà
B2 cũng thừa nhận chữ tên trong tờ chuyễn nhượng đất lập ngày 10/12/2001
đúng là chữ ký của ông H.
[6.4] Xét về hình thức của hợp đồng chuyễn nhượng quyền sử dụng đất giữa
các bên thì thấy: Khi chuyễn nhượng hai bên chỉ làm giấy tay không chứng
nhận của Công chứng hoặc chứng thực của Uỷ ban nhân dân cấp có thẩm quyền
vi phạm về hình thức. Tuy nhiên, theo quy định tại điểm b, b.3 tiểu mục 2.2
mục 2 phần II của Nghị quyết số 02/2004/NQ-HĐTP ngày 10/8/2004 của Hội
đồng Thẩm phán Tòa án nhân n tối cao “Hướng dẫn áp dụng pháp luật trong
việc giải quyết các vụ án dân sự, hôn nhân gia đình” quy định về việc giải quyết
tranh chấp hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất được xác lập tsau ngày
15/10/21993 thì đối với hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất vi phạm điều
kiện về hình thức nhưng bên nhận chuyển nhượng quyền sử dụng đất đã xây nhà
ở, công trình kiến trúc, trồng cây lâu năm, đầu sản xuất, kinh doanh không vi
phạm quy định về quy hoạch bên chuyển nhượng cũng không phản đối khi bên
nhận chuyển quyền sử dụng đất xây nhà ở, công trình kiến trúc, trồng cây lâu năm,
đầu sản xuất, kinh doanh trên đất đó.” thì Toà án công nhận hợp đồng. Trong
vụ án này tại phiên toà bà E cũng thừa nhận đất của bà khi chuyễn nhượng là đất
ruộng và đất vườn sau khi nhận chuyễn nhượng đất của ông H phía ông B đã đầu
tư sản xuất, cải tạo thành đất ao tôm như hiện tại. Vì vậy phần đất này bị đơn đã
đầu sản xuất kinh doanh, đây cũng một căn cứ để Tán xem xét công
nhận hợp đồng chuyễn nhượng quyền sử dụng đất giữa các bên. Ngoài ra theo quy
định tại Điều 116, khoản 2 Điều 129 Bộ luật Dân sự năm 2015 thì tuy giao dịch
chuyển nhượng quyền sử dụng đất của các bên được xác lập trước ngày
01/01/2017 nếu không tuân thủ về hình thức được quy định tại khoản 1 Điều 502
Bộ luật Dân sự năm 2015 nhưng bên nguyên đơn đã thực hiện giao cho phía b
đơn số tiền 7.000.000 đồng, phía bị đơn đã giao quyền sử dụng đất cho nguyên
đơn đã thực hiện hơn 2/3 nghĩa vụ trong giao dịch, nên giao dịch được công
nhận hiệu lực.
Tại phiên toà E B2 thống nhất giao cho ông B số tiền 150.000.000đ
để nhận lại phần đất trên nhưng phía ông B không đồng ý.
[7] Từ những phân tích như đã nêu trên, Hội đồng xét xử cấp sơ thẩm chấp
nhận yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn về việc yêu cầu công nhận hợp đồng
chuyển nhượng quyền sử dụng đất giữa ông B và ông H, bà E vào năm 2001 đối
với phần đất tại thửa s766, tờ bản đồ số 02, diện tích theo số đo thực tế là
5.384,8m
2
, tọa lạc ấp L, N, huyện M, tỉnh Sóc Trăng hợp pháp. Kiến nghị
Ủy ban nhân dân huyện M điều chỉnh Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất số B
6491503 do Ủy ban nhân dân huyện M cấp ngày 21/10/1993 cho ông Đoàn Văn
H đối với thửa đất số 766, tờ bản đồ số 02 để sang tên cho ông Hà Văn B theo quy
định của pháp luật khi ông B đơn yêu cầu là căn cứ, nên kháng cáo của bị
đơn không có căn cứ chấp nhận.
[8] Đối cấp sơ thẩm buộc ông Hà Văn B có nghĩa vụ giao cho bà E, bà B2
ông L1 số tiền chưa thanh toán 2.000.000đ là chưa phù hợp. ông B trả
8
cho ông H tại thời điểm năm 2001 mới được 7/9 giá trị chuyển nhượng. Theo kết
quả định giá ngày 31/7/2023 của Công ty cổ phần T3 thì phần tranh chấp giá
trị 420.014.000đồng: 9 phần 46.668.222đồng. Như vậy, ông B chưa thanh
toán cho ông H 2 phần x 46.668.222đồng là 93.336,444đồng, nên cấp phúc thẩm
sửa một phần án thẩm đối với phần tiền nguyên đơn phải trả cho các bị đơn
Trần Thị E, bà Đoàn Thị Ngọc B2 người quyền lợi, nghĩa vụ liên quan
là ông Đoàn Bửu L1 là 93.336.444đồng mới đúng theo quy định của pháp luật.
[9] Tại phần bản án buộc nguyên đơn phải trả cho các bị đơn Trần Thị
E, Đoàn Thị Ngọc B2 người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan là ông Đoàn
Bửu L1 số tiền 2.000.000đồng (nay là 93.336,444đồng) nhưng không tuyên phần
lãi suất chậm trả là có thiếu sót, nên cấp phúc thẩm cần bổ sung thêm.
[10] Tại phiên tòa, ông Nguyễn Thanh D đại diện theo ủy quyền của bị
đơn Trần Thị E không cung cấp thêm tài liệu, chứng cứ mới cho Tòa án
cấp phúc thẩm để xem xét đối với kháng cáo.
[11] Tnhững phân tích trên, Hội đồng xét xquyết định chấp nhận một
phần kháng cáo bà Trần Thị E; chấp nhận kháng nghị của Viện kiểm sát nhân dân
huyện Mỹ Xuyên, căn cứ vào khoản 2 Điều 308 Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2015,
Sửa án sơ thẩm.
[12] Đề nghị của đại diện Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Sóc Trăng tại phiên
tòa là có căn cứ chấp nhận, nên Hội đồng xét xử chấp nhận.
[13] Về án phí dân sự phúc thẩm: Do bản án thẩm bị sửa, nên bị đơn
không phải chịu án phí phúc thẩm theo quy định tại khoản 2 Điều 148 củaBộ luật
Tố tụng dân sự năm 2015; khoản 2 Điều 29 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14
ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn,
giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án.
Vì các lẽ trên;
QUYẾT ĐỊNH:
Căn cứ khoản 2 Điều 308, khoản 2 Điều 148 và khoản 6 Điều 313 của Bộ
luật Tố tụng dân sự năm 2015; khoản 2 Điều 29 Nghị quyết s
326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội quy
định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản sdụng án phí và lệ pTòa
án.
Chấp nhận kháng cáo một phần kháng cáo của bị đơn Trần Thị E; chấp
nhận kháng nghị của Viện kiểm sát nhân dân huyện Mỹ Xuyên, tỉnh Sóc Trăng.
Sửa bản án dân sự sơ thẩm số 146/2023/DS-ST ngày 29 tháng 12 năm 2023 của
Tòa án nhân dân huyện Mỹ Xuyên, tỉnh Sóc Trăng như sau:
Áp dụng Khoản 3 Điều 26; Điểm a Khoản 1 Điều 35; Khoản 1 Điều 39
khoản 1 Điều 147; Khoản 1 Điều 165, khoản 3 Điều 200; Khoản 1 Điều 244; Điều
271; khoản 1 Điều 273; khoản 1 Điều 280, của Bluật Tố tụng Dân sự năm 2015;
khoản 1 Điều 203 Luật đất đai năm 2013; Điều 129, Điều 500 Bộ luật dân sự
9
năm 2015; Nghị quyết số 02/2004/NQ-HĐTP ngày 10/8/2004 của Hội đồng Thẩm
phán Tòa án nhân dân tối cao; khoản 1 Điều 12, Khoản 3 Điều 26 Nghị quyết số
326/2016/UBTVQH14, ngày 30/12/2016.
Tuyên xử:
1. Chấp nhận yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn ông Hà Văn B.
1.1. Công nhận hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất giữa ông Hà
Văn B với ông Đoàn Văn H, Trần Thị E vào năm 2001, đối với thửa đất số
766, tờ bản đồ số 02, diện tích theo số đo thực tế 5.384,8m
2
, tọa lạc ấp L, xã N,
huyện M, tỉnh c Trăng. Theo giấy chứng nhận quyền sử dụng đất số B 6491503
do Ủy ban nhân dân huyện M cấp ngày 21/10/1993 cho ông Đoàn Văn H t
cận như sau:
- Hướng đông giáp đường bê tông có số đo 60,73m.
- Hướng tây giáp đất của ông Nguyễn Văn T có số đo 56,93m.
- Hướng nam giáp đất ông Đoàn Văn C có số đo 92.24m.
- Hướng bắc giáp đất ông Hồ Văn M số đo 94,07m.
Kiến nghị UBND huyện M điều chỉnh hoặc cấp lại Giấy chứng nhận quyền
sử dụng đất số B 649150 do UBND huyện M cấp ngày 21/10/1993 cho ông Đoàn
Văn H đối với thửa đất số 766, tờ bản đồ số 02, diện tích 4.812m
2
, tọa lạc ấp L,
xã N, huyện M, tỉnh Sóc Trăng để sang tên cho ông Hà Văn B theo quy định của
pháp luật khi ông B có đơn yêu cầu.
1.2. Buộc ông Hà Văn B phải có nghĩa vụ thanh toán cho bà Trần Thị E,
Đoàn Thị Ngọc B2, ông Đoàn Bửu L1 số tiền là 93.336.444đồng (Chín mươi ba
triệu ba trăm ba mươi sáu ngàn bốn trăm bốn mươi bốn ngàn bốn trăm đồng).
Khi bản án có hiệu lực pháp luật, người quyền thi hành án đơn yêu cầu
thi hành án, người nghĩa vụ thi hành án còn phải chịu tiền lãi do chậm thi hành
án theo mức lãi suất quy định tại Khoản 2 Điều 468 của Bộ luật dân sự năm 2015
cho đến khi thi hành án xong.
2. Án phí dân sự sơ thẩm:
2.1. Nguyên đơn ông Văn B bị đơn Trần Thị E được miễn toàn
bộ án phí.
2.2. Bị đơn B2 ông L1 liên đới chịu án phí là 200.000đ. Do phần
E được miễn là 100.000đồng.
3. Về chi phí thẩm định, định giá tài sản: Bà E, bà B2 và ông L1 phải liên
đới chịu 20.000.000đ. Ông B đã nộp tạm ứng trước số tiền trên, vậy E,
B2 và ông L1 phải liên đới hoàn trả lại cho ông B số tiền 20.000.000đồng.
4. Về án pdân sự phúc thẩm: Bà Trần Thị E được miễn án phí phúc thẩm.
Bản án này có hiệu lực pháp luật kể từ ngày tuyên án.
Trường hợp bản án được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật Thi hành
án dân sự được sửa đổi, bổ sung năm 2014 thì người được thi hành án dân sự,
10
người phải thi hành án dân sự có quyền thỏa thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi
hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại
các Điều 6, 7, 7a và 9 Luật Thi hành án dân sự được sửa đổi, bổ sung năm 2014;
thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật Thi hành án
dân sự được sửa đổi, bổ sung năm 2014.
TM. HỘI ĐỒNG XÉT XỬ PHÚC THẨM
Nơi nhận:THẨM PHÁN - CHỦ TỌA PHIÊN TÒA
- Các đương sự;
- VKSND tỉnh Sóc Trăng;
- TAND huyện Mỹ Xuyên;
- Chi cục THADS huyện Mỹ Xuyên;
- Phòng KTNV-THA;
- Lưu: HSVA-VP.
Hồ Văn Phụng
4. Về án phí dân sự phúc thẩm: Bà Trần Thị Em được miễn án phí phúc
thẩm.
Bản án này có hiệu lực pháp luật kể từ ngày tuyên án.
Trường hợp bản án được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật Thi hành
án dân sự được sửa đổi, bổ sung năm 2014 thì người được thi hành án dân sự,
11
người phải thi hành án dân sự có quyền thỏa thuận thi hành án, quyền yêu cầu
thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định
tại các Điều 6, 7, 7a và 9 Luật Thi hành án dân sự được sửa đổi, bổ sung năm
2014; thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật Thi
hành án dân sự được sửa đổi, bổ sung năm 2014.
HỘI ĐỒNG XÉT XỬ PHÚC THẨM
CÁC THẨM PHÁN
Nguyễn Hoàng Thành Trần Nam Trung
THẨM PHÁN
CHỦ TỌA PHIÊN TÒA
Hồ Văn Phụng
Tải về
Bản án số 108/2024/DS-PT Bản án số 108/2024/DS-PT

Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để tải file. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!

Bản án số 108/2024/DS-PT Bản án số 108/2024/DS-PT

Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để tải file. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!

Bản án/ Quyết định cùng đối tượng

Bản án cùng lĩnh vực

Bản án mới nhất