Bản án số 10/2018/HNGĐ-ST ngày 30/08/2018 của TAND huyện Đức Thọ, tỉnh Hà Tĩnh về tranh chấp hôn nhân và gia đình

  • Thuộc tính
  • Nội dung
  • VB gốc
  • VB liên quan
  • Lược đồ
  • Đính chính
  • Án lệ
  • BA/QĐ cùng nội dung
  • Tải về
Mục lục
Tải văn bản
Báo lỗi
  • Gửi liên kết tới Email
  • Chia sẻ:
  • Chế độ xem: Sáng | Tối
  • Thay đổi cỡ chữ:
    17

Thuộc tính Bản án 10/2018/HNGĐ-ST

Tên Bản án: Bản án số 10/2018/HNGĐ-ST ngày 30/08/2018 của TAND huyện Đức Thọ, tỉnh Hà Tĩnh về tranh chấp hôn nhân và gia đình
Quan hệ pháp luật: Vụ án ly hôn về mâu thuẫn gia đình
Cấp xét xử: Sơ thẩm
Tòa án xét xử: TAND huyện Đức Thọ (TAND tỉnh Hà Tĩnh)
Số hiệu: 10/2018/HNGĐ-ST
Loại văn bản: Bản án
Ngày ban hành: 30/08/2018
Lĩnh vực: Hôn nhân gia đình
Áp dụng án lệ:
Đã biết

Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để xem áp dụng án lệ. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!

Đính chính:
Đã biết

Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để xem đính chính. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!

Thông tin về vụ/việc: Chị Lê Thị Lệ H xin ly hôn anh Dương Thế A
Tóm tắt Bản án

Nội dung tóm tắt đang được cập nhật, Quý khách vui lòng quay lại sau!

Tải văn bản

TOÀ ÁN NHÂN DÂN HUYỆN ĐỨC THỌ, TỈNH HÀ TĨNH

BẢN ÁN 10/2018/HNGĐ-ST NGÀY 30/08/2018 VỀ TRANH CHẤP HÔN NHÂN VÀ GIA ĐÌNH

Ngày 30 tháng 8 năm 2018 tại trụ sở Tòa án nhân dân huyện Đức Thọ, tỉnh Hà Tĩnh mở phiên tòa xét xử sơ thẩm công khai vụ án dân sự thụ lý số: 30/2018/TLST-HNGĐ ngày 02 tháng 4 năm 2018 về tranh chấp “Hôn nhân và gia đình” theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 12/2018/QĐXXST-HNGĐ ngày 27/6/2018 và Quyết định hoãn phiên tòa số: 04/2018/QĐST-DS ngày 25/7/2018 giữa các đương sự:

1. Nguyên đơn: Chị Lê Thị Lệ H; sinh năm 1984; nghề nghiệp: Lao động tự do; nơi cư trú: Thôn ĐH, xã ĐH, huyện ĐT, tỉnh Hà Tĩnh; có đơn đề nghị xét xử vắng mặt.

2. Bị đơn: Anh Dương Thế A; sinh năm 1985; nghề nghiệp: Lao động tự do; nơi ĐKNKTT: Thôn CT, xã TA, huyện ĐT, tỉnh Hà Tĩnh; Đang chấp hành án tại: Đội 2, phân trại 1, Trại giam Xuyên Mộc thuộc xã TL, huyện XM, tỉnh Bà Rịa - Vũng Tàu; có đơn đề nghị xét xử vắng mặt.

NỘI DUNG VỤ ÁN:

Theo đơn khởi kiện ngày 22/3/2018, các văn bản ghi lời khai và quá trình tố tụng, chị Lê Thị Lệ H trình bày:

- Về quan hệ hôn nhân: Chị Lê Thị Lệ H kết hôn với anh Dương Thế A trên cơ sở tình yêu tự nguyện, được tự do tìm hiểu, không bị ai lừa dối, ép buộc và có đăng ký kết hôn ngày 20/02/2008 tại UBND xã ĐH, huyện ĐT, tỉnh Hà Tĩnh. Sau khi kết hôn tình cảm vợ chồng hòa thuận hạnh phúc được 1 năm thì nảy sinh mâu thuẫn; nguyên nhân do anh Dương Thế A phạm tội giết người và phải chịu án phạt 15 năm tù giam, đến thời điểm chị Hằng viết đơn xin ly hôn thì thời gian anh A thi hành án được 9 năm. Chị H đã cố gắng nhiều năm vừa làm việc chăm lo cuộc sống bản thân, vừa thăm hỏi, động viên, giúp đỡ anh và hy vọng ngày vợ chồng đoàn tụ nhưng vì thời gian anh A phải thi hành án quá dài, vợ chồng sống xa cách lâu ngày không có sự quan tâm, chăm sóc nhau thường xuyên nên tình cảm ngày càng phai nhạt. Nay chị H xác định tình cảm đã đến mức trầm trọng, đời sống chung không thể kéo dài, hạnh phúc hôn nhân không đạt được nên chị có nguyện vọng được ly hôn với anh Dương Thế A.

- Về con chung: Vợ chồng không có con chung nên không yêu cầu Tòa án giải quyết.

- Về tài sản và nợ chung: Vợ chồng không có tài sản chung và nợ chung nên không yêu cầu Tòa án giải quyết.

Tại bản biên bản lấy lời khai ngày 04/5/2018 anh Dương Thế A trình bày:

- Về quan hệ hôn nhân: Anh hoàn toàn thống nhất như ý kiến trình bày của chị Hằng về việc kết hôn, nguyên nhân xảy ra mâu thuẫn và anh đồng ý ly hôn.

- Về con chung: Vợ chồng không có con chung nên không yêu cầu Tòa án giải quyết.

- Về tài sản và nợ chung: Không yêu cầu Tòa án giải quyết.

* Đại diện Viện kiểm sát tham gia phiên tòa phát biểu quan điểm:

Về tố tụng: Qua kiểm sát việc giải quyết vụ án từ khi thụ lý đến trước khi Hội đồng xét xử nghị án thấy rằng Thẩm phán, Hội đồng xét xử, Thư ký và những người tham gia tố tụng đã thực hiện đúng quy định pháp luật. Tại phiên tòa các đương sự vắng mặt nhưng quá trình tố tụng đã trình bày rõ các yêu cầu và đề nghị xử vắng mặt là đúng quy định tại Điều 238 Bộ luật tố tụng dân sự.

Về nội dung: Đề nghị Hội đồng xét xử áp dụng Khoản 1 Điều 28; Khoản 4 Điều 147 Bộ luật tố tụng dân sự; Khoản 1 Điều 51; Khoản 1 Điều 56 Luật hôn nhân và gia đình; Điểm b Khoản 1 Điều 3; Khoản 1 Điều 6; Điểm a Khoản 1 Điều 24; Điểm a Khoản 5 Điều 27 Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14 của Ủy ban thường vụ Quốc hội quy định về án phí, lệ phí Tòa án:

Về quan hệ hôn nhân: Xử cho chị Lê Thị Lệ H được ly hôn anh Dương Thế A.

Về con chung: Vợ chồng không có con chung nên miễn xét.

Về tài sản và nợ chung: Vợ chồng không yêu cầu giải quyết nên miễn xét. Về án phí: Chị Lê Thị Lệ H phải nộp án phí theo quy định của pháp luật.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN:

Trên cơ sở xem xét đầy đủ các tài liệu có tại hồ sơ cũng như kết quả tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định:

[1]. Về thủ tục tố tụng: Đây là quan hệ tranh chấp về “Hôn nhân và gia đình” quy định tại Khoản 1 Điều 28 Bộ luật tố tụng dân sự năm 2015 giữa nguyên đơn chị Lê Thị Lệ H, sinh năm 1984 nơi cơ trú: Thôn ĐH, xã ĐH, huyện ĐT, tỉnh Hà Tĩnh và bị đơn anh Dương Thế A, sinh năm 1985, nơi ĐKNKTT: Thôn CT, xã TA, huyện ĐT, tỉnh Hà Tĩnh nên vụ án thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa án huyện Đức Thọ, tỉnh Hà Tĩnh.

Tại phiên tòa lần thứ nhất vào ngày 25/7/2018 chị Lê Thị Lệ H có mặt, anh Dương Thế A vắng mặt lần thứ nhất nên Tòa đã hoãn phiên tòa. Tại phiên tòa hôm nay anh chị có đơn đề nghị Tòa án xét xử vắng mặt là phù hợp với Điều 238 Bộ luật tố tụng dân sự nên Tòa án tiến hành xét xử vụ án.

[2]. Về quan hệ hôn nhân:

Chị Lê Thị Lệ H và anh Dương Thế A kết hôn trên cơ sở tình yêu tự nguyện, được tự do tìm hiểu, không bị ai lừa dối hay ép buộc và có đăng ký kết hôn vào ngày 20/02/2008 tại UBND xã ĐH, huyện ĐT, tỉnh Hà Tĩnh. Điều đó phù hợp với Giấy chứng nhận kết hôn của chị Hằng và anh A do UBND xã ĐH, huyện ĐT cấp và chị H giao nộp tại hồ sơ vụ án. Do đó Hội đồng xét xử xác định quan hệ hôn nhân của anh chị là hợp pháp.

Tình trạng hôn nhân vợ chồng hòa thuận hạnh phúc được 1 năm thì nảy sinh mâu thuẫn,  nguyên nhân là do anh Dương Thế A phạm tội giết người và phải chịu án phạt 15 năm tù giam là có cơ sở vì: Quá trình giải quyết vụ án, Tòa án đã tiến hành ban hành Quyết định ủy thác thu thập chứng cứ số: 02/2018/QĐ-UTTA ngày 03/4/2018 cho Tòa án nhân dân huyện XM, tỉnh Bà Rịa – Vũng Tàu tiến hành tống đạt thông báo thụ lý vụ án, lấy lời khai của anh Dương Thế A và ban hành công văn số 10/2018/CV-TA ngày 21/5/2018 cho Trại giam XM, tỉnh Bà Rịa – Vũng Tàu yêu cầu cung cấp tài liệu chứng cứ chứng minh việc chấp hành án phạt tù và thi hành án của anh Dương Thế A và đã được Tòa án và Trại giam huyện XM, tỉnh Bà Rịa – Vũng Tàu cung cấp tài liệu chứng cứ và qua đối chiếu thấy phù hợp với lời trình bày của chị H. Nay, chị H xác định vì thời gian anh A phải thụ án quá lâu nên tình cảm vợ chồng không còn nữa, mục đích hôn nhân không đạt được và xin ly hôn là phù hợp theo quy định của Luật hôn nhân và gia đình nên Hội đồng xét xử chấp nhận.

[3]. Về con chung: Vợ chồng không có con chung và không yêu cầu giải quyết nên Tòa không xem xét.

[4]. Về tài sản và nợ chung: Vợ chồng không yêu cầu giải quyết nên Tòa không xem xét.

[5]. Về án phí và quyền kháng cáo: Chị Lê Thị Lệ H phải chịu án phí dân sự sơ thẩm. Chị H và anh A được quyền kháng cáo bản án theo quy định của pháp luật.

Vì các lẽ trên;

QUYẾT ĐỊNH:

Áp dụng Khoản 1 Điều 28; Khoản 4 Điều 147 Bộ luật tố tụng dân sự; Khoản 1 Điều 51; Khoản 1 Điều 56 Luật hôn nhân và gia đình; Điểm b Khoản 1 Điều 3; Khoản 1 Điều 6; Điểm a Khoản 1 Điều 24; Điểm a Khoản 5 Điều 27 Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14 của Ủy ban thường vụ Quốc hội quy định về án phí, lệ phí Tòa án:

1. Về quan hệ hôn nhân: Xử cho chị Lê Thị Lệ H được ly hôn anh Dương Thế A.

2. Về án phí sơ thẩm: Chị Lê Thị Lệ H phải nộp 300.000 đồng (Ba trăm ngàn đồng) tiền án phí ly hôn sơ thẩm. Chị H đã nộp đủ theo biên lai thu tiền số 0005762 ngày 02/4/20178 tại Chi cục thi hành án dân sự huyện Đức Thọ, tỉnh Hà Tĩnh.

3. Quyền kháng cáo: Chị Lê Thị Lệ H và anh Dương Thế A có quyền kháng cáo bản án trong hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được bản án hoặc ngày niêm yết bản án.

Tải về
Bản án số 10/2018/HNGĐ-ST Bản án số 10/2018/HNGĐ-ST

Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để tải file. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!

Bản án/ Quyết định cùng đối tượng

Bản án cùng lĩnh vực

Bản án mới nhất