Bản án số 03/2025/HC-PT ngày 18/04/2025 của TAND tỉnh Đồng Nai

  • Thuộc tính
  • Nội dung
  • VB gốc
  • VB liên quan
  • Lược đồ
  • Đính chính
  • Án lệ
  • BA/QĐ cùng nội dung
  • Tải về
Tải văn bản
Báo lỗi
  • Gửi liên kết tới Email
  • Chia sẻ:
  • Chế độ xem: Sáng | Tối
  • Thay đổi cỡ chữ:
    17

Thuộc tính Bản án 03/2025/HC-PT

Tên Bản án: Bản án số 03/2025/HC-PT ngày 18/04/2025 của TAND tỉnh Đồng Nai
Quan hệ pháp luật:
Cấp xét xử: Phúc thẩm
Tòa án xét xử: TAND tỉnh Đồng Nai
Số hiệu: 03/2025/HC-PT
Loại văn bản: Bản án
Ngày ban hành: 18/04/2025
Lĩnh vực: Hành chính
Áp dụng án lệ:
Đã biết

Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để xem áp dụng án lệ. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!

Đính chính:
Đã biết

Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để xem đính chính. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!

Thông tin về vụ án: Kết quả xét xử phúc thẩm khiếu kiện hành vi hành chính của ông Trần Minh T
Tóm tắt Bản án

Nội dung tóm tắt đang được cập nhật, Quý khách vui lòng quay lại sau!

Tải văn bản

1
TÒA ÁN NHÂN DÂN
TỈNH ĐỒNG NAI
Bản án số: 03/2025/HC-PT
Ngày: 18-4-2025
V khiếu kiện hành vi hành chính
về quản lý đất đai.
CỘNG HÒA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM
Độc lập Tự do – Hạnh phúc
NHÂN DANH
NƯỚC CỘNG HÒA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM
TÒA ÁN NN DÂN TỈNH ĐỒNG NAI
- Thành phần Hội đồng xét xử phúc thẩm gồm có:
Thẩm phán – Chủ tọa phiên tòa: Ông Nguyễn Trung Hưng
Các Thẩm phán: Ông Ngô Thanh Sỹ
Ông Đỗ Minh Nhựt
- Thư phiên tòa: Bà Võ Thị Ngọc Linh Thư ký Tòa án nhân dân tỉnh
Đồng Nai.
- Đại diện Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Đồng Nai: Ông Trần Đình Phi
Long - Kiểm sát viên tham gia phiên tòa.
Ngày 18 tháng 4 năm 2025, tại trụ sở Tòa án nhân dân tỉnh Đồng Nai xét
xử phúc thẩm công khai vụ án thụ số 01/2025/TLPT-HC ngày 10 tháng 02
năm 2025 về Khiếu kiện hành vi hành chính về quản lý đất đai”.
Do bản án hành chính thẩm số 03/2024/HC-ST ngày 26 tháng 9 năm
2024 của Tòa án nhân dân thành phố Biên Hòa bị kháng cáo.
Theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử phúc thẩm số 06/2025/QĐHC-PT
ngày 21 tháng 3 năm 2025, giữa các đương sự:
1. Người khởi kiện: Ông Trần Minh T, sinh năm 1974.
Địa chỉ: Tổ A, khu phố B, phường L, thành phố H, tnh Đồng Nai.
Người đại diện hợp pháp của người khởi kiện: Ông Trần Trung N, sinh
năm 2000.
Địa chỉ: Khu phố 3A, phường T, thành phố H, tỉnh Đồng Nai (Theo văn
bản ủy quyền ngày 16/7/2024) có mặt.
Người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của ngưởi khởi kiện: Bà Mai Th
Kim S Luật sư Công ty Luật S, thuộc Đoàn Luật sư tỉnh Đồng Nai – vắng mặt.
2. Người bị kiện: Chủ tịch Ủy ban nhân dân phường L.
Địa chỉ: Khu phA, phường L, thành phố H, tnh Đồng Nai.
2
Người đại diện theo ủy quyền của người bị kiện: Ông Trần Văn T1 Phó
Chủ tịch Ủy ban nhân dân phường L (Theo văn bản ủy quyền ngày 22/02/2024
và ngày 14/11/2024) vắng mặt.
3. Người quyền lợi, nghĩa vụ liên quan: Ông Phạm Tuấn A, sinh năm
1958.
Địa chỉ: Khu phC, phường L, thành phố H, tỉnh Đồng Nai mặt.
NỘI DUNG VỤ ÁN:
Theo nội dung án sơ thẩm:
* Theo đơn khởi kiện, bản tkhai trong quá trình giải quyết vụ án,
người đại diện hợp pháp của người khởi kiện trình bày:
Vào cuối năm 2021, ông Trn Minh T mua ca Trn Th H mt
mảnh đất và căn nhà cấp 4 din tích 48m
2
, to lc khu ph C, phường L,
thành ph H, tỉnh Đồng Nai vi giá chuyển nhượng là 900.000.000 đồng.
V ngun gốc đất: Diện tích đt này là toàn b thửa đất s 109, t bản đồ
s 116 do H đng tên trên giy Biên nhn h đăng s 4497/BNHS-
VPĐK cấp bởi Văn phòng Đăng Đất đai tỉnh Đồng Nai - Chi nhánh Biên
Hoà ngày 02 tháng 12 năm 2014.
đất nhà H bán cho ông T chưa đưc cp giy chng nhn quyn
s dụng đất nên ông T và bà H thng nht tm thi ký Hợp đồng chuyển nhượng
quyn s dụng đất tài sn gn lin với đất cho ông T bng vic chuyn
nhưng giấy tay (có Văn phòng luật S chi nhánh s 1 son tho). Sau khi
H được cp giy chng nhn quyn s dụng đất tông T H đến Văn
phòng công chứng để hợp đồng chuyển nhượng sang tên cho ông T theo
đúng quy định ca pháp lut.
Sau đó, các bên thỏa thuận đ ông T đi làm thủ tục đăng quyền s
dụng đt theo Biên nhn h đăng s 4497/BNHS-VPĐK cấp bởi Văn
phòng Đăng Đất đai tỉnh Đồng Nai - Chi nhánh Biên Hoà ngày 02 tháng 12
năm 2014 mang tên Trần Th H. Do đó, ngày 09 tháng 12 năm 2021, bà
Hương Hợp đng y quyn cho ông T theo Hợp đồng y quyn s 005020,
Quyn s 01/2021 TP/CC-SCC/HĐGD lập ngày 09 tháng 12 năm 2021 tại Văn
phòng Công chứng N, để ông T làm th tc cp giy chng nhn quyn s dng
đất đối vi thửa đất trên.
Cùng ngày ký hợp đồng y quyn cho ông T, các bên tha thun cho bà H
thuê lại căn nhà đất nêu trên k t ngày 12 tháng 11 năm 2021 đến hết ngày
12 tháng 5 năm 2022 với giá thuê 2.500.000 đng/tháng lp biên bn
tha thun cam kết nhng ni dung trên.
Ngày 15 tháng 05 năm 2022, ông T biết được ông Phm Tuấn A đã vây
tôn, rào khung ca sắt quanh trước nhà, ngăn căn nhà ra làm nhà đ xe, không
cho ông Tiếu vào.
Ngày 22 tháng 05 năm 2023, ông Tiếu đã làm đơn đề ngh y ban nhân
3
dân phường L t chc hòa gii vi ông Phm Tun A v vic tranh chp quyn
s dụng đất căn nhà trên đất đối vi thửa đt s 109, t 116, ta lc ti
phưng L, thành ph H, tỉnh Đồng Nai nhưng không được chp thun bi do
không có đủ sở để t chc hòa giải. Ông T không đồng ý vi ni dung tr li
trên ca Ủy ban nhân dân phường L bi các lý do sau:
Ủy ban nhân dân phưng L không tiến hành xác minh được vi bà Trn
Th H, ch tiến hành xác minh ngun gốc đất t mt phía ông Phm Tun A
căn cứ vào người đang quản ông Tun A để không chp nhn yêu cu ca
ông T là phiến din, không khách quan;
Ông Tuấn A không giấy tờ chứng minh quyền sử dụng, sở hữu đối
với tài sản đang quản lý; căn nhà đã có tranh chấp từ trước, đã bị lập biên bản về
việc xây dựng trái phép nhưng Ủy ban nhân dân phường L vẫn để ông Tuấn A
tiếp tục xây dựng, quản , sử dụng để từ đó cho rằng ông T không chứng minh
được việc quản lý, sử dụng đất ổn định là không đúng;
Theo quy định tại Điều 88 Nghị định số 43/2014/NĐ-CP ngày 15 tháng 5
năm 2014 của Chính phủ về việc quy định chi tiết một số điều, khoản của Luật
Đất đai thể hiện Ủy ban nhân dân phường L không quyn ra quyết định hay
phán quyết liên quan đến tranh chấp đất đai, cũng như xác định sở hay
không s đ t chc hòa gii. thế, th thy rng phm vi gii quyết
tranh chấp đất đai của y ban nhân dân cp ch yếu khâu hòa gii, bao
gm t khâu tiếp nhn h đến kết thúc hòa gii k c hòa gii thành hoc
không thành. Vic hòa gii thông qua y ban nhân dân cấp liên quan đến
tranh chấp đất đai đưc xem mt khâu bt buc trong gii quyết tranh chp
theo pháp lut hin hành. Kết qu hòa gii ca y ban nhân dân cấp xã sở
tiếp nhn, x vic tranh chấp đất đai nhng cấp cao hơn. Bên cạnh đó, y
ban nhân dân cp xã không có quyn ra quyết định hay phán quyết liên quan đến
tranh chấp đất đai.
T nhng ni dung nêu trên, ông T nhn thy, vic y ban nhân dân
phưng L tr li v vic không tiến hành hòa gii tranh chp gia ông T ông
Phm Tuấn A không đúng. Ủy ban nhân dân phường L c ý bao che, bo v
quyn li cho ông Phm Tuấn A không căn c quy định ca pháp lut, làm
ảnh hưởng nghiêm trọng đến quyn và li ích hp pháp ca ông T.
Sau khi nhận được văn bn tr li ca Ủy ban nhân dân phường L, ông T
đã làm đơn khiếu nại đến y ban nhân dân phường L đối với Văn bản s
382/UBND ca y ban v vic tr lời đơn yêu cầu hòa gii tranh chấp đất đai
ca ông T. Tuy nhiên Ủy ban nhân dân phưng L không gii quyết yêu cu
khiếu ni ca ông T.
Do đó, ông Trần Minh T làm đơn khởi kiện đối vi hành vi không hòa
gii ca Ủy ban nhân dân phưng L, thành ph Biên Hòa trái quy đnh ca
pháp lut yêu cu Tòa án nhân dân thành ph Biên Hòa gii quyết buc y
ban nhân dân phưng L t chc hòa gii gia ông Trn Minh T vi ông Phm
Tun A v vic tranh chấp đối vi thửa đất s 109, t bản đồ s 116, ta lc ti
4
khu ph C, phường L, thành ph H, tỉnh Đồng Nai.
* Theo văn bản tnh bày ý kiến, người đại diện theo y quyền bị đơn
trìnhy:
Ngày 25 tháng 5 năm 2023, Ủy ban nhân dân phường L tiếp nhận đơn
đề nghị hòa giải tranh chấp đất đai tài sản trên đất của ông Trần Minh T, ngụ
tại khu phố B, phường L, thành phố H, tỉnh Đồng Nai, đơn ngày 22 tháng 5
năm 2023.
Nội dung đơn: Ông Trần Minh T yêu cầu Ủy ban nhân n phường L tổ
chức hòa giải tranh chấp đòi lại nhà quyền sử dụng đất đối với ông Phạm
Tuấn A, ngụ ti khu phố C, pờng L, thành phố H liên quan đến thửa đất số 109,
tờ bản đồ số 116, tọa lạc tại khu phố C, phường L. Đã được cấp Biên nhận hồ
đăng số 4497/BNHS-VPĐK cho Trần Thị H ngày 02 tháng 12 năm 2014.
Sau khi xem xét hồ liên quan gửi kèm theo đơn của ông Trần Minh
Tiếu, qua xác minh soát trên hệ thống Bản đồ địa chính năm 2014 của
Phường.
Về nguồn gốc thửa đất: Đất nguồn gốc do Quốc phòng bàn giao theo
QĐ số 760/TTG ngày 21 tháng 11 năm 1995 của thủ tướng chính phủ cho Ủy ban
nhân n tỉnh Đồng Nai quản lý. Ông Mai Văn D tự vào sử dụng và kê khai đăng
năm 2000 thuộc thửa đất số 119, tờ bản đồ số 51 (chưa được cấp giấy chứng
nhận quyền sử dụng đất), đến năm tháng 02 năm 2003 chuyển nhượng cho
Chu Thị M sử dụng, đến tháng 6 năm 2003 chuyển nhượng (giấy tay) cho bà Trần
Thị H. Năm 2014, đo đạc bản đồ địa chính mới phường L Trần Thị H khai
đăng đất đai thửa đất số 109, tờ bản đồ số 116 diện tích 47.9 m
2
, được cấp
Biên nhận đăng ký số: 4497/BNHS-VPĐK ngày 02 tháng 12 năm 2014, thửa đất
109 chưa được cấp giấy chứng nhận quyền sdụng đất.
Ngày 26 tháng 5 năm 2023, Ủy ban nhân n phường L đã mời Trần
Thị H để xác minh các nội dung đơn yêu cầu của ông Trần Minh T. Tuy nhiên, bà
H không mặt tại thời điểm xác minh. Ủy ban nhân n phường đã đề nghị
Công an phường xác minh H còn sinh sống tại địa phương hay không, kết quả
xác minh Trần Thị H, sinh năm 1969 đăng hộ khẩu thường trú tại tổ 1,
khu phố C, phường L, tuy nhiên hiện nay H không còn sinh sống tại địa
phương, hiện bà H đi đâu làm gì không rõ.
Về xác minh đối với ông Phạm Tuấn A: Ngày 22 tháng 6 năm 2023, Ủy
ban nhân dân phường L làm việc với ông Phạm Tuấn A được biết ngày 16
tháng 5 năm 2021, ông Tuấn A nhận chuyển nhượng giấy tay của bà Trần Thị H.
Do căn nhà thửa đất một phần diện tích nằm trong dự án Suối Linh, ông
Tuấn A đã tháo gỡ căn nhà bàn giao đất cho bên Ban Quản dán thành
phố Biên Hòa để triển khai thi công dự án. Ông Tuấn A khẳng định không
quan hệ, quen biết giao dịch chuyển nhượng, hoán đổi diện tích thửa đất số
109, tờ bản đồ số 116 tông Trần Minh T. Hiện căn nhà và thửa đất thửa nêu
trên do ông Phạm Tuấn A đang quản lý và sử dụng để ở.
5
Theo nội dung đơn ông Trần Minh T u cầu: Ông Phạm Tuấn A giao trả
căn nhà toàn bộ thửa đất số 109, tờ bản đồ số 116, với diện tích 48m
2
tọa lạc
tại, khu phố C, phường L cho ông T.
Căn cứ quy định tại điểm a, Khoản 3, điều 167 Luật Đất đai năm 2013;
Điều 21 và Điều 22 Nghị định số 43/2014/NĐ-CP ngày 15 tháng 5 năm 2014 của
Chính phủ về việc quy định chi tiết một số điều, khoản của Luật Đất đai. Từ
những sở, tài liệu liên quan, quá trình xác minh, Ủy ban nhân dân phường
Long Bình nhận thấy ông Trần Minh T không cung cấp đủ giấy tờ chứng minh
quá trình sử dụng đất ổn định và giấy tờ chứng minh việc chuyển nhượng đất đai
theo quy định Luật Đất đai và Nghị định số 43/2014/NĐ-CP. Đồng thời theo biên
bản xác minh giữa ông Phạm Tuấn A ông Trần Minh T không phát sinh việc
chuyển nhượng, hoán đổi diện tích thửa đất số 109 tờ bản đồ số 116 mà nhận
chuyển nhượng (giấy tay) cùng một người Trần Thị H. Hiện nay, H
không còn sinh sống tại địa phương, đi đâu làm gì không rõ. Vì vậy, nội dung đơn
yêu cầu của ông Trần Minh T không sở để tổ chức hòa giải tranh chấp đất
đai theo quy định.
* Theo biên bản lấy lời khai, người quyền lợi, nghĩa vụ liên quan ông
Phạm Tuấn A trình bày:
Ngày 16 tháng 5 năm 2021, ông Trần Thị H thỏa thuận lập giấy
chuyển nhượng quyền sử dụng đất, quyền shữu nhà tài sản khác gắn liền
với đất đối với thửa đất số 109, tờ bản đồ s116, phường L, thành phố H, tỉnh
Đồng Nai với giá trị chuyển nhượng 800.000.000 đồng (Tám trăm triệu
đồng). Ông đã giao tiền đủ cho H. Do H chưa được cấp giấy chứng nhận
quyền sử dụng đất đối với nhà, đất trên nên các bên chỉ làm giấy chuyển nhượng
tay không công chứng, chứng thực. Trong giấy chuyển nhượng tên anh
Dương Văn H con của bà H anh H ở cùng H, để làm chứng sự việc mua
bán chứ tài sản không liên quan gì đến anh H.
Khi nhận chuyển nhượng của bà H thì H chgiao cho ông bản photo
của biên nhận hồ đăng của thửa đất còn bản chính thì H nói đã bị thất
lạc.
Sau khi nhận chuyển nhượng, ông cùng vợ sử dụng ngay đlàm nơi
để xe cho những phòng trọ của vchồng ông bị giải tỏa không ai tranh
chấp hay yêu cầu. Đến tháng 5 năm 2022, khi ông tháo dỡ nhà để bàn giao cho
dự án Suối Linh thì ông T đến tranh chấp cho rằng nhà, đất trên đã mua của
H, có biên nhận của bà H và yêu cầu ông không được tháo dỡ, sửa chữa.
Sau khi xảy ra tranh chấp, ông làm đơn yêu cầu Ủy ban nhân dân phường
L giải quyết việc ông T cản trở việc sửa chữa nhà, đồng thời ông biết việc
ông T cũng làm đơn yêu cầu Ủy ban nhân dân phường L giải quyết cho rằng ông
xây dựng trái phép.
Ông không đồng ý đối với yêu cầu khởi kiện của ông T nhà, đất nêu
trên ông nhận chuyển nhượng của bà H trước ông T, ông không quen biết cũng
như liên quan đến ông T.
6
Quan điểm của người bảo vệ quyền lợi ích hợp pháp của người khởi
kiện tại phiên tòa sơ thẩm (theo Bản luận cứ ngày 26 tháng 9 năm 2024):
Việc y ban nhân dân phường L chtiến hành c minh nguồn gốc đất
từ một phía là ông Phạm Tuấn A phiến diện, thiếu khách quan; ông Tuấn A
không giấy tờ chứng minh quyền sử dụng, sở hữu đối với tài sản đang
quản lý; căn nhà đã tranh chấp ttrước, đã bị lập biên bản về việc y dựng
trái phép nhưng Ủy ban nhân dân phường L vẫn đông Tuấn A tiếp tục y
dựng, quản , sdụng để tđó cho rằng ông T không chứng minh được việc
quản lý, sử dụng đất n định không đúng; đồng thời, theo quy định tại Điều
88 Nghđịnh s43/2014/NĐ-CP ngày 15 tháng 5 m 2014 của Chính phủ v
việc quy định chi tiết một sđiều, khoản của Luật Đất đai thể hiện y ban
nhân dân phường L không quyền đưa ra quyết định hay phán quyết liên
quan đến tranh chấp đất đai, cũng như xác định cơ sở hay không sở đ
tổ chức hòa giải. Từ c căn ctrên, yêu cầu Tòa án tuyên hành vi không tổ
chức hòa giải tranh chấp đất đai của Ủy ban nhân n phường L trái quy
định buộc Ủy ban nhân dân phường L tổ chức hòa giải tranh chấp đất đai
theo quy định.
* Tại bản án thẩm số 03/2024/HC-ST ngày 26 tháng 9 năm 2024, Tòa
án nhân thành phố Biên Hòa đã chấp nhận yêu cầu khởi kiện của ông Trần Minh
T, tuyên hành vi không tổ chức hòa giải tranh chấp đất đai giữa ông Trần Minh
T ông Phạm Tuấn A đối với thửa đất số 109, tờ bản đồ số 116, tọa lạc tại
phường L, thành phố H, tỉnh Đồng Nai trái quy định pháp luật, buộc Ủy ban
nhân dân phường L chấm dứt hành vi hành chính trái pháp luật. Ngoài ra, bản án
còn tuyên về nghĩa vụ chịu án phí và quyền kháng cáo của đương sự.
* Tại đơn kháng cáo đề ngày 15/11/2024, Chủ tịch Ủy ban nhân dân
phường L đề nghị sửa bản án sơ thẩm, bác yêu cầu khởi kiện của ông T với
do: Không sở xác định cụ thể ông Trần Minh T đối tượng sử dụng đất
đai do ông T không cung cấp được các giấy tờ, tài liệu thể hiện ông người có
quyền lợi, nghĩa vụ liên quan đến thửa đất số 109, tờ số 116 phường L. Cụ thể là
việc mua bán, chuyển nhượng, cho thuê lại đất giữa ông T với Trần Thị H
không công chứng, chứng thực theo quy định tại điểm a khoản 3 Điều 167
của Luật Đất đai năm 2013; ông T không trực tiếp quản do ông Phạm
Tuấn A, cũng nhận chuyển nhượng bằng giấy tay từ Trần Thị H hiện
người trực tiếp quản lý sử dụng; Ủy ban cũng không làm việc được với Trần
Thị H do H không còn trú tại địa phương. Do đó, ông T đnghị tổ chức
hòa giải tranh chấp đất đai với ông Phạm Tuấn A đối với thửa đất số 109, tờ bản
đồ số 116 phường L không sở không đúng đối tượng người đang
thực tế sử dụng đất đai có đất bị tranh chấp.
* Ý kiến của đại diện Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Đồng Nai:
- Về việc chấp hành pháp luật tố tụng: Tkhi thụ vụ án đến khi xét xử
tại phiên tòa, người tiến hành tố tụng thực hiện đúng quy định của pháp luật.
Các đương sự thực hiện đúng quyền, nghĩa vụ của mình theo quy định.
7
- Về việc giải quyết vụ án: Người bị kiện không tiến hành hòa giải tranh
chấp đất giữa ông Trần Minh T ông Phạm Tuấn A đối với thửa đất số 109, tờ
bản đồ số 116 phường L là trái quy định tại Điều 202, Điều 203 của Luật Đất đai
năm 2013 Nghị định số 43/2014/NĐ-CP ngày 15 tháng 5 năm 2014 của
Chính phủ. Cấp sơ thẩm chấp nhận yêu cầu của người khởi kiện là n cứ,
đề nghị Hội đồng xét xử không chấp nhận kháng cáo.
NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN:
Sau khi nghiên cứu các tài liệu, chứng cứ trong hồ vụ án đã được
xem xét tại phiên tòa kết qutranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận
định:
[1] Về thủ tục kháng cáo: Người bị kiện gửi đơn kháng cáo nộp tiền
tạm ứng án phí theo quy định nên được xem xét theo trình tự phúc thẩm.
[2] Về diễn biến hành vi hành chính bị khởi kiện: Năm 2014, Trần Thị
H khai đăng thửa đất s109, tờ bản đồ số 116 phường L, thành phố H và
được cấp Biên nhận đăng ký, trên đất căn nhà cấp 4. Ngày 12/11/2021, H
Hợp đồng chuyển nhượng lại n đất này cho ông Trần Minh T ngày
09/12/2021, H thuê lại theo Biên bản thỏa thuận cam kết với ông T. Tuy
nhiên trước đó vào ngày 16/5/2021, H đã chuyển nhượng nhà đất này cho
ông Phạm Tuấn A. Ngày 03/4/2023, ông T khởi kiện tranh chấp quyền sử dụng
thửa đất này với ông A. Ngày 10/4/2023, Tòa án nhân dân thành phố Biên Hòa
thông báo yêu cầu ông T sửa đổi, bổ sung đơn khởi kiện, trong đó có yêu cầu bổ
sung biên bản hòa giải tranh chấp đất đai tại địa phương. Ngày 22/5/2023, ông T
gửi Đơn đề nghị Ủy ban nhân dân phường L tiến hành hòa giải tranh chấp đòi lại
nhà ở và quyền sử dụng đất với ông A. Tại văn bản số 382/UBND ngày
27/6/2023 về việc trả lời đơn đề nghị hòa giải tranh chấp của ông Tiếu, Chủ tịch
UBND phường L cho rằng không có cơ sở để tổ chức hòa giải tranh chấp đất đai
theo đơn yêu cầu của ông T nên ông T khởi kiện, yêu cầu Tòa án giải quyết
buộc Ủy ban nhân dân phường L tổ chức hòa giải tranh chấp đất đai giữa ông
với ông Phạm Tuấn A.
[3] Về quan hệ pháp luật tranh chấp thẩm quyền: Theo diễn biến hành
vi hành chính yêu cầu khởi kiện của ông T nêu trên, Tòa án nhân dân thành
phố Biên Hòa thụ giải quyết vụ án, xác định quan hệ pháp luật tranh chấp
“Khiếu kiện hành vi hành chính về quản lý đất đai là đúng quy định tại khoản 3
và khoản 4 Điều 3, khoản 1 Điều 30 và Điểu 31 của Luật Tố tụng hành chính.
[4] Về thời hiệu khởi kiện: Ngày 28/6/2023, ông T nhận được văn bản số
382/UBND ngày 27/6/2023 của Chủ tịch UNND phường L, ông T gửi đơn khởi
kiện vào ngày 17/11/2023 là còn trong thời kiệu khởi kiện theo quy định tại
điểm a khoản 2 Điều 116 Luật T tụng hành chính.
[5] Về xác định tư cách đương sự: Theo quy định tại khoản 3 Điều 202
của Luật Đất đai năm 2013 thì Chủ tịch Ủy ban nhân dân cấp xã có trách nhiệm
tổ chức việc hòa giải tranh chấp đất đai tại địa phương mình, ngoài ra còn được
đề cập tại mục 11 Giải đáp số 02/2018/GĐ-TANDTC ngày 19/9/2018 của Tòa
8
án nhân dân tối cao, theo đó hành vi không tổ chức hòa giải sđối với tranh
chấp đất đai của Chủ tịch Ủy ban nhân dân cấp đối tượng khởi kiện vụ án
hành chính. Như vậy, cấp sơ thẩm xác định người bị kiện là UBND phường L
chưa chính xác nên Hội đồng xét xử điều chỉnh, xác định lại người bị kiện trong
vụ án là Chủ tịch UBND phường L, cấp sơ thẩm cần rút kinh nghiệm.
[6] Về việc vắng mặt của người tham gia tố tụng tại phiên tòa: Người đại
diện hợp pháp của người khởi kiện đồng ý xét xử vắng mặt người bảo vệ quyền
lợi ích hợp pháp của người khởi kiện; người đại diện hợp pháp của người bị
kiện có đơn đề nghị xét xử vắng mặt nên Hội đồng xét xử tiến hành xét xử vụ án
theo quy định tại Điều 225 của Luật Tố tụng hành chính.
[7] Về kháng cáo:
[7.1] Ngày 03/4/2023, ông T gửi Đơn khởi kiện tranh chấp quyền sử dụng
đất đối với ông Phạm Tuấn A tại Tòa án nhân dân thành phố Biên Hòa, yêu cầu
ông A trả lại thửa đất số 119, tờ bản đồ số 16 phường L. Thửa đất này chưa
được Nhà nước công nhận quyền sử dụng cho tổ chức hay nhân nào nên
sở xác định tranh chấp giữa ông T và ông A là tranh chấp đất đai. Theo quy
định tại Điều 203 của Luật Đất đai 2013, ông T được lựa chọn quan giải
quyết tranh chấp đất đai Tòa án nhân dân thẩm quyền. Theo quy định tại
khoản 2 Điều 3 Nghquyết 04/2017/NQ-HĐTP của Hội đồng Thẩm phán Tòa
án nhân dân tối cao thì: Đối với tranh chấp ai người quyền sử dụng đất
chưa được hòa giải tại Ủy ban nhân dân xã, phường, thị trấn nơi đất
tranh chấp theo quy định tại Điều 202 Luật đất đai năm 2013 thì được xác định
chưa đủ điều kiện khởi kiện quy định tại điểm b khoản 1 Điều 192 Bộ luật
tố tụng dân sự năm 2015. Như vậy, điều kiện về hòa giải cơ sở tại Ủy ban nhân
dân cấp một điều kiện bắt buộc đkhởi kiện, Tòa án nhân dân thành phố
Biên Hòa cũng đã văn bản yêu cầu ông T bổ sung biên bản hòa giải tranh
chấp đất đai tại địa phương nên ông T có đơn đề nghị hòa giải tranh chấp đất đai
với ông A tại Ủy ban nhân dân phường L theo quy định.
[7.2] Sau khi nhận đơn, Ủy ban phường đã tiến hành thẩm tra, xác minh
tìm hiểu nguyên nhân phát sinh tranh chấp, thu thập giấy tờ, tài liệu có liên quan
do các bên cung cấp về nguồn gốc đất, quá trình sử dụng đất hiện trạng sử
dụng đất nhưng không thành lập Hội đồng hòa giải tranh chấp đất đai để thực
hiện hòa giải, tổ chức cuộc họp hòa giải theo quy định. Tại văn bản số
382/UBND ngày 27/6/2023 v việc trả lời đơn của ông T, Chủ tịch UBND
phường L viện dẫn các do để không tổ chức a giải tranh chấp đất đai do
ông T không cung cấp đủ giấy tchứng minh quá trình sử dụng đất ổn định
giấy tờ chứng minh việc chuyển nhượng đất đai theo quy định tại điểm a khoản
3 Điều 167 của Luật Đất đai Điều 21, Điều 22 Nghị định 43/2014/NĐ-CP
ngày 15/5/2014 của Chính Phủ. Đồng thời, giữa ông T và ông A không phát sinh
việc chuyển nhượng, hoán đổi diện tích thửa đất số 109, tờ bản đồ số 16 phường
L.
9
[7.3] Xét các do người bị kiện viện dẫn không phù hợp, theo đơn
ông T chỉ đề nghị hòa giải tranh chấp đất đai tại s, Luật Đất đai năm 2013
các văn bản hướng dẫn thi hành không quy định các bên tranh chấp phải
cung cấp đầy đủ giấy tờ chứng minh quá trình sử dụng đất ổn định giấy tờ
chứng minh việc chuyển nhượng đất đai theo quy định thì mới tổ chức hòa giải,
cũng không quy định các trường hợp không được hòa giải. Ông T không trực
tiếp sdụng đất, giữa ông T ông A không phát sinh việc chuyển nhượng,
hoán đổi diện tích thửa đất số 109, tờ bản đồ số 16 phường L nhưng cả hai đều
nhận chuyển nhượng từ H và phát sinh tranh chấp về quyền sử dụng. Do vậy,
việc không tổ chức hòa giải tranh chấp đất đai theo đơn yêu cầu của ông T
không hợp pháp, trái quy định tại khoản 3 Điều 202 của Luật Đất đai năm 2013,
ảnh hưởng đến quyền và lợi ích của đương sự. Theo đó, cấp thẩm chấp nhận
yêu cầu của người khởi kiện là căn cứ, đúng quy định pháp luật nên không
chấp nhận kháng cáo của người bị kiện.
[8] Về án phí: Người bị kiện phải chịu 300.000đ án phí hành chính
thẩm do yêu cầu của người khởi kiện được chấp nhận, 300.000đ án phí hành
chính phúc thẩm do kháng cáo không được chấp nhận. Hoàn trả tiền tạm ứng án
phí sơ thẩm cho người khởi kiện.
[9] Quan điểm của đại diện Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Đồng Nai tham
gia phiên tòa cơ bản phù hợp với nhận định của Hi đồng xét xử nên chấp nhận.
Vì các lẽ trên,
Căn cứ khoản 1 Điều 241 ca Luật Tố tụng hành chính;
QUYẾT ĐỊNH:
Không chấp nhận kháng cáo của Chủ tịch Ủy ban nhân dân phường L, giữ
nguyên bản án hành chính thẩm số 03/2024/HC-ST ngày 26 tháng 9 năm
2024 của Tòa án nhân thành phố Biên Hòa.
Áp dụng các Điều 202, 203 và 204 của Luật Đất đai năm 2013; Nghị định
43/2014/ND-CP ngày 15/5/2014 Nghị định số 148/2020/NĐ-CP ngày
18/12/2020 của Chính phủ; Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày
30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm,
thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí, lệ phí Tòa án.
Tuyên xử:
1. Chấp nhận yêu cầu khởi kiện của ông Trần Minh T đối với Chủ tịch Ủy
ban nhân dân phường L về “Khiếu kiện hành vi hành chính về quản lý đất đai”.
Tuyên bố hành vi không tổ chức hòa giải tranh chấp đất đai giữa ông Trần
Minh T ông Phạm Tuấn A đối với thửa đất số 109, tbản đồ s116 phường
L, thành phố H, tỉnh Đồng Nai của Chủ tịch Ủy ban nhân dân phường L trái
pháp luật. Buộc Chủ tịch Ủy ban nhân dân phường L chấm dứt hành vi trái pháp
luật.
2. Về án phí:
10
2.1. Án phí hành chính sơ thẩm: Chủ tịch Ủy ban nhân dân phường L phải
chịu 300.000đ (Ba trăm nghìn đồng). Hoàn trả ông Trần Minh T 300.000đ (Ba
trăm nghìn đồng) tiền tạm ứng án phí đã nộp theo Biên lai thu tạm ứng án phí, lệ
phí Tòa án số 0001627 ngày 08/12/2023 của Chi cục Thi hành án dân sthành
phố Biên Hòa.
2.2. Án phí hành chính phúc thẩm: Chủ tịch Ủy ban nhân dân phường L
phải chịu 300.000đ (Ba trăm nghìn đồng), được khấu trừ vào tiền tạm ứng án phí
300.000đ (Ba trăm nghìn đồng) do Ủy ban nhân dân phường L nộp theo Biên lai
thu tạm ứng án phí, lệ phí Tòa án số 0004943 ngày 02/12/2024 của Chi cục Thi
hành án dân sự thành phố Biên Hòa.
3. Bản án phúc thẩm hiệu lực kể từ ngày tuyên án.
Nơi nhận:
- Các đương sự;
- VKSND tỉnh Đồng Nai;
- TAND TP. Biên Hòa;
- Cục THADS tỉnh Đồng Nai;
- Chi cục THADS TP. Biên Hòa;
- Lưu hồ sơ vụ án.
TM. HỘI ĐỒNG XÉT XỬ PHÚC THẨM
THẨM PHÁN- CHỦ TỌA PHIÊN TÒA
(Đã ký)
Nguyễn Trung Hưng
Tải về
Bản án số 03/2025/HC-PT Bản án số 03/2025/HC-PT

Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để tải file. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!

Bản án số 03/2025/HC-PT Bản án số 03/2025/HC-PT

Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để tải file. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!

Bản án/ Quyết định cùng đối tượng

Bản án cùng lĩnh vực

Bản án mới nhất