Bản án số 04/2025/KDTM-PT ngày 18/03/2025 của TAND tỉnh Tiền Giang về tranh chấp về mua bán hàng hóa
- Thuộc tính
- Nội dung
- VB gốc
- VB liên quan
- Lược đồ
- Đính chính
- Án lệ
- BA/QĐ cùng nội dung
- Tải về
Tải văn bản
-
Bản án số 04/2025/KDTM-PT
Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để tải file. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!
-
Bản án số 04/2025/KDTM-PT
Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để tải file. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!
Báo lỗi
Thuộc tính Bản án 04/2025/KDTM-PT
Tên Bản án: | Bản án số 04/2025/KDTM-PT ngày 18/03/2025 của TAND tỉnh Tiền Giang về tranh chấp về mua bán hàng hóa |
---|---|
Quan hệ pháp luật: | Tranh chấp về mua bán hàng hóa |
Cấp xét xử: | Phúc thẩm |
Tòa án xét xử: | TAND tỉnh Tiền Giang |
Số hiệu: | 04/2025/KDTM-PT |
Loại văn bản: | Bản án |
Ngày ban hành: | 18/03/2025 |
Lĩnh vực: | Kinh doanh thương mại |
Áp dụng án lệ: |
Đã biết
Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để xem áp dụng án lệ. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây! |
Đính chính: |
Đã biết
Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để xem đính chính. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây! |
Thông tin về vụ/việc: | Ngày 27/8/2024 và tại phiên tòa phúc thẩm, ông Nguyễn Thành D1 V1 là người đại diện theo ủy quyền của nguyên đơn Công ty TNHH D2 - IFSS có yêu cầu kháng với nội dung |
Tóm tắt Bản án
Nội dung tóm tắt đang được cập nhật, Quý khách vui lòng quay lại sau!
Tải văn bản

TÒA ÁN NHÂN DÂN
TỈNH TIỀN GIANG
Bản án số: 04/2025/KDTM-PT
Ngày: 18/3/2025
V/v tranh chấp: “Hợp đồng mua bán
hàng hóa”.
CỘNG HÒA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM
Độc lập - Tự do - Hạnh phúc
NHÂN DANH
NƯỚC CỘNG HÒA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM
TÒA ÁN NHÂN DÂN TỈNH TIỀN GIANG
- Thành phần Hội đồng xét xử phúc thẩm gồm có:
Thẩm phán - Chủ tọa phiên tòa: Bà Nguyễn Ái Đoan
Các Thẩm phán: Bà Trương Thị Tuyết Linh
Ông Trần Văn Đạt
- Thư ký phiên tòa: Bà Nguyễn Thị Thúy Phương - Thư ký Tòa án nhân
dân tỉnh Tiền Giang.
- Đại diện Viện Kiểm sát nhân dân tỉnh Tiền Giang
tham gia phiên tòa: Bà
Trần Thị Ngọc Thức - Kiểm sát viên.
Ngày 11 và ngày 18 tháng 3 năm 2025 tại trụ sở Tòa án nhân dân tỉnh Tiền
Giang xét xử phúc thẩm công khai vụ án thụ lý số 02/2025/TLPT-KDTM ngày
14 tháng 01 năm 2025 về tranh chấp “Hợp đồng mua bán hàng hóa”.
Do Bản án kinh doanh thương mại sơ thẩm số 03/2024/DS-ST ngày 12
tháng 8 năm 2024 của Tòa án nhân dân huyện Tân Phước, tỉnh Tiền Giang bị
kháng cáo.
Theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử phúc thẩm số 61/2025/QĐ-PT ngày
20 tháng 01 năm 2025 giữa các đương sự:
- Nguyên đơn: Công ty TNHH D2 - IFSS.
Địa chỉ: Số B N, Phường Đ, Quận A, thành phố Hồ Chí Minh.
Đại diện theo pháp luật: Ông Hoàng Dương Xuân D, chức vụ: Giám đốc.
Người đại diện theo ủy quyền của ông Hoàng Dương Xuân V: Công ty L.
Địa chỉ: A, N, phường V, Quận C, TP ..
Người đại diện theo pháp luật: Bà Võ Thị Hồng H. Chức vụ: Giám đốc.
Ủy quyền lại: Ông Nguyễn Thành Duy V1, sinh năm 1986 (Có mặt)
Địa chỉ: A, N, phường V, Quận C, TP ..
Người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của nguyên đơn Công ty TNHH D2
- IFSS: Luật sư: Ngô Vũ Vân H1 – Công ty L – Đoàn Luật sư thành phố H.
- Bị đơn: Công ty TNHH W.
2
Địa chỉ: Lô B, 25A, 29A, 30 Khu công nghiệp L, xã T, Huyện T, Tỉnh
Tiền Giang.
Đại diện theo pháp luật: Ông TSAI TSAO SHAO CHUNG, chức vụ: Chủ
tịch Công ty.
Người đại diện theo ủy quyền của ông TSAI TSAO SHAO CHUNG: Ông
CHEN HAN HUA, chức vụ Tổng Giám đốc.
Địa chỉ: Lô B, 25A, 29A, 30 Khu công nghiệp L, xã T, Huyện T, Tỉnh
Tiền Giang.
Ủy quyền lại: Ông Nìm Chí T, sinh năm 1987 (Có mặt)
Địa chỉ: Tổ D, khu A, ấp T, xã S, huyện T, tỉnh Đồng Nai.
- Người có quyền lợi và nghĩa vụ liên quan:
1/ Bà Lê Thị T1, chức vụ: Nhân viên thu mua của Công ty TNHH W (Có
mặt)
Địa chỉ: Lô B, 25A, 29A, 30 Khu công nghiệp L, xã T, huyện T, Tỉnh
Tiền Giang.
2/ Bà Nguyễn Thu T2, chức vụ Nhân viên bán hàng của Công ty TNHH
D2 (Có mặt)
Địa chỉ: Ấp D, xã C, huyện T, tỉnh Tây Ninh.
- Người làm chứng:
1/ Công ty Trách nhiệm hữu hạn G (Vắng mặt)
Địa chỉ: Khu V, phường T, quận T, thành phố Cần Thơ.
2/ Công ty Trách nhiệm hữu hạn G1 (Vắng mặt)
Địa chỉ: Tổ A, khóm B, phường B, thành phố L, tỉnh An Giang.
- Người kháng cáo: ông Nguyễn Thành D1 V1 là người đại diện theo ủy
quyền của nguyên đơn Công ty TNHH D2 - IFSS và bị đơn Công ty TNHH W.
Viện kiểm sát kháng nghị: Viện kiểm sát nhân dân huyện Tân Phước, tỉnh
Tiền Giang
NỘI DUNG VỤ ÁN:
Theo án sơ thẩm, người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của nguyên
đơn Công ty TNHH D2 - IFSS - Luật sư Ngô Vũ Vân H1 trình bày:
Ngày 20/6/2022, Công ty TNHH D2 và Công ty TNHH W có ký Hợp
đồng số 01/HĐMB/WW-IFSS (“sau đây gọi là “Hợp đồng 01”) về việc Công ty
TNHH W sẽ mua gạo Nhật của Công ty TNHH D2 - IFSS, số lượng gạo mua
bán và thời gian giao hàng được thống nhất tại từng đơn đặt hàng mà Công ty
TNHH W gửi Công ty TNHH D2 - IFSS.
3
Căn cứ theo Hợp đồng, Công ty TNHH D2 - IFSS đã nhận được lần lượt
02 đơn đặt hàng gạo Japonica của Công ty TNHH W. Cụ thể:
- Đơn đặt hàng số NL20220905-01 có ngày phát hành 26/09/2022 (sau
đây gọi là “Đơn đặt hàng 01”).
+ Số lượng: 100 tấn.
+ Thời gian giao hàng như sau: Ngày 23/11/2022 giao 20 tấn, ngày
01/12/2022 giao 20 tấn, ngày 08/12/2022 giao 20 tấn, ngày 14/12/2022 giao 20
tấn, ngày 18/12/2022 giao 20 tấn.
+ Đơn giá: 13.950 đồng/kg.
+ Tổng giá trị đơn hàng: 1.395.000.000 đồng.
- Đơn đặt hàng số NL20220905-01 có ngày phát hành 27/10/2022 (sau
đây gọi là “Đơn đặt hàng 02”).
+ Số lượng: 100 tấn.
+ Thời gian giao hàng như sau: ngày 10/01/2023 giao 20 tấn, ngày
17/01/2023 giao 20 tấn, ngày 08/02/2023 giao 20 tấn, ngày 15/02/2023 giao 20
tấn, ngày 22/02/2023 giao 20 tấn.
+ Đơn giá: 15.735 đồng/kg.
+ Tổng giá trị đơn hàng: 1.573.500.000 đồng.
Về quá trình giao hàng:
Thực hiện theo đúng thỏa thuận giữa hai bên, Công ty TNHH D2 - IFSS
giao hàng cho Công ty TNHH W. Cụ thể:
+ Đối với đơn đặt hàng 01:
Ngày 11/11/2022: giao 20 tấn. Sau kiểm tra, Công ty TNHH W đồng ý
nhận gạo và đã thanh toán.
Ngày 28/11/2022: giao 20 tấn. Sau kiểm tra, Công ty TNHH W không
đồng ý nhận gạo vì lý do gạo không đảm bảo chất lượng.
Sau khi bị trả hàng, Công ty TNHH D2 - IFSS đã nghiên cứu cẩn thận thị
trường, nhận thấy chất lượng gạo trên thị trường thời điểm này chỉ có thể tương
đương với gạo đã giao ngày 28/11/2022 nhưng giá gạo ngày càng cao, Công ty
TNHH D2 đã chủ động đề nghị và cùng Công ty TNHH W đã nhiều lần trao đổi
để xem xét vấn đề Công ty TNHH D2 - IFSS không thể đáp ứng đủ chất lượng
mà Công ty TNHH W đã đề nghị.
Công ty TNHH D2 - IFSS chấp nhận việc mình phải vi phạm thoả thuận
đối với Đơn đặt hàng 01 và đồng ý chịu phạt theo thoả thuận của Hợp đồng. Nội
dung này Công ty TNHH D2 đã thông báo cho Công ty TNHH W, đồng nhân sự
của hai bên cũng đã trao đổi rất nhiều lần.
4
Vì không hoàn thành được Đơn đặt hàng 01, Công ty TNHH D2 đã thúc
đẩy thực hiện các công việc sau trước khi tiến hành giao gạo theo Đơn đặt hàng
02:
+ Ngày 21/12/2022, Công ty TNHH D2 - IFSS có gửi tặng cho Công ty
TNHH W 200kg gạo Japonica đang thu mua trên thị trường để Công ty TNHH
W kiểm tra chất lượng.
+ Đồng thời trong thời gian này, ngày 27/12/2022, Công ty TNHH D2 -
IFSS đã chính thức có công văn số A01-2022/CV-IFSS về việc ngừng cung cấp
Gạo Nhật Quý 4.2022 và điều chỉnh chất lượng Gạo Nhật tháng 01.2023. Tại
đây, Công ty TNHH D2 tiếp tục đề xuất:
Bồi thường theo hợp đồng cho số lượng gạo 80 tấn chưa giao của Đơn đặt
hàng 01 hoặc tìm giải pháp phù hợp để có thể giao trong tương lai.
Đề nghị Công ty TNHH W có phản hồi về chất lượng của 200 kg gạo đã
gửi ngày 21/12/2022 và 5 tấn gạo tiếp theo ngày 31/12/2022 để Công ty TNHH
D2 - IFSS chuẩn bị 100 tấn loại gạo này để giao cho Đơn đặt hàng 02.
Ngày 31/12/2022, Công ty TNHH D2 - IFSS giao 5 tấn, cùng ngày đã lập
và gửi hoá đơn cho Công ty TNHH W. Giá bán 5 tấn này được áp dụng theo giá
của Đơn đặt hàng 01 (13.750 đồng/kg).
Đối với Đơn đặt hàng 02:
Sau nhiều lần trao đổi Công ty TNHH D2 - IFSS đề nghị và Công ty
TNHH W đã thống nhất nhận 100 tấn cho Đơn đặt hàng 02 với giá đã giảm là
15.700 đồng.
Ngày 17/01/2023, Công ty TNHH D2 - IFSS tiến hành giao 100 tấn gạo
cho Công ty TNHH W. Thực tế cân lại thì khối lượng gạo giao bị thiếu, khối
lượng gạo thực tế giao là 99.950kg gạo.
Tổng số tiền mà Công ty TNHH W phải thanh toán cho Công ty TNHH
D2 - IFSS là: (99.950kgx15.700đồng/kg) + (5.000kg x 13.950đồng/kg) =
1.638.965.000 đồng.
Ngày 18/01/2023, Công ty TNHH D2 - IFSS lập và gửi hoá đơn cho Công
ty TNHH W.
Sau khi giao hàng và gửi hoá đơn giá trị gia tăng, Công ty TNHH D2 đã
nhiều lần đề nghị nhưng Công ty TNHH W không thanh toán.
Ngày 27/4/2023 Công ty TNHH W đã thanh toán cho Công ty TNHH D2
- IFSS số tiền: 1.410.715.000 đồng.
Như vậy, căn cứ theo Hợp đồng mua bán gạo đã ký kết, tính đến ngày
04/7/2024, số tiền mà Công ty TNHH W còn nợ Công ty TNHH D2 - IFSS gồm:
- Tiền gốc thanh toán thiếu tính đến ngày 27/4/2023:
5
1.638.950.000 đồng - 1.410.715.000 đồng = 228.250.000 đồng.
- Tiền lãi chậm thanh toán như sau:
+ Tiền lãi chậm thanh toán đối với 5.000kg gạo giao ngày 31/12/2022:
(tính đến ngày 27/4/2023)
69.750.000 đồng x 87 ngày x 0,05% = 3.034.125 đồng.
+ Tiền lãi chậm thanh toán đối với 99.950kg gạo giao ngày 17/01/2023:
(tính đến ngày 27/4/2023)
1.569.215.000 đồng x 70 ngày x 0.05% = 54.922.525 đồng.
+ Tiền lãi chậm thanh toán đối với số tiền nợ gốc 228.250.000 đồng: (tạm
tính đến ngày 05/8/2024)
228.250.000 đồng x 466 ngày x 0.05% = 53.182.250 đồng.
Vì vậy, tổng số tiền lãi phát sinh do chậm thanh toán mà Công ty TNHH
W phải trả cho Công ty TNHH D2 - IFSSS là: 3.034.125 đồng + 54.922.525
đồng + 53.182.250 đồng = 111.138.900 đồng.
Nay Công ty TNHH D2 - IFSS yêu cầu Công ty TNHH W phải trả tổng
số tiền: là 339.388.900 đồng. Trong đó, tiền hàng chưa thanh toán là
228.250.000 đồng, tiền lãi chậm thanh toán là 111.138.900 đồng.
Đối với yêu cầu phản tố của Công ty TNHH W thì Công ty TNHH D2 -
IFSS có ý kiến như sau:
Công ty TNHH D2 - IFSS không đồng ý bồi thường thiệt hại cho Công ty
TNHH W. Công ty TNHH D2 chỉ đồng ý trả cho Công ty TNHH W số tiền phạt
vi phạm hợp đồng với số tiền như sau:
(75.000kg x 13.950đồng/kg x 8%) + (50kg x 15.700đồng/kg x 8%) =
83.762.800 đồng.
Ông Nguyễn Thành D1 V1 là người đại diện theo ủy quyền của nguyên
đơn Công ty TNHH D2 - IFSS trình bày: Ông Nguyễn Thành Duy V1 thống
nhất theo lời trình bày của luật sư Ngô Vũ Vân H1.
Người đại diện theo ủy quyền của bị đơn Công ty TNHH W là ông Nìm
Chí T trình bày:
Ngày 20/6/2022, Công ty TNHH W và Công ty TNHH D2 - IFSS có ký
hợp đồng mua bán hàng hoá số 01/HĐMB/WW-IFSS về việc mua bán gạo. Hợp
đồng có hiệu lực từ ngày 20/6/2022 đến ngày 31/12/2022.
Trong thời gian có hiệu lực của Hợp đồng, Công ty TNHH W có đặt hai
đơn hàng để mua gạo của Công ty TNHH D2 - IFSS, cụ thể như sau:
Đơn đặt hàng số NL20220905-01 có ngày phát hành 26/09/2022 (sau đây
gọi là “Đơn đặt hàng 01”).
+ Số lượng: 100 tấn.
6
+ Thời gian giao hàng như sau: Ngày 23/11/2022 giao 20 tấn, ngày
01/12/2022 giao 20 tấn, ngày 08/12/2022 giao 20 tấn, ngày 14/12/2022 giao 20
tấn, ngày 18/12/2022 giao 20 tấn.
+ Đơn giá: 13.950 đồng/kg.
+ Tổng giá trị đơn hàng: 1.395.000.000 đồng.
Đơn đặt hàng số NL20220905-01 có ngày phát hành 27/10/2022 (sau đây
gọi là “Đơn đặt hàng 02”).
+ Số lượng: 100 tấn.
+ Thời gian giao hàng như sau: ngày 10/01/2023 giao 20 tấn, ngày
17/01/2023 giao 20 tấn, ngày 08/02/2023 giao 20 tấn, ngày 15/02/2023 giao 20
tấn, ngày 22/02/2023 giao 20 tấn.
+ Đơn giá: 15.735 đồng/kg.
+ Tổng giá trị đơn hàng: 1.573.500.000 đồng.
Sau khi Công ty TNHH D2 - IFSS xác nhận hai đơn hàng trên, tiến độ
giao hàng của Công ty TNHH D2 - IFSS, cụ thể như sau:
1. Đơn hàng 1:
- Ngày 10/11/2022 giao 20.000kg.
- Ngày 31/12/2022 giao 5.000kg.
- Ngày 17/01/2023 giao 75.000kg.
Thành tiền: 100.000kgx13.950đồng/kg=1.392.200.000 đồng.
2/ Đơn hàng 2:
- Ngày 17/01/2023 giao 24.950 kg.
- Thành tiền: 24.950kgx15.700 đồng/kg=391.715.000 đồng.
Trên thực tế Công ty TNHH D2 - IFSS chỉ mới hoàn tất việc giao hàng
của Đơn hàng 01. Tuy nhiên, thời gian giao hàng bị chậm trễ hơn rất nhiều so
với thời gian giao hàng đã được quy định trong Đơn đặt hàng.
Đối với Đơn hàng 02, Công ty TNHH D2 - IFSS chỉ mới giao được
24.950 kg, còn thiếu 75.050 kg so với số lượng đã thoả thuận trong Đơn đặt
hàng.
Căn cứ Đơn đặt hàng và thực tế giao hàng của Công ty TNHH D2 - IFSS,
tính đến thời điểm này, Công ty TNHH W đã thanh toán đầy đủ tất cả công nợ
theo Hợp đồng mua bán, đơn đặt hàng đã ký với Công ty TNHH D2 - IFSS, với
tổng số tiền là 1.689.715.000 đồng, trong đó bao gồm:
+ Thanh toán 1.392.200.000 đồng cho Đơn hàng 01.
+ Thanh toán 297.515.000 đồng cho Đơn hàng 02.
Trên thực tế, Công ty TNHH D2 - IFSS đã giao số lượng gạo là 24.950
kg, tương ứng với giá trị là 391.715.000 đồng. Tuy nhiên, do Công ty TNHH D2
7
- IFSS đã vi phạm nghĩa vụ giao hàng, nên Công ty TNHH W đã áp dụng Mục
11.2 của Hợp đồng mua bán hàng hoá số 01/HĐMB/WW-IFSS để phạt Công ty
TNHH D2 - IFSS số tiền là: 75.000 kg x 15.700 kg/đồng x 8% = 94.200.000
đồng. Vì vậy, số tiền thực tế thanh toán cho Đơn hàng 02 của Công ty TNHH
D2 - IFSS sau khi trừ đi khoản tiền phạt vi phạm hợp đồng là 297.515.000 đồng.
Như vậy, Công ty TNHH W đã thanh toán đầy đủ công nợ cho Công ty
TNHH D2 - IFSS theo hợp đồng mua bán, đơn đặt hàng đã ký. Do đó, Công ty
TNHH W không còn bất kỳ công nợ nào phải thanh toán. Về phía Công ty
TNHH D2 - IFSS, theo đơn đặt hàng, Công ty TNHH D2 có nghĩa vụ giao hàng
cho Công ty TNHH W theo thời gian giao hàng đã thoả thuận. Tuy nhiên, đến
thời điểm hiện tại, Công ty TNHH D2 - IFSS vẫn còn 75.050 kg của Đơn hàng
02 chưa giao cho Công ty TNHH W.
Vì vậy Công ty TNHH W không đồng ý theo yêu cầu của Công ty TNHH
D2 - IFSS.
- Công ty TNHH W có yêu cầu phản tố như sau:
Công ty TNHH D2 - IFSS đã vi phạm nghĩa vụ giao hàng, khi không giao
đủ số lượng gạo cho Công ty TNHH W theo Đơn đặt hàng. Cụ thể, Công ty
TNHH D2 - IFSS chỉ mới giao 124.950 kg trong tổng số 200.000 kg. Công ty
TNHH D2 - IFSS vẫn còn 75.050kg gạo chưa giao cho Công ty TNHH W.
Việc vi phạm nghĩa vụ giao hàng của Công ty TNHH D2 - IFSS đã khiến
Công ty TNHH W bị thiệt hại. Cụ thể, vào ngày 22 và 28/02/2023, Công ty
TNHH W đã phải mua gạo của Công ty TNHH G và Công ty TNHH G1 để thay
thế, với giá cao hơn so với giá đã thỏa thuận với Công ty TNHH D2 - IFSS. Vì
vậy, Công ty TNHH W có yêu cầu như sau:
- Công ty TNHH W yêu cầu Công ty TNHH D2 - IFSS phải bồi thường
thiệt hại cho Công ty TNHH W số tiền: 99.700.000 đồng (600 kg x (16.300 –
15.700) + 50.000 kg x (17.100 – 15.700) + 24.400 kg x (16.900 – 15.700) =
99.700.000 đồng.)
- Công ty TNHH W yêu cầu Công ty TNHH D2 - IFSS thanh toán khoản
tiền phạt vi phạm hợp đồng là 94.262.800 đồng (75.050kg x 15.700đồng/kg x
8% = 94.262.800 đồng)
Người đại diện theo ủy quyền của bị đơn Công ty TNHH W là ông Nìm
Chí T yêu cầu:
- Công ty TNHH W yêu cầu Công ty TNHH D2 - IFSS phải bồi thường
thiệt hại cho Công ty TNHH W số tiền: 97.073.250 đồng (600 kg x (16.300 –
15.735) + 50.000 kg x (17.100 – 15.735) + 24.400 kg x (16.900 – 15.735) =
97.073.250 đồng.)
8
- Công ty TNHH W yêu cầu Công ty TNHH D2 - IFSS thanh toán khoản
tiền phạt vi phạm hợp đồng là 193.193.940 đồng ((80.000kg x 13.950đồng/kg x
8%) + (20.000kg x 15.735đồng/kg x 3%) + (75.050kg x 15.735đồng/kg x 8%) =
193.193.940 đồng).
Người có quyền lợi và nghĩa vụ liên quan bà Nguyễn Thu T2 trình bày:
Bà Nguyễn Thu T2 thống nhất theo lời trình bày của Luật sư và ông Nguyễn
Thành Duy V1. Bà Nguyễn Thu T2 xác định 99.950kg gạo giao ngày
17/01/2023 là đơn hàng NL20220905-01 ngày 27/10/2022.
Người có quyền lợi và nghĩa vụ liên quan bà Lê Thị T1 trình bày: Bà Lê
Thị T1 thống nhất theo lời trình bày của ông Nìm Chí T. Bà Lê Thị T1 xác định
99.950kg gạo giao ngày 17/01/2023 là đơn hàng NL20220905-01 ngày
26/9/2022. Đối với số gạo 600kg với đơn giá 16.300 đồng/kg Công ty Trách
nhiệm hữu hạn G có giao cho Công ty TNHH W ngày 03/4/2023 nhưng TNHH
W không nhận hàng vì không đảm bảo chất lượng.
Tại bản án Kinh doanh thương mại sơ thẩm số 03/2024/KDTM-ST ngày
12 tháng 8 năm 2024 của Toà án nhân dân huyện Tân Phước, tỉnh Tiền Giang đã
áp dụng: Điều 34, 300, 301, 302, 303, 304, 305 và 306 của Luật Thương mại
2005; Điều 271, Điều 273 của Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2015; khoản 2 và
khoản 5 Điều 26 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30-12-2016 của Ủy
ban Thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và
sử dụng án phí và lệ phí Tòa án xử:
1. Chấp nhận yêu cầu khởi kiện của Công ty TNHH D2 - IFSS.
Buộc Công ty TNHH W phải thanh toán cho Công ty TNHH D2 - IFSS
số tiền là 339.388.900 đồng. Trong đó, tiền hàng chưa thanh toán là 228.250.000
đồng, tiền lãi chậm thanh toán là 111.138.900 đồng.
2. Chấp nhận một phần yêu cầu phản tố của Công ty TNHH W.
Buộc Công ty TNHH D2 - IFSS thanh toán cho Công ty TNHH W tổng
số tiền là: 180.836.050 đồng. Trong đó, tiền phạt vi phạm hợp đồng là
83.762.800 đồng, tiền bồi thường thiệt hại là 97.073.250 đồng.
3. Kể từ ngày người được thi hành án có đơn đề nghị thi hành án, nếu
bên phải thi hành án chưa thi hành xong thì hàng tháng còn phải chịu lãi trên số
tiền chậm trả cho bên được thi hành án theo mức lãi suất quá hạn trung bình trên
thị trường tại thời điểm thanh toán, tương ứng với thời hạn chậm trả.
9
4. Không chấp nhận yêu cầu phản tố của Công ty TNHH W về việc Công
ty TNHH W yêu cầu Công ty TNHH D2 - IFSS thanh toán khoản tiền phạt do vi
phạm hợp đồng với số tiền 109.431.140 đồng (193.193.940 đồng – 83.762.800
đồng = 109.431.140.)
Ngoài ra bản án còn tuyên về án phí và quyền kháng cáo của đương sự.
Ngày 27/8/2024 và tại phiên tòa phúc thẩm, ông Nguyễn Thành D1 V1 là
người đại diện theo ủy quyền của nguyên đơn Công ty TNHH D2 - IFSS có yêu
cầu kháng với nội dung: Kháng cáo phần yêu cầu bồi thường thiệt hại của Công
ty TNHH W, không đồng ý bồi thường cho Công ty TNHH W số tiền là
97.073.250 đồng.
Ngày 26 tháng 8 năm 2024 và tại phiên tòa phúc thẩm ông Nìm Chí T là
người đại diện theo ủy quyền của bị đơn Công ty TNHH W yêu cầu kháng cáo
với nội dung: Yêu cầu Tòa phúc thẩm giải quyết: Không đồng ý xác định số
lượng gạo 99.950 kg giao ngày 17/01/2023 cho toàn bộ đơn hàng số 2; Không
đồng ý thanh toán 228.250.000 đồng cho phí nguyên đơn; Không đồng ý trả lãi
111.138.900 đồng cho phía nguyên đơn; Yêu cầu nguyên đơn trả tiền phạt vi
phạm hợp đồng là 193.193.940 đồng và bồi thường thiệt hại là 97.073.250 đồng.
Ngày 05 tháng 9 năm 2024, Viện kiểm sát nhân dân huyện Tân Phước,
tỉnh Tiền Giang có Quyết định kháng nghị phúc thẩm số 62/QĐ-VKS –KDTM
với nội dung: Đề nghị Tòa án nhân dân tỉnh Tiền Giang xét xử phúc thẩm theo
hướng sửa bản án sơ thẩm.
Tại phiên tòa phúc thẩm, nguyên đơn vẫn giữ nguyên yêu cầu khởi kiện và
giữ nguyên yêu cầu kháng cáo, bị đơn giữ nguyên yêu cầu kháng cáo, Viện kiểm
sát nhân dân tỉnh Tiền Giang vẫn giữ nguyên Quyết định kháng nghị. Các đương
sự không thỏa thuận được với nhau về việc giải quyết vụ án.
Luật sư bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp cho nguyên đơn phát biểu quan
điểm đề nghị Hội đồng xét xử: Chấp nhận yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn,
xác định số gạo giao ngày 17/01/2023 là giao cho đơn hàng số 02, không chấp
nhận yêu cầu phản tố của bị đơn.
Ý kiến phát biểu của đại diện Viện kiểm sát tại phiên tòa phúc thẩm:
-Về tố tụng: Thẩm phán, Thư ký, Hội đồng xét xử đã tuân thủ theo đúng
quy định của pháp luật. Các đương sự cũng chấp hành theo đúng quy định của
pháp luật về việc thực hiện quyền và nghĩa vụ của các đương sự.
- Về nội dung vụ án và yêu cầu kháng cáo Công ty TNHH D2; yêu cầu
kháng cáo của Công ty TNHH W, Quyết định kháng nghị số 62/QĐ-VKS-
KDTM ngày 05/9/2024 của Viện kiểm sát nhân dân huyện Tân Phước. Đại diện
10
Viện kiểm sát phát biểu quan điểm giải quyết vụ án: Đề nghị Hội đồng xét xử áp
dụng khoản 2 Điều 308 Bộ luật tố tụng dân sự sửa toàn bộ Bản án sơ thẩm số
03/2024/KDTM-ST ngày 12/8/2024 của Tòa án nhân dân huyện Tân Phước theo
hướng chấp nhận kháng nghị của VKSND huyện Tân Phước và Công ty W,
không chấp nhận kháng cáo của Công ty D2.
Qua nghiên cứu toàn bộ các tài liệu, chứng cứ có trong hồ sơ vụ án được
thẩm tra tại phiên tòa, nội dung yêu cầu kháng cáo của Công ty TNHH D2; yêu
cầu kháng cáo của Công ty TNHH W, Quyết định kháng nghị số 62/QĐ-VKS-
KDTM ngày 05/9/2024 của Viện kiểm sát nhân dân huyện Tân Phước, lời trình
bày của các đương sự và kết quả tranh tụng tại phiên tòa phúc thẩm, ý kiến phát
biểu của đại diện Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Tiền Giang.
NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN:
[1] Về tố tụng: Về xác định quan hệ tranh chấp “Hợp đồng mua bán hàng
hóa” của Tòa án cấp sơ thẩm là phù hợp với yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn
theo quy định tại khoản 1 Điều 30 của Bộ luật Tố tụng dân sự. Đơn kháng cáo
của nguyên đơn Công ty TNHH D2; đơn kháng cáo của bị đơn Công ty TNHH
W trong thời hạn luật định, có hình thức, nội dung và phạm vi kháng cáo phù
hợp với quy định tại các Điều 271, 272, 273 của BLTTDS năm 2015 nên được
xem xét giải quyết theo trình tự phúc thẩm.
[2] Về nội dung vụ án: Giữa Công ty TNHH W (sau đây gọi tắt là (Công ty
W) và Công ty TNHH D2 (sau đây gọi tắt là Công ty D2) có ký hai hợp đồng
mua bán hàng hóa như sau: Hợp đồng số 01/HĐMB/WW-IFSS ngày 20/6/2022,
hiệu lực của hợp đồng từ ngày 20/6/2022 đến ngày 31/12/2022 (sau đây gọi tắt
là hợp đồng số 01) và Hợp đồng mua bán hàng hóa số 02/HĐMB/WW-IFSS,
hiệu lực hợp đồng từ ngày 03/01/2023 đến ngày 31/12/2023 (sau đây gọi tắt là
hợp đồng số 02). Theo hợp đồng đã ký, Công ty W đặt mua 02 đơn hàng của
Công ty D2 theo đơn đặt hàng số NL20220905-01, ngày 26/9/2022 (sau đây gọi
tắt là đơn đặt hàng số 01) và đơn đặt hàng số NL20220905-01, ngày 27/10/2022
(sau đây gọi là đơn đặt hàng số 02) về việc mua bán gạo Nhật. Đối với đơn đặt
hàng 01: Số lượng: 100 tấn; Thời gian giao hàng: Ngày 23/11/2022 giao 20 tấn,
ngày 01/12/2022 giao 20 tấn, ngày 08/12/2022 giao 20 tấn, ngày 14/12/2022
giao 20 tấn, ngày 18/12/2022 giao 20 tấn; Đơn giá: 13.950 đồng/kg; Tổng giá trị
đơn hàng: 1.395.000.000 đồng. Đối với đơn đặt hàng 02: Số lượng: 100 tấn;
Thời gian giao hàng như sau: ngày 10/01/2023 giao 20 tấn, ngày 17/01/2023
giao 20 tấn, ngày 08/02/2023 giao 20 tấn, ngày 15/02/2023 giao 20 tấn, ngày
22/02/2023 giao 20 tấn; Đơn giá: 15.735 đồng/kg; Tổng giá trị đơn hàng:
1.573.500.000 đồng.
11
Sau đó, Công ty D2 đã giao gạo cho Công ty W như sau: Ngày 10/11/2022
giao 20 tấn, Công ty W nhận gạo và đã thanh toán xong; Ngày 28/11/2022 giao
20 tấn nhưng Công ty W không đồng ý nhận vì không đạt chất lượng, Công ty
D2 đã nhận lại 20 tấn gạo này; Ngày 31/12/2022 giao 5 tấn gạo; Ngày
17/01/2023 giao 100 tấn gạo, 01 bao bị rách nên bị trả lại 50 kg nên còn lại là
99.950 kg.
Theo Công ty D2 thì 5 tấn gạo giao cho đơn hàng số 01, 99.950 kg gạo
giao cho đơn hàng thứ 2, tổng số tiền phải thanh toán là 1.638.965.000 đồng, tuy
nhiên đến ngày 27/4/2023 Công ty W chỉ thanh toán 1.410.715.000 đồng nên
Công ty D2 yêu cầu Công ty W trả tiền thanh toán thiếu là 284.567.685 đồng và
tiền lãi chậm thanh toán là 111.138.900 đồng. Đối với yêu cầu phản tố của Công
ty W thì Công ty D2 chỉ đồng ý trả số tiền phạt vi phạm hợp đồng là 83.762.800
đồng. Công ty D2 căn cứ vào nội dung mail ngày 04/01/2023 trao đổi giữa T1
của Công ty W và T2 của Công ty D2 cho rằng việc giao 99.950 kg gạo vào
ngày 17/01/2023 cho đơn hàng thứ hai.
Theo Công ty W thì 5 tấn gạo giao cho đơn hàng 1, còn 99.950 kg gạo giao
cho đơn hàng 01 là 75.000 kg, còn lại 24.950 kg thì giao cho đơn hàng thứ 2.
Công ty W đã thanh toán 1.392.200.000 đồng cho đơn hàng 01 và 297.515.000
đồng cho đơn hàng thứ 2. Đối với số gạo 24.950kg tương ứng giá trị
391.715.000 đồng nhưng Công ty W căn cứ vào mục 11.2 của Hợp đồng mua
bán hàng hóa số 01 để phạt vi phạm hợp đồng đối với Công ty D2 về số gạo
giao bị thiếu là 94.200.000 đồng nên công ty W chỉ thanh toán 297.515.000
đồng. Do đó Công Want Want đã thanh toán xong cho Công ty D2. Do Công ty
D2 giao thiếu 75.050 kg gạo nên Công ty W phải mua gạo nơi khác giá cao hơn
so với thỏa thuận mua của Công ty D2, Công ty W phản tố yêu cầu Công ty D2
bồi thường 99.700.000 đồng và trả tiền phạt vi phạm hợp đồng là 94.262.800
đồng. Công ty W không đồng ý nội dung mail ngày 04/01/2023 trao đổi giữa bà
T1 của Công ty W và bà T2 của Công ty D2 cho rằng việc giao 99.950 kg gạo
vào ngày 17/01/2023 cho đơn hàng thứ hai vì căn cứ vào mục 2.5 mục II của
Hợp đồng số 01.
Tòa sơ thẩm xử, chấp nhận yêu cầu khởi kiện của Công ty D2: Buộc Công
ty W trả cho Công ty D2 số tiền chậm thanh toán là 228.250.000 đồng và tiền lãi
chậm thanh toán là 111.138.900 đồng, tổng cộng là 339.388.900 đồng. Chấp
nhận một phần yêu cầu phản tố của Công ty W: Buộc Công ty D2 trả cho Công
ty W số tiền phạt vi phạm hợp đồng là 83.762.800 đồng và tiền bồi thường thiệt
hại là 97.073.250 đồng, tổng cộng là 180.863.050 đồng.
12
Sau khi Tòa sơ thẩm xử, Công ty D2, Công ty W không đồng ý nên có đơn
kháng cáo, Viện kiểm sát nhân dân huyện Tân Phước có quyết định kháng nghị.
[3] Xét số gạo 99.950 kg gạo giao ngày 17/01/2023 cho đơn hàng số 01
hay đơn hàng số 2:
Tại phiên tòa phúc thẩm giữa nguyên đơn và bị đơn thống nhất đơn hàng
số 01 và đơn hàng số 02 đều ký trong năm 2022 là căn cứ vào Hợp đồng số 01.
Công ty D2 căn cứ vào nội dung mail ngày 04/01/2023 để xác định số gạo
99.950 kg gạo giao ngày 17/01/2023 cho đơn hàng số 01 còn Công ty W căn cứ
Hợp đồng số 01 để xác định số gạo 99.950 kg gạo giao ngày 17/01/2023 cho
đơn hàng số 2.
Nhận thấy tại mục 2.5 phần II Hợp đồng số 01 quy định “Bên B (Công ty
D2) không được thay đổi thông tin liên quan của hàng hóa, bao gồm tên hàng
hóa, quy cách, đơn giá…Nếu có thay đổi, phải thông cho bên A (Công ty W)
bằng văn bản trước 7 ngày và phải được bên A đồng ý”.
Xét thấy, mail ngày 04/01/2023 (Bút lục số 176) là nội dung trao đổi
thông tin giữa bà Lê Thị T1 (là nhân viên thu mua công ty W) phản hồi cho bà
T2 (là nhân viên thu mua của Công ty D2) không phải là văn bản do người đại
diện theo pháp luật của hai Công ty trao đổi với nhau, bà T2 và bà T1 cũng
không được hai công ty ủy quyền làm việc về việc mua bán của hai công ty nên
không thể xác định là văn bản theo quy định tại mục 2.5 phần II Hợp đồng số
01. Ngoài ra, theo đơn hàng số 01, số lần giao hàng là 5 lần, mỗi lần 20 tấn, thời
hạn giao hàng là từ ngày 23/11/2022 đến ngày 18/12/2022; Theo đơn hàng số
02, số lần giao hàng là 5 lần, mỗi lần 20 tấn, thời hạn giao hàng là từ ngày
10/01/2023 đến ngày 22/02/2023 nhưng đến ngày 31/12/2022 Công ty D2 chỉ
mới giao cho Công ty W 25 tấn, còn nợ lại 75 tấn, đến ngày 17/01/2023 công ty
D2 giao 99.950 kg gạo cho Công ty W là chưa đến thời hạn giao hàng 3 lần còn
lại của đơn hàng số 2 theo thỏa thuận của hai bên, sau đó Công ty D2 cũng
không tiếp hàng cho Công ty W. Do đó, có căn cứ xác định số gạo 99.950 kg
gạo giao ngày 17/01/2023 cho đơn hàng số 1 đối với số hàng còn thiếu là 75.000
kg, còn lại 24.950 kg là giao cho đơn hàng số 2. Tòa sơ thẩm căn cứ vào nội
dung mail nêu trên để xác định toàn bộ số gạo 99.950 kg gạo giao ngày
17/01/2023 cho đơn hàng số 2 là không phù hợp với các chứng cứ có trong hồ
sơ vụ án.
Do không xác định nội dung mail nêu trên là văn bản theo quy định
trong hợp đồng nên nội dung theo đổi giảm giá từ 15.735 đồng/kg xuống còn
15.700 đồng/kg cũng không đúng mà giá của đơn hàng thứ nhất và đơn hàng thứ
13
2 phải theo giá thỏa thuận tại đơn đặt hàng số 01 và đơn đặt hàng số 2. Tuy
nhiên do phía Công ty D2 đồng ý giảm giá cho Công ty W đối với số gạo giao
cho đơn hàng số 2 số tiền là 35 đồng/kg nên Hội đồng xét xử ghi nhận.
Như vậy, số tiền mà Công ty W phải có nghĩa vụ thanh toán đối với số
gạo 99.950 kg giao ngày 17/01/2023 như sau:
75.000 kg x 13.950 đồng/kg = 1.046.250.000 đồng.
24.950 x 15.700 đồng/kg = 391.715.000.
Tổng cộng 1.437.965.000 đồng
[4] Đối với số gạo 5000 kg giao ngày 31/12/2022 Công ty D2 xuất hóa
đơn 13.950 đồng/kg là đúng với thỏa thuận của hai bên, Công ty W cho rằng
Công ty D2 phải xuất hóa đơn 13.915 đồng/kg là không đúng nên không có căn
cứ để chấp nhận. Do đó số tiền phải thanh toán cho 5000 kg gạo là 69.750.000
đồng
[5] Như vậy số tiền hàng phải thanh toán cho 5000 kg gạo giao ngày
31/12/2022 và số tiền hàng phải thanh toán cho 99.950 kg gạo giao ngày
17/01/2023 là 1.507.715.000 đồng nhưng Công ty W chỉ thanh toán cho Công ty
D2 số tiền là 1.410.715.000 đồng, vậy Công ty W còn phải thanh toán cho Công
ty D2 số tiền là 97.000.000 đồng.
[6] Xét tiền lãi chậm chậm thanh toán đối với số gạo 5000 kg giao ngày
31/12/2022, Công ty D2 xuất hóa đơn ngày 31/12/2022 với đơn giá 13.950
đồng/kg, thành tiền là 69.750.000 đồng là đúng với thỏa thuận giữa hai bên.
Theo quy định tại điểm 7.2 mục VII của Hợp đồng số 01 Bên A (Công ty W)
thanh toán tiền hàng trong vòng 30 ngày kể từ ngày nhận hàng tại kho Want
Want với kết quả nghiệm thu hàng hóa đạt yêu cầu. Căn cứ theo điểm 11.4 mục
số XI của Hợp đồng số 01 thì lãi chậm trả của Công ty W phải chịu là 0,05%
cho một ngày. Như vậy, kể từ ngày 31/12/2022 đến ngày 31/01/2023 Công ty W
phải thanh toán cho Công ty D2 số tiền 69.750.000 đồng nhưng đến ngày
27/4/2023 Công ty W mới thanh toán cho Công ty D2 số tiền 1.410.715.000
đồng (trong đó có số tiền 69.750.000 đồng). Do đó phải trừ thời gian 30 ngày
cho phía Công ty W., vậy thời gian tính tiền lãi chậm thanh toán từ ngày
31/01/2022 đến ngày 27/4/2023 là: 69.750.000 đồng x 86 ngày x 0,05% =
2.999.250 đồng.
Số tiền còn lại 1.340.965.000 đồng sẽ được thanh toán cho số hàng giao
ngày 17/01/2023.
14
Xét số tiền lãi chậm thanh toán cho số gạo giao ngày 17/01/2023 cũng
tương tự như cách tính nêu trên, số tiền lãi sẽ được tính từ ngày 17/02/2023 đến
ngày 27/4/2023 là: 1.340.965.000 đồng x 69 ngày x 0,05% = 46.263.292 đồng.
Xét số tiền lãi đối với số tiền 97.000.000 đồng, tính từ ngày 17/02/2023
cho đến ngày xét xử sơ thẩm ngày 12/8/2024 là 542 ngày là 97.000.000 đồng x
542 ngày x 0,05% = 26.287.000 đồng.
Như vậy số tổng số tiền lãi Công ty W phải có nghĩa vụ thanh toán cho
Công ty D2 là: 75.549.542 đồng.
[8] Xét yêu cầu phạt vi phạm hợp đồng của Công ty W:
Căn cứ theo mục 11.2 phần thứ XI của Hợp đồng số 01 quy định: “Nếu
bên B giao hàng không đúng thời hạn theo yêu cầu của bên A hoặc đơn đặt
hàng đã được thỏa thuận bởi hai bên. Bên B sẽ thanh toán cho bên A khoản tiền
phạt là 0,5% giá trị đơn hàng bị vi phạm cho mỗi ngày chậm trễ, tổng giá trị
phạt không quá 08% giá trị đơn hàng bị vi phạm. Nếu trễ quá 7 ngày, bên A có
quyền hủy đơn đặt hàng và yêu cầu bồi thường thiệt hại theo quy định pháp luật
hoặc theo thỏa thuận và thống nhất của hai bên”
Đối với đơn hàng 1, căn cứ ngày giao hàng theo đơn đặt hàng là ngày
01/12/2022 vậy đối với 5000 kg giao ngày 31/12/2022 thì giao trễ 30 ngày 5000
kg và 15.000 kg giao trễ 47 ngày, tỉ lệ phạt theo hợp đồng là 8%, đơn giá là
13.950 đồng/kg, tiền phạt là 22.320.000 đồng.
Các ngày giao hàng trên đơn đặt hàng còn lại là ngày 08/12/2022 giao 20
tấn, ngày 14/12/2022 giao 20 tấn, ngày 18/12/2022 giao 20 tấn nhưng đến ngày
17/01/2023 Công ty D2 mới giao hàng nên đã giao trễ so với các ngày giao hàng
đã thỏa thuận nêu trên là 40 ngày, 34 ngày và 30 ngày, với cách tính tỉ lệ phạt
như đã nêu trên thì số tiền đơn đặt hàng bị vi phạm là 1.276.000.000, tỉ lệ phạt
8% là 89.280.000 đồng.
Đối với đơn đặt hàng số 2 các ngày giao hàng là 10/01/2023, ngày
17/01/2023, ngày 08/02/2023, ngày 15/02/2023, ngày 22/02/2023 nhưng Công
ty D2 chỉ giao cho Công ty W 24.950 kg vào ngày 17/01/2023, vậy lần đầu
Công ty D2 giao trễ 6 ngày, số hàng còn lại 75.050 kg chưa giao cho Công ty W.
Do hai bên thống nhất giá giao hàng lần hai là 15.700 đồng/kg nên số tiền đơn
đặt hàng bị vi phạm. Nhận thấy, đối với số hàng giao ngày 10/01/2023 giao trễ 6
ngày nên tính 0,5% trên số ngày bị vi phạm đồng, tiền phạt là 9.429.000 đồng.
Đối với số hàng còn lại 75.050 kg chưa giao tính 8%, tiền phạt là 94.262.800
đồng.
Tổng cộng tiền phạt là 192.971.800 đồng.
15
[9] Xét yêu cầu bồi thường thiệt hại của Công ty W:
Căn cứ tại mục 12.1.5 phần XII của Hợp đồng số 01 quy định: “Bên B
(Công ty D2) xảy ra các trường hợp quy định hợp đồng này Bên A (Công ty W)
có quyền hủy bỏ hoặc chấm dứt hợp đồng”. Tại phiên tòa phúc thẩm, anh T là
người đại diện theo ủy quyền của Công ty W trình bày Công ty W không có hủy
bỏ hoặc chấm dứt hợp đồng với công ty D2.
Căn cứ vào mục 11.2 và mục 12.1.5 nêu trên thì bên Công ty D2 giao
hàng trễ thì Công ty W có quyền hủy bỏ hoặc chấm dứt hợp đồng với Công ty
D2 thì mới có quyền yêu cầu Công ty D2 bồi thường thiệt hại, tuy nhiên Công ty
W không có hủy bỏ hợp đồng với Công ty D2 nên việc Công ty W yêu cầu Công
ty D2 bồi thường số tiền 99.073.000 đồng là không có cơ sở để chấp nhận.
[10] Xét yêu cầu kháng cáo của Công ty D2: Công ty D2 kháng cáo
không đồng ý bồi thường thiệt hại cho Công ty W là có căn cứ pháp luật như đã
nhận định nêu trên nên Hội đồng xét xử chấp nhận yêu cầu kháng cáo của Công
ty D2.
[11] Xét bốn yêu cầu kháng cáo của Công ty W:
11.1 Công ty W cho rằng Tòa sơ thẩm xác định số lượng gạo 99,95 tấn
giao ngày 17/01/2023 là giao cho đơn hàng số 2 và áp dụng đơn giá của đơn
hàng số 2 là không đúng:
Như đã phân tích tại mục số [3] nêu trên nên Hội đồng xét xử chấp nhận
phần yêu cầu kháng cáo này của Công ty W.
11.2 Công ty W kháng cáo cho rằng Tòa sơ thẩm buộc Công ty W
thanh toán tiền hàng 228.250.000 đồng là không có căn cứ:
Như đã phân tích tại mục [5] Công ty W phải có nghĩa vụ thanh toán cho
Công ty D2 số tiền mua hàng là 97.000.000 đồng. Như vậy Hội đồng xét xử
chấp nhận một phần yêu cầu kháng cáo này của Công ty W.
11.3 Công ty W kháng cáo cho rằng Tòa sơ thẩm buộc Công ty W thanh
toán tiền lãi 111.138.900 là không có căn cứ:
Như đã phân tích tại mục [6] tổng số tiền lãi Công ty W phải có nghĩa vụ
thanh toán cho Công ty D2 là: 75.549.542 đồng nên Hội đồng xét xử chấp nhận
một phần yêu cầu kháng cáo này của Công ty W.
11.4 Công ty W kháng cáo về việc phạt vi phạm hợp đồng: Công ty W
yêu cầu Công ty D2 trả số tiền phạt hợp đồng là 193.193.940 đồng:
16
Như đã phân tích tại mục [8] Công ty D2 có nghĩa vụ trả cho Công ty W
số tiền phạt tổng cộng là 192.971.800 đồng. Do đó Hội đồng xét xử chấp nhận
một phần yêu cầu kháng cáo này của Công ty W.
11.4 Công ty W kháng cáo đối với yêu cầu bồi thường thiệt hại số tiền là
97.073.250 đồng:
Như đã phân tích tại mục [9] nhận thấy Công ty W yêu cầu Công ty D2
bồi thường số tiền 99.073.250 đồng là không có cơ sở để chấp nhận nên Hội
đồng xét xử không chấp nhận yêu cầu kháng cáo này của Công ty W.
[12] Từ những nhận định trên, xét thấy Tòa án cấp sơ thẩm xử: Chấp
nhận yêu cầu khởi kiện của Công ty TNHH D2 - IFSS: Buộc Công ty TNHH W
phải thanh toán cho Công ty TNHH D2 - IFSS số tiền là 339.388.900 đồng.
Trong đó, tiền hàng chưa thanh toán là 228.250.000 đồng, tiền lãi chậm thanh
toán là 111.138.900 đồng. Chấp nhận một phần yêu cầu phản tố của Công ty
TNHH W: Buộc Công ty TNHH D2 - IFSS thanh toán cho Công ty TNHH W
tổng số tiền là: 180.836.050 đồng. Trong đó, tiền phạt vi phạm hợp đồng là
83.762.800 đồng, tiền bồi thường thiệt hại là 97.073.250 đồng. Không chấp nhận
yêu cầu phản tố của Công ty TNHH W về việc Công ty TNHH W yêu cầu Công
ty TNHH D2 - IFSS thanh toán khoản tiền phạt do vi phạm hợp đồng với số tiền
109.431.140 đồng (193.193.940 đồng – 83.762.800 đồng = 109.431.140 đồng)
là không phù hợp với các chứng cứ có trong hồ sơ vụ án. Do đó Hội đồng xét xử
sửa án sơ thẩm như đã phân tích nêu trên.
[13] Xét đề nghị của Luật sư bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp cho
Công ty D2 là không phù hợp với nhận định nêu trên nên không được Hội đồng
xét xử chấp nhận.
[14] Xét Quyết định kháng nghị của Viện kiểm sát nhân dân huyện Tân
Phước và đề nghị của đại diện Viện kiểm sát tại phiên tòa phúc thẩm là phù hợp
với một phần nhận định nêu trên nên Hội đồng xét xử chấp nhận một phần đề
nghị của đại diện Viện kiểm sát.
[15] Về án phí kinh doanh thương mại sơ thẩm:
15.1 Công ty IFSS phải chịu án phí đối với số tiền hàng và tiền lãi yêu
cầu Công ty W phải trả không được chấp nhận là: 166.839.350 nên Công ty D2
phải chịu án phí đối với yêu cầu bị bác là 8.341.967 đồng.

17
Đối với số tiền phạt Công ty D2 phải trả cho Công ty W là 192.971.800
đồng nên Công ty D2 phải chịu án phí đối với phần này là: 9.648.590 đồng.
Tổng cộng Công ty D2 phải chịu án phí là: 17.990.557 đồng.
15.2 Công ty W có nghĩa vụ trả cho Công ty IFSS các khoản như sau:
Số tiền hàng: 97.000.000 đồng; Số tiền lãi 75.549.542 đồng; Tổng cộng
172.549.542 đồng nên án phí phải chịc đối với phần này là 8.627.477 đồng.
Phần yêu cầu bồi thường Công ty W không được chấp nhận là: là
97.295.390 đồng nên phải chịu án phí đối với phần này là 4.864.769 đồng.
Tổng cộng án phí Công ty W phải chịu là: 13.492.264 đồng.
Do sửa án sơ thẩm nên các đương sự không phải chịu án phí phúc thẩm.
Vì các lẽ trên,
QUYẾT ĐỊNH
Căn cứ vào Điều 293, khoản 2 Điều 308, Điều 309, Điều 313, và khoản 2
Điều 148 của Bộ luật tố tụng dân sự;
- Chấp nhận một phần Quyết định Kháng nghị 62/QĐ-VKS-KDTM ngày
05/9/2024 của Viện kiểm sát nhân dân huyện Tân Phước.
- Chấp nhận yêu cầu kháng cáo của Công ty TNHH D2 - IFSS.
- Chấp nhận một phần yêu cầu kháng cáo của Công ty TNHH W
- Sửa Bản án kinh doanh thương mại sơ thẩm số 03/2024/KDTM-ST ngày
12 tháng 8 năm 2024 của Toà án nhân dân huyện Tân Phước, tỉnh Tiền Giang.
Căn cứ các Điều 34, 300, 301, 302, 303, 304, 305 và 306 của Luật thương
mại 2005;
Căn cứ khoản 2 và khoản 5 Điều 26 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14
ngày 30 tháng 12 năm 2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội quy định về mức
thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án;
Xử:
1. Chấp nhận một phần yêu cầu khởi kiện của Công ty TNHH D2 -
IFSS.
- Buộc Công ty TNHH W phải thanh toán cho Công ty TNHH D2 -
IFSS số tiền hàng chưa thanh toán là 97.000.000 đồng,
- Buộc Công ty TNHH W trả tiền lãi chậm thanh toán cho Công ty
TNHH D2 - IFSS số tiền là 75.549.542 đồng.
18
Tổng cộng Công ty TNHH W trả cho Công ty TNHH D2 - IFSS số tiền
là: 172.549.542 đồng.
2. Chấp nhận một phần yêu cầu phản tố của Công ty TNHH W.
Buộc Công ty TNHH D2 - IFSS trả số tiền phạt vi phạm hợp đồng cho
Công ty TNHH W số tiền là: 192.971.800 đồng.
3. Không chấp nhận yêu cầu phản tố của Công ty TNHH W yêu cầu
Công ty TNHH D2 - IFSS trả số bồi thường thiệt hại là 99.700.000 đồng.
4. Kể từ ngày có đơn yêu cầu thi hành án của người được thi hành án đối
với các khoản tiền phải trả cho người được thi hành án cho đến khi thi hành án
xong, tất cả các khoản tiền, hàng tháng bên phải thi hành án còn phải chịu khoản
tiền lãi của số tiền còn phải thi hành án theo mức lãi suất quy định tại khoản 2
Điều 468 Bộ luật dân sự.
5. Về án phí:
Công ty D2 - IFSS phải chịu án phí kinh doanh thương mại sơ thẩm là
17.990.557 đồng được trừ vào số tiền tạm ứng án phí 7.676.000 đồng theo biên
lai thu số 0003031 ngày 08/11/2023 và 2.000.000 đồng theo biên lai thu số
0003526 ngày 27/8/2024 của Chi cục thi hành án dân sự huyện Tân Phước nên
còn phải nộp tiếp số tiền là 8.314.557 đồng.
Công ty TNHH W phải chịu án phí kinh doanh thương mại sơ thẩm là
13.492.264 đồng được trừ vào số tiền tạm ứng án phí 2.494.070 theo biên lai thu
số 0003146 ngày 15/01/2024; 300.000 đồng theo biên lai thu số 0003523 ngày
26/8/2024; 1.700.000 đồng theo biên lai thu số 0003527 ngày 30/8/2024 của Chi
cục thi hành án dân sự huyện Tân Phước nên còn phải nộp tiếp số tiền là
8.998.194 đồng.
Trong trường hợp bản án được thi hành theo điều 2 Luật thi hành án dân
sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền
yêu cầu thi hành án, có quyền thỏa thuận thi hành án, tự nguyện thi hành án
hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo điều 6,7 và 9 Luật thi hành án dân sự; thời
hiệu thi hành án được thực hiện theo điều 30 Luật thi hành án dân sự.
Bản án phúc thẩm có hiệu lực pháp luật kể từ ngày tuyên án.
19
Nơi nhận:
- TAND cấp cao tại TP.HCM;
- VKSND tỉnh Tiền Giang;
- TAND huyện Tân Phước, tỉnh Tiền Giang;
- Chi cục THADS huyện Tân Phước, Tiền Giang;
- Các đương sự;
- Lưu hồ sơ vụ án.
TM. HỘI ĐỒNG XÉT XỬ PHÚC THẨM
THẨM PHÁN – CHỦ TỌA PHIÊN TÒA
Nguyễn Ái Đoan
20
Tải về
Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để tải file. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!
Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để tải file. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!
Bản án/ Quyết định cùng đối tượng
1
Ban hành: 18/03/2025
Cấp xét xử: Phúc thẩm
2
Ban hành: 17/03/2025
Cấp xét xử: Phúc thẩm
3
Ban hành: 13/03/2025
Cấp xét xử: Phúc thẩm
4
Ban hành: 11/03/2025
Cấp xét xử: Phúc thẩm
5
Ban hành: 07/03/2025
Cấp xét xử: Phúc thẩm
6
Bản án số 19/2025/KDTM-PT ngày 06/03/2025 của TAND tỉnh Bình Dương về tranh chấp về mua bán hàng hóa
Ban hành: 06/03/2025
Cấp xét xử: Phúc thẩm
7
Ban hành: 04/03/2025
Cấp xét xử: Phúc thẩm
8
Ban hành: 04/03/2025
Cấp xét xử: Phúc thẩm
9
Ban hành: 28/02/2025
Cấp xét xử: Phúc thẩm
10
Ban hành: 27/02/2025
Cấp xét xử: Phúc thẩm
11
Ban hành: 24/02/2025
Cấp xét xử: Phúc thẩm
12
Ban hành: 24/02/2025
Cấp xét xử: Phúc thẩm
13
Ban hành: 24/02/2025
Cấp xét xử: Phúc thẩm
14
Ban hành: 21/02/2025
Cấp xét xử: Phúc thẩm
15
Ban hành: 20/02/2025
Cấp xét xử: Phúc thẩm
16
Ban hành: 12/02/2025
Cấp xét xử: Phúc thẩm
17
Ban hành: 11/02/2025
Cấp xét xử: Phúc thẩm
18
Ban hành: 06/02/2025
Cấp xét xử: Phúc thẩm
19
Ban hành: 20/01/2025
Cấp xét xử: Phúc thẩm