Bản án số 107/2025/DS-Pt ngày 25/06/2025 của TAND tỉnh Bình Phước về tranh chấp hợp đồng vay tài sản

  • Thuộc tính
  • Nội dung
  • VB gốc
  • VB liên quan
  • Lược đồ
  • Đính chính
  • Án lệ
  • BA/QĐ cùng nội dung
  • Tải về
Tải văn bản
Báo lỗi
  • Gửi liên kết tới Email
  • Chia sẻ:
  • Chế độ xem: Sáng | Tối
  • Thay đổi cỡ chữ:
    17

Thuộc tính Bản án 107/2025/DS-Pt

Tên Bản án: Bản án số 107/2025/DS-Pt ngày 25/06/2025 của TAND tỉnh Bình Phước về tranh chấp hợp đồng vay tài sản
Quan hệ pháp luật: Tranh chấp hợp đồng vay tài sản
Cấp xét xử: Phúc thẩm
Tòa án xét xử: TAND tỉnh Bình Phước
Số hiệu: 107/2025/DS-Pt
Loại văn bản: Bản án
Ngày ban hành: 25/06/2025
Lĩnh vực: Dân sự
Áp dụng án lệ:
Đã biết

Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để xem áp dụng án lệ. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!

Đính chính:
Đã biết

Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để xem đính chính. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!

Thông tin về vụ/việc: Dì cháu cho nhau vay tiền
Tóm tắt Bản án

Nội dung tóm tắt đang được cập nhật, Quý khách vui lòng quay lại sau!

Tải văn bản

TÒA ÁN NHÂN DÂN
TỈNH BÌNH PHƯỚC
Bản án số: 107/2025/DS-PT
Ngày: 25 - 6 - 2025
V/v tranh chấp hợp đồng vay tài sản
CỘNG HÒA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM
Độc lập - Tự do - Hạnh phúc
NHÂN DANH
NƯỚC CỘNG HÒA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM
TÒA ÁN NHÂN DÂN TỈNH BÌNH PHƯỚC
- Thành phần Hội đồng xét xử phúc thẩm gồm có:
Thẩm phán Chủ tọa phiên tòa:
Các Thẩm phán:
Bà Đinh Thị Quý Chi
Bà Lê Hồng Hạnh
Ông Bùi Văn Bình
- Thư phiên tòa: Ông Trần Minh - Thư Tòa án nhân dân tỉnh Bình
Phước.
- Đại diện Viện kiểm t nhân dân tỉnh Bình Phước: Nguyễn Thị
Thanh Huyền - Kiểm sát viên tham gia phiên tòa.
Trong các ngày 18/6/2025 25/6/2025, tại trsở Tòa án nhân dân tỉnh
Bình Phước xét xử phúc thẩm công khai vụ án dân sự thụ số 47/2025/TLPT-
DS ngày 14/4/2025 về việc “Tranh chấp hợp đồng vay tài sản”. Do Bản án dân s
thẩm số 02/2024/DS-ST ngày 18/01/2024 của Tòa án nhân dân thành phố Đồng
Xoài, tỉnh Bình Phước bkháng cáo. Theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử phúc
thẩm số 85/2025/QĐXX-PT ngày 14/5/2025, giữa các đương sự:
- Nguyên đơn: Lâm Thị M, sinh năm: 1973; ttại: ấp C, T, huyện
H, tỉnh Bình Phước. “vắng mặt”
Người đại diện theo ủy quyền của M: Nguyễn Ngọc Diễm H, sinh
năm 1965; cư trú tại: ấp X, xã T, huyện H, tỉnh Bình Phước. “có mặt”
- Bị đơn:
1. Công ty TNHH MTV T; địa chỉ trụ sở chính: tổ A, khu phố P, phường
T, thành phố Đ, tỉnh nh Phước; người đại diện theo pháp luật: ông Nguyễn Văn
C Chức vụ: Giám đốc;
2. Ông Nguyễn Văn C, sinh năm 1981; ttại: Ấp B, T, thành phố Đ,
tỉnh Bình Phước. “có mặt”
- Người quyền lợi, nghĩa vliên quan: Trần Thị Bích Đ, sinh năm
1985; cư trú tại: Ấp B, xã T, thành phố Đ, tỉnh Bình Phước. "vắng mặt"
Người kháng cáo: nguyên đơn bà Lâm Thị M; bị đơn ông Nguyễn Văn C.
NỘI DUNG VỤ ÁN:
2
Theo đơn khởi kiện, các bản lời khai tại phiên tòa đại diện theo ủy quyền
của nguyên đơn bà Nguyễn Ngọc Diễm H trình bày:
Lâm Thị M là dì ruột ông Nguyễn Văn C. Từ ngày 22/9/2016 đến ngày
15/12/2018 M cho Công ty TNHH MTV T (gọi tắt C1) do ông Nguyễn
Văn C là Giám đốc vay tiền bằng hình thức chuyển khoản vào tài khoản Công ty
tại Ngân hàng TMCP Á. Tính đến ngày 15/12/2018 ông C M chốt nợ thì
ông C còn nợ M số tiền 848.680.000 đồng. Ông C là người viết giấy và
nhận. M đã nhiều lần yêu cầu ông C phải trả tiền nhưng ông C không thực
hiện.
Nay, bà M yêu cầu Tòa án buộc Công ty TNHH MTV T, ông Nguyễn Văn
C và bà Trần Thị Bích Đ phải trả cho bà M số tiền nợ gốc đã vay là 848.680.000
đồng lãi suất chậm thanh toán tính từ ngày 01 tháng 01 năm 2019 cho đến ngày
trả tiền.
Bị đơn ông Nguyễn Văn C trình bày:
Ông C chồng của Trần Thị Bích Đ đại diện theo pháp luật của Công
ty T. Vợ ông C là Đ vay tiền của M. Vì quan hệ gì cháu nên ngày 15
tháng 12 năm 2018 ông C có xác nhận với bà M là vợ chồng ông còn nợ bà M số
tiền 648.680.000 đồng. Thời hạn trả tiền ngày 16 tháng 12 năm 2018 nên bà M
khởi kiện hết thời hiệu. Đề nghị Hội đồng xét xử đình chỉ giải quyết vụ án
hết thời hiệu khởi kiện.
Về yêu cầu ng ty T phải trả tiền thì phía không ty không đồng ý trả
công ty không có vay tiền của bà M.
Người quyền lợi, nghĩa vụ liên quan bà Trần Thị Bích Đ vắng mặt trong
suốt quá trình Tòa án giải quyết vụ án nên không có lời khai.
Tại Bản án dân sự sơ thẩm số 02/2024/DS-ST ngày 18/01/2024 của Tòa án
nhân dân thành phố Đồng Xoài, tỉnh Bình Phước đã quyết định:
1. Chấp nhận một phần yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn Lâm Thị M.
Buộc ông Nguyễn Văn C và bà Trần Thị Bích Đ phải liên đới trả cho bà Lâm Thị
M số tiền nợ gốc 648.680.000 đồng, tiền lãi là: 326.017.400 đồng, tổng cộng
là: 974.697.400 đồng (chín trăm bảy bốn triệu sáu trăm chín bảy nghìn bốn trăm
đồng).
Ngoài ra, Bản án còn tuyên phần án phí, nghĩa vụ thi hành án quyền
kháng cáo của các đương sự theo luật định.
Sau khi xét xử thẩm, vào ngày 21/01/2024 nguyên đơn Lâm Thị M
có đơn kháng cáo yêu cầu Tòa án cấp phúc thẩm sửa Bản án sơ thẩm theo hướng
chấp nhận toàn bộ yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn; ngày 02/2/2024 bị đơn ông
Nguyễn Văn C có đơn kháng cáo đề nghị Toà án cấp phúc thẩm giải quyết sửa
Bản án sơ thẩm theo hướng chỉ buộc ông C trả số tiền 133.000.000 đồng.
Tại phiên tòa phúc thẩm:
3
- Nguyên đơn thay đổi yêu cầu kháng cáo, cụ thể: bà H vẫn giữ nguyên các
yêu cầu buộc Công ty TNHH MTV T phải liên đới trả nợ; yêu cầu Tòa buộc các
bị đơn phải trả cho bà M tiền lãi tính từ ngày 01/01/2019 đến ngày Tòa xét xử sơ
thẩm với mức lãi suất 20%/năm theo quy định tại khoản 1 Điều 468 Bộ luật Dân
sự, tương ứng 1,66%/tháng trên số tiền 433 triệu đồng. Tại đơn khởi kiện và đơn
kháng cáo bà M yêu cầu Tòa phúc thẩm xác định bị đơn chưa trả được khoản tiền
200.000.000 đồng và bị đơn còn nợ 848.680.000 đồng, tuy nhiên tại phiên tòa bà
H người đại diện theo ủy quyền của nguyên đơn rút một phần yêu cầu khởi
kiện, theo đó H chỉ yêu cầu bị đơn phải trả 648.680.000 đồng đồng thời đề nghị
Tòa tách việc giải quyết đối với số tiền 200.000.000 đồng mà Tòa án cấp sơ thẩm
đã xác định ông C bà Đ đã trả và số tiền 300.000.000 đồng mà ông C cho rằng đã
thanh cho M bằng cách đưa số tiền này cho H1 ra giải quyết bằng ván
khác khi có đơn khởi kiện của ông C bà Đ.
- Bị đơn giữ nguyên yêu cầu kháng cáo, đề nghị Hội đồng xét xử xác định
sau khi chốt nợ ngày 15/12/2018 ông C đã trả cho M số tiền 300.000.000 đồng
và không đồng ý với việc rút một phần yêu cầu của nguyên đơn mà bà H đã trình
bày cũng như không đồng ý tách việc giải quyết khoản 200 triệu 300 triệu ra
giải quyết riêng như phía nguyên đơn trình bày.
- Quan điểm của đại diện Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Bình Phước:
Về việc tuân thủ pháp luật tố tụng: Quá trình giải quyết vụ án của Tòa án
từ khi thụ lý đến khi xét xử phúc thẩm của Thẩm phán, Thư ký Tòa án, Hội đồng
xét xử các đương sự đã tuân thủ đúng theo quy định của Bộ luật Tố tụng n
sự.
Về nội dung giải quyết vụ án: Đề nghị Hội đồng xét xử căn cứ vào khoản 1
Điều 308 của Bộ luật Tố tụng dân sự; không chấp nhận yêu cầu kháng o của
nguyên đơn bà Lâm Thị M, bị đơn ông Nguyễn Văn C; giữ nguyên Bản án dân sự
thẩm số 02/2024/DS-ST ngày 18/01/2024 của Tòa án nhân dân thành phố Đồng
Xoài, tỉnh Bình Phước.
NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN:
Căn cứ vào các tài liệu, chứng cứ đã được thẩm tra công khai tại phiên toà
và kết quả tranh tụng tại phiên toà, Hội đồng xét xử nhận định:
* Về tố tụng:
[1] Đơn kháng cáo của nguyên đơn, bị đơn làm trong thời hạn luật định,
hình thức, nội dung và phạm vi kháng cáo phù hợp với quy định tại các điều 271,
272, 273 của Bộ luật Tố tụng dân snăm 2015 nên đủ điều kiện được xem xét
giải quyết theo trình tự phúc thẩm.
[2] Về việc rút một phần yêu cầu khởi kiện của phía nguyên đơn: tại phiên
tòa, H người đại diện theo ủy quyền của nguyên đơn rút một phần yêu cầu
khởi kiện, theo đó bà H chỉ yêu cầu bị đơn phải trả 648.680.000 đồng; Đề nghị
Tòa án tách việc giải quyết đối với số tiền 200.000.000 đồng Tòa án cấp
4
thẩm đã xác định ông C Đ đã trả stiền 300.000.000 đồng ông C cho
rằng đã thanh cho M thông qua bà H1 ra giải quyết bằng vụ án khác khi có đơn
khởi kiện của ông C bà Đ.
[3] Theo quy định tại khoản 1 của Điều 299 Bộ luật Tố tụng dân sự thì:
1. Trước khi mở phiên tòa hoặc tại phiên tòa phúc thẩm, nếu nguyên đơn
rút đơn khởi kiện thì Hội đồng xét xử phúc thẩm phải hỏi bị đơn đồng ý hay
không và tuỳ từng trường hợp mà giải quyết như sau:
a. Bị đơn không đồng ý thì không chấp nhận việc rút đơn khởi kiện của
nguyên đơn;”.
b. ………………………”.
[4] Xét thấy, đối với số tiền 200.000.000 đồng mà nguyên đơn rút yêu cầu
khởi kiện: tại phiên tòa bị đơn ông C không đồng ý việc nguyên đơn rút yêu cầu
khởi kiện đối với số tiền 200.000.000 đồng do đó Hội đồng xét xử không chấp
nhận việc rút yêu cầu về phần này của nguyên đơn. Đối với số tiền 300.000.000
đồng mà bị đơn cho rằng đã trả cho M thông qua bà H1: Hội đồng xét xử thấy
rằng nguyên đơn không khởi kiện tranh chấp về số tiền này đây trình bày
do phía bị đơn nêu ra, do đó việc phía nguyên đơn đề nghị tách phần này ra giải
quyết bằng vụ án khác là không phù hợp nên cũng không được chấp nhận.
* Về nội dung tranh chấp:
[5] Xét yêu cầu khởi kiện và kháng cáo của nguyên đơn bà Lâm Thị M, xét
kháng cáo của bị đơn ông Nguyễn Văn C, Hội đồng xét xử thấy rằng:
[6] Tại phiên tòa, người đại diện theo ủy quyền của nguyên đơn bà
Nguyễn Ngọc Diễm H cho rằng từ ngày 22/6/2016 đến ngày 15/12/2018, Lâm
Thị M 19 lần cho Công ty TNHH MTV T (sau đây gọi tắt là: Công ty T) do
ông C làm Giám đốc vay tiền với tổng số tiền 1.755.000.000 đồng, hai bên có thỏa
thuận tiền lãi tính theo mức lãi suất của ngân hàng quy định. Trong 19 lần cho vay
thì có 17 lần bà M chuyển khoản vào tài khoản của ông Công ty T, 01 lần chuyển
khoản vào tài khoản của người có tên Nguyễn Thị L (tài khoản người này do ông
C yêu cầu bà M chuyển vào) và 01 lần chuyển tiền vào tài khoản của bà Trần Thị
Bích Đ (vợ ông C). Bị đơn ông C thì cho rằng, trước đây bà M nhiều lần cho
vay tiền nhưng cho ông vay chứ không phải cho Công ty T vay, việc ông nói
M chuyển tiền vào tài khoản công ty để cho tiện còn thực tế ông mới người
vay các khoản tiền của M. Ông không nhớ cụ thể số lần vay, tại phiên tòa khi
ông trình bày mỗi lần vay hai bên thỏa thuận mức lãi khác nhau, khi thì cho
rằng lãi suất hai bên thỏa thuận là 4,5%/tháng chứ không phải theo mức lãi ngân
hàng quy định như phía nguyên đơn trình bày.
[7] Xét thấy, mặc dù các bên trình bày mâu thuẫn về số tiền vay, số lần vay
mức lãi suất, nhưng hai bên đều thừa nhận: từ ngày 22/6/2016 đến ngày
15/12/2018, M nhiều lần chuyển tiền cho ông C Đ vay và ông C Đ
cũng đã trả cho bà M được một số khoản tiền. Vào ngày 15/12/2018, hai bên lập
giấy chốt nợ với nội dung cơ bản: ông C Đ còn nM 433.000.000 đồng gốc
5
và 415.000.000 đồng tiền lãi, ông C đã trả 200.000.000 đồng, tổng số tiền còn nợ
648.680.000 đồng. Ông C hứa sẽ trả số tiền này cho M trong thời hạn từ
ngày 15/12/2018 đến cuối tháng 12/2018. Nếu đến cuối tháng ông C không
trả được nợ thì bắt đầu từ tháng 01/2019 ông C phải trả tiền lãi trả cho bà M đối
với số tiền 648.680.000 đồng. Đây là những tình tiết được các bên thừa nhận nên
được coi là sự thật không phải chứng minh theo quy định tại Điều 92 Bộ luật Tố
tụng dân sự.
[8] Xét trình bày của phía nguyên đơn về việc nguyên đơn cho rằng khoản
tiền trên M cho Công ty T vay chứ không phải cho nhân ông C Đ vay.
Hội đồng xét xử xét thấy, mặc M nhiều lần chuyển tiền vào tài khoản
Công ty T nhưng M không chứng cứ chứng minh đây khoản tiền do Công
ty T vay. Mặt khác, tại biên nhận chốt nợ của hai bên do chính bà M là người viết
thể hiện hai bên đã thống nhất chốt “Chính Đào nợ gốc 433.000.000....” (bút lục
109), trong khi ông C không thừa nhận việc Công ty vay tiền của M cho
rằng việc ông cho bà M chuyển tiền vay vào tài khoản của công ty là cho tiện và
cho rằng giữa ng ty P của M và Công ty T của ông C cũng việc chuyển
tiền qua lại cho nhau. thế, không sở để khẳng định Công ty T hiện còn
nợ của bà M số tiền 648.680.000 đồng mà chỉcăn cứ khẳng định ông C Đ
người nM khoản tiền trên. u cầu khởi kiện kháng cáo của nguyên
đơn về việc buộc Công ty T phải liên đới trả nợ là không có cơ sở chấp nhận.
[9] Xác định số tiền ông C Đ còn nợ M: phía nguyên đơn cho rằng
tính đến ngày 15/12/2018 ông C Đ còn nợ bà M 848.680.000 đồng nhưng do
nhầm lẫn nên hai bên mới chốt nội dung ông C Đ còn nợ 648.680.000 đồng.
Sau khi bà M và ông C chốt nợ thì bà H1cháu bà M mới phát hiện chốt nhầm
nên có ghi vào phía sau giấy biên nhận chốt nợ nội dung: “Chính Đ nợ tổng thực
tế là 648.680.000 + 200.000.000 (chị H1 trừ sai vì số tiền này của đợt sau), tổng
848.680.000”. Tuy nhiên, nội dung này chỉ chữ xác nhận của H1
không chữ ký xác nhận của ông C Đ và không được ông C thừa nhận, trong
khi tại phiên tòa sơ thẩm bà H1 trình bày: “Tôi có biết việc vay tiền nhưng cụ thể
như thế nào thì tôi không rõ. …Tôi chỉ chốt nợ hộ còn cụ thể bao nhiêu, như thế
nào tôi không rõ vì đều là người nhà của nhau” (bút lục 77, 78). Hơn thế, chính
H khẳng định nội dung chốt Chính Đào nợ gốc 433.000.000 lãi 24 tháng
415.000.000 (tổng) 848.680.000, C đã trả 200.000.000 (tổng) 648.000.000” do
chính M ghi. thế, không căn cứ khẳng định ông C còn nợ 848.680.000
như phía nguyên đơn trình bày căn cứ khẳng định ông C Đ chỉ còn nợ
648.680.000 đồng.
[10] Về việc bị đơn ông C cho rằng sau khi chốt nợ, vào ngày 24/4/2019
ông đã trả thêm được 300.000.000 đồng bằng hình thức chuyển khoản cho bà H1
để bà H1 giao cho bà M nên chỉ còn nợ bà M 133.000.000 đồng. Để chứng minh
cho lời trình bày của mình ông C cung cấp chứng cứ tin nhắn M nhắn tin
cho ông trên mạng Zalo, cụ thể vào lúc 11 gi44 phút ngày 24/4/2019 bà M
nhắn cho ông C: “Cháu gửi vào tk chị H1 cho dì” (bút lục 86) cung cấp chứng
cứ là Phiếu chuyển khoản số GD 57 do Ngân hàng A lập ngày 24/4/2019 với nội
6
dung Công ty T gửi vào tài khoản Công ty TNHH MTV P số tiền 300.000.000
đồng. Tuy nhiên, trên phiếu chuyển khoản này lại thể hiện nội dung đây là số tiền
để chuyển khoản tiền hàng” không thể hiện đây tiền ông C Đ thanh toán
nợ cho M. Bên cạnh đó, phía nguyên đơn không thừa nhận đã nhận khoản tiền
300.000.000 đồng ông C trả nợ thông qua bà H1 như lời ông C trình bày. Do đó,
không căn cứ xác định vào ngày 24/4/2019 ông C đã trả cho M số tiền
300.000.000 đồng.
[11] Về yêu cầu tính lãi suất của nguyên đơn: tại phiên tòa bà H yêu cầu bị
đơn phải trả tiền lãi theo mức 20%/năm, tương ứng 1,66%/tháng đối với số tiền
648.680.000 đồng, tính từ ngày 01/01/2019 đến ngày xét xử sơ thẩm 18/01/2024.
Hội đồng xét xthấy rằng, theo nội dung giấy biên nhận chốt nợ t lời thừa
nhận của các bên tại phiên tòa thể hiện vào thời điểm chốt nợ hai bên đã thỏa
thuận: nếu hết tháng 12/2018 mà ông C bà Đ không trả được nợ cho bà M thì bắt
đầu từ tháng 01/2019 phải tính tiền lãi cho M đối với số tiền 648.680.000 đồng.
Do đến hết tháng 12/2018 ông C bà Đ không trả được nợ và các bên cũng không
thỏa thuận cụ thể mức tính lãi cụ thể là bao nhiêu nên Tòa án cấp sơ thẩm đã chấp
nhận yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn về việc buộc bị đơn phải thanh toán cho
nguyên đơn tiền lãi chậm trả theo mức lãi suất được quy định tại khoản 2 Điều
468 Bộ luật Dân sự (10%/năm) tngày 01/01/2019 đến ngày 18/01/2024 với số
tiền 326.017.400 đồng sở. Mặt khác, tại đơn khởi kiện bà M yêu cầu bị
đơn phải trả “lãi suất chậm thanh toán(bút lục 02)mà lãi suất chậm thanh toán
thì được áp dụng bằng 50% của mức lãi suất giới hạn 20%/năm (tương ứng
10%/năm) theo quy định tại khoản 4 Điều 466, Điều 468, Điều 357 Bộ luật Dân
sự. Nhưng, tại phiên tòa phúc thẩm người đại diện theo ủy quyền của M yêu
cầu Tòa tính lãi theo mức 20%/năm (1,66%/tháng) là vượt quá yêu cầu khởi kiện
ban đầu và không phù hợp với thỏa thuận của các bên cũng như các quy định của
pháp luật nên không được chấp nhận.
[12] Đối với yêu cầu của bị đơn ông C về việc ông yêu cầu Tòa tính lại tiền
lãi theo quy định của pháp luật đối với số tiền lãi 415.000.000 đồng hai bên
đã chốt vì cho rằng mức lãi mà bà M đã tính là quá cao so với quy định của pháp
luật. Hội đồng xét xử xét thấy, các bên trình bày mâu thuẫn về mức lãi suất
các bên đã thỏa thuận, H thì cho rằng mức lãi tính theo lãi suất ngân hàng
nhưng cụ thể bao nhiêu thì H không còn ông C khi thì cho rằng, mức lãi của
các khoản tiền vay 4,5%/tháng, khi thì cho rằng ông C vay tiền nhiều lần
mỗi lần thì mức lãi có khác nhau nhưng mức lãi của từng lần cụ thể ra sao thì ông
không nhớ. Các bên cũng trình bày mâu thuẫn về số tiền gốc để làm cơ sở tính ra
khoản tiền lãi 415.000.000 đồng, cụ thể: nguyên đơn thì cho rằng đây tiền lãi
được cộng lại của tất cả các khoản mà ông C vay cho đến ngày chốt nợ
15/12/2018, đây không phải tiền lãi của riêng số nợ gốc 433.000.000 đồng. n
ông C thì cho rằng đây là tiền lãi của số tiền gốc 433.000.000 đồng tính theo mức
lãi 4,5%/tháng từ tháng 9/2016 đến ngày 15/12/2018. Trình bày này của ông C
cũng mâu thuẫn các bên đều xác nhận từ 22/9/2016 đến ngày 15/12/2018 ông
C vay nhiều lần, nhiều khoản tiền chứ không phải vào ngày 22/9/2016 chỉ vay số
tiền 433.000.000 đồng nên không thể tính lãi trên số tiền này từ 22/9/2016 đến
7
ngày 15/12/2018. Hơn nữa, nếu tính 4,5%/tháng từ ngày 22/9/2016 đến
15/12/2018 thì tiền lãi 482.578.500 đồng (433.000.000 đồng x 4,5% x 24 tháng
23 ngày) chứ không phải 415.000.000 đồng. Do các bên không chứng minh được
số tiền 415.000.000 đồng là tiền lãi của khoản nợ gốc nào trong số các khoản đã
vay tngày 22/9/2016 đến ngày hai bên chốt nợ cũng không chứng minh được
mức lãi suất mà hai bên đã thống nhất thỏa thuận với nhau. Do đó, không có
sở để tính lại tiền lãi suất theo quy định của pháp luật đối với số tiền 415.000.000
đồng theo yêu cầu của bị đơn nên yêu cầu vphần này của ông C không được
chấp nhận.
[13] Từ những phân ch trên thấy rằng, kháng cáo của nguyên đơn bị
đơn đều không sở để chấp nhận. Cần giữ nguyên Bản án sơ thẩm của Tòa
án nhân dân thành phố Đồng Xoài.
[14] Các nội dung khác của Bản án thẩm không kháng cáo, kháng
nghị và thấy đã phù hợp quy định của pháp luật nên Hội đồng xét xử không xem
xét mà được giữ nguyên.
[15] Án p dân sự thẩm: bà M phải chịu án phí đối với số tiền
200.000.000 đồng không được chấp nhận; ông C Đ phải chịu án phí đối với số
tiền 974.697.400 đồng phải trả cho bà M.
[16] Án phí dân sự phúc thẩm: do kháng cáo của nguyên đơn Lâm Thị
M, bị đơn ông Nguyễn Văn C không được chấp nhận nên mỗi người phải chịu
300.000 đồng.
[17] Quan điểm của đại diện Viện kiểm sát tại phiên tòa phù hợp với quan
điểm Hội đồng xét xử nên được chấp nhận.
Vì các lẽ trên;
QUYẾT ĐỊNH:
Căn cứ vào khoản 1 Điều 308 của Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2015;
Không chấp nhận kháng cáo của nguyên đơnLâm Thị Mkháng cáo
của bị đơn ông Nguyễn Văn C;
Giữ nguyên Bản án dân sự thẩm số 02/2024/DS-ST ngày 18/01/2024 của
Tòa án nhân dân thành phố Đồng Xoài, tỉnh Bình Phước;
Áp dụng khoản 2 Điều 357; Điều 429; Điều 463; khoản 5 Điều 466; khoản
2 Điều 468 Bộ luật dân sự năm 2015; Các Điều 27, Điều 37 Luật hôn nhân và gia
đình năm 2014; Điều 26, 29 của Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày
30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm,
thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án,
Tuyên xử:
Chấp nhận một phần yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn Lâm Thị M.
Buộc ông Nguyễn Văn C và bà Trần Thị Bích Đ phải liên đới trả cho bà Lâm Thị
M số tiền 648.680.000 đồng và 326.017.400 đồng tiền lãi, tổng cộng là:
8
974.697.400 đồng (chín trăm bảy bốn triệu sáu trăm chín bảy nghìn bốn trăm
đồng).
Kể từ ngày Bản án hiệu lực pháp luật (đối với các trường hợp cơ quan thi
hành án quyền chủ động ra quyết định thi hành án) hoặc kể từ ngày đơn yêu
cầu thi hành án của người được thi hành án (đối với các khoản tiền phải trả cho
người được thi nh án) cho đến khi thi hành án xong, tất cả các khoản tiền, ng
tháng bên phải thi hành án còn phải chịu khoản tiền lãi của số tiền còn phải thi
hành theo theo mức lãi quy định tại khoản 2 Điều 468 Bộ luật dân sự năm 2015.
Trường hợp bản án được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật thi hành
án dân sự thì các đương sự quyền thỏa thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi
hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại
các Điều 6, 7 và 9 Luật thi hành án dân sự; thời hiệu thi hành án được thực hiện
theo quy định tại Điều 30 Luật thi hành án dân sự.
Án phí dân sự thẩm: Ông Nguyễn Văn C và bà Trần Thị Bích Đ liên đới
phải chịu 41.240.900 đồng (bốn một triệu hai trăm bốn mươi nghìn chín trăm
đồng);
Lâm Thị M phải chịu 10.000.000 đồng. Khấu trừ số tiền 18.730.000
đồng tạm ứng án phí bà M đã nộp theo biên lai thu số 0004731 ngày 02 tháng 02
năm 2023, Chi cục Thi hành án dân sthành phố Đ hoàn trả cho Lâm Thị M
số tiền 8.730.000 đồng (tám triệu bảy trăm ba mươi nghìn đồng).
Án phí dân sự phúc thẩm: nguyên đơn Lâm Thị M phải chịu 300.000
đồng, được trừ vào số tiền 300.000 đồng tạm ứng án phí đã nộp theo Biên lai thu
tiền tạm ứng án phí, lệ phí Tòa án số 0001112 ngày 15 tháng 03 2024 tại Chi cục
Thi hành án dân sự thành phố Đồng Xoài;
Bị đơn ông Nguyễn Văn C phải chịu 300.000 đồng, được trừ vào số tiền
300.000 đồng tạm ứng án phí đã nộp theo Biên lai thu tiền tạm ứng án phí, lệ phí
Tòa án số 0001123 ngày 19 tháng 03 năm 2024 tại Chi cục Thi hành án dân sự
thành phố Đồng Xoài.
Bản án phúc thẩm có hiệu lực pháp luật kể từ ngày tuyên án./.
Nơi nhận:
- VKSND tỉnh Bình Phước;
- Chi cục THADS thành phố Đồng Xoài;
- TAND thành phố Đồng Xoài;
- Các đương sự;
- Lưu: hồ sơ VA, Tổ HCTP, Tòa DS.
Tải về
Bản án số 107/2025/DS-Pt Bản án số 107/2025/DS-Pt

Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để tải file. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!

Bản án số 107/2025/DS-Pt Bản án số 107/2025/DS-Pt

Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để tải file. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!

Bản án/ Quyết định cùng đối tượng

Bản án cùng lĩnh vực

Bản án mới nhất