Bản án số 03/2024/DS ngày 07/08/2024 của TAND huyện Mai Châu, tỉnh Hòa Bình về tranh chấp về thừa kế tài sản
- Thuộc tính
- Nội dung
- VB gốc
- VB liên quan
- Lược đồ
- Đính chính
- Án lệ
- BA/QĐ cùng nội dung
- Tải về
Tải văn bản
-
Bản án số 03/2024/DS
Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để tải file. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!
-
Bản án số 03/2024/DS
Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để tải file. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!
Báo lỗi
Thuộc tính Bản án 03/2024/DS
Tên Bản án: | Bản án số 03/2024/DS ngày 07/08/2024 của TAND huyện Mai Châu, tỉnh Hòa Bình về tranh chấp về thừa kế tài sản |
---|---|
Quan hệ pháp luật: | Tranh chấp về thừa kế tài sản |
Cấp xét xử: | Sơ thẩm |
Tòa án xét xử: | TAND huyện Mai Châu (TAND tỉnh Hòa Bình) |
Số hiệu: | 03/2024/DS |
Loại văn bản: | Bản án |
Ngày ban hành: | 07/08/2024 |
Lĩnh vực: | Dân sự |
Áp dụng án lệ: |
Đã biết
Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để xem áp dụng án lệ. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây! |
Đính chính: |
Đã biết
Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để xem đính chính. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây! |
Thông tin về vụ/việc: | Yêu cầu hủy Giấy CNQSDĐ; Tranh chấp về thừa kế tài sản giữa nguyên đơn bà Lê Thị P với bị đơn ông Lê Quang T, bà Lê Thị L cùng những người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan |
Tóm tắt Bản án
Nội dung tóm tắt đang được cập nhật, Quý khách vui lòng quay lại sau!
Tải văn bản
1
TÒA ÁN NHÂN DÂN CỘNG HOÀ XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM
HUYỆN MAI CHÂU Độc lập - Tự do - Hạnh phúc
TỈNH HÒA BÌNH
Bản án số: 03/2024/DS - ST
Ngày: 07/8/2024
V/v: Yêu cầu hủy Giấy CNQSDĐ;
Tranh chấp về thừa kế tài sản.
NHÂN DANH
NƯỚC CỘNG HÒA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM
TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN MAI CHÂU, TỈNH HÒA BÌNH
Thành phần Hội đồng xét xử sơ thẩm gồm có:
Thẩm phán – Chủ tọa phiên tòa: Ông Phạm Thanh Tùng.
Các Hội thẩm nhân dân: Ông Lường Khắc Tiệp và ông Hà Bá Khiên.
- Thư ký phiên tòa: Ông Bùi Văn Cao.
- Đại diện Viện kiểm sát nhân dân huyện Mai Châu tham gia phiên tòa:
Ông Triệu Văn Mừng - Kiểm sát viên.
Ngày 07 tháng 8 năm 2024, tại trụ sở Tòa án nhân dân huyện Mai Châu xét
xử sơ thẩm công khai vụ án dân sự thụ lý số: 03/2024/TLST - DS ngày 04 tháng 3
năm 2024 về Yêu cầu hủy Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, tranh chấp về thừa
kế tài sản, theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 03/2024/QĐXXST - DS ngày
09 tháng 7 năm 2024 giữa các đương sự:
Nguyên đơn: Bà Lê Thị P, sinh năm 1966; nơi cư trú: Tiểu khu x, thị trấn
M, huyện M, tỉnh Hòa Bình. Có mặt.
Người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của nguyên đơn: Ông Bùi Việt A,
sinh năm 1975 là Luật sư thuộc Công ty luật TNHH Quốc tế B - Đoàn Luật sư
Thành phố Hà Nội. Có mặt.
Bị đơn: Ông Nguyễn Quang T, sinh năm: 1963 và bà Lê Thị L, sinh năm
1964; cùng nơi cư trú: Tiểu khu x, thị trấn M, huyện M, tỉnh Hòa Bình. Đều có
mặt.
Những người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan:
- Bà Lê Thị N, sinh năm 1969 nơi cư trú: Tiểu khu x, thị trấn M, huyện M,
tỉnh Hòa Bình. Vắng mặt, đã có đơn xin xét xử vắng mặt.
- Bà Lê Thị H, sinh năm 1972; nơi cư trú: Xóm L, xã P, huyện T, tỉnh Hòa
Bình. Vắng mặt, đã có đơn xin xét xử vắng mặt.
- Bà Lê Thị L1, sinh năm 1959; nơi cư trú: Tiểu khu x, thị trấn M, huyện M,
tỉnh Hòa Bình. Vắng mặt.
- Ông Lê Trung H1, sinh năm 1983; nơi cư trú: Tiểu khu x, thị trấn M,
huyện M, tỉnh Hòa Bình. Vắng mặt.
Người được ủy quyền của bà Lê Thị L1 và ông Lê Trung H1: Bà Dương Thị
H, sinh năm 1994; địa chỉ: Tầng x, số 2x phố H, phường Q, quận Đ, Thành phố Hà
Nội. Theo Hợp đồng ủy quyền ngày 17/01/2024. Có mặt.
2
- Anh Lê Văn C, sinh năm 1989; nơi cư trú: Tiểu khu x, thị trấn M, huyện
M, tỉnh Hòa Bình. Vắng mặt, đã có đơn xin xét xử vắng mặt.
- Anh Lê Việt L, sinh năm 1993; nơi cư trú Tiểu khu x, thị trấn M, huyện
M, tỉnh Hòa Bình. Vắng mặt, đã có đơn xin xét xử vắng mặt.
- Sở T tỉnh Hòa Bình. Địa chỉ: Số 3xx T, phường P, thành phố H, tỉnh Hòa
Bình. Vắng mặt, đã có văn bản đề nghị xét xử vắng mặt.
NỘI DUNG VỤ ÁN:
Trong đơn khởi kiện đề ngày 10/11/2023; bản tự khai ngày 20/12/2023
và tại phiên tòa nguyên đơn bà Lê Thị P đã trình bày:
Bố tôi là Lê Thanh H, sinh năm 1937, có 02 người vợ là Trần Thị Tr (vợ cả,
đã ly hôn năm 1982) và Trần Thị L (vợ hai, đã ly hôn năm 2015). Lúc còn sống,
bố tôi sinh được 07 người con, gồm 06 người con với vợ cả và 01 người con út với
vợ hai, lần lượt là: Lê Thị L1, sinh năm 1959; Lê Văn M, sinh năm 1961, mất năm
2017 (sinh được hai người con là Lê Văn C và Lê Việt L); Lê Thị L, sinh năm
1964; Lê Thị P, sinh năm 1966; Lê Thị N, sinh năm 1969; Lê Thị H, sinh năm
1972 và Lê Trung H1, sinh năm 1983.
Năm 2022 bố tôi mất, không để lại di chúc. Di sản bố tôi để lại là quyền sử
dụng thửa đất số 6xx, tờ bản đồ số 1x, diện tích 201 m
2
, đã được UBND huyện
Mai Châu cấp Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất số R3642xx ngày 12/11/2003
mang tên Lê Thanh H (hiện nay là thửa số 7xx, tờ bản đồ số 1x, diện tích 172,8
m
2
, theo Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất số CA 5198xx do Sở Tài nguyên và
môi trường tỉnh Hòa Bình cấp ngày 06/7/2016 mang tên Nguyễn Quang T) và tài
sản gắn liền với đất là căn nhà xây 02 tầng.
Về nguồn gốc tài sản nêu trên là của bố tôi có được trong thời kỳ hôn nhân
với vợ hai là bà Trần Thị L. Tuy nhiên, đến năm 2015 bố tôi và bà Trần Thị L đã
ly hôn và đã thỏa thuận phân chia tài sản khi ly hôn, theo đó hai bên thỏa thuận bố
tôi được sở hữu và được quyền sử dụng toàn bộ phần diện tích đất và tài sản gắn
liền với đất đối với thửa đất nêu trên. Năm 2016, anh rể tôi là ông Nguyễn Quang
T (chồng bà Lê Thị L) đã làm giả chữ ký của bố tôi trên Hợp đồng chuyển nhượng
quyền sử dụng đất để sang tên toàn bộ thửa đất nêu trên từ bố tôi sang cho ông
Tiến.
Ngày 19/10/2017, bố tôi đã khởi kiện ông Nguyễn Quang T ra TAND
huyện Mai Châu và đề nghị TAND huyện Mai Châu giải quyết tuyên bố hợp đồng
chuyển nhượng quyền sử dụng đất giữa bố tôi và ông Nguyễn Quang T đã được
UBND thị trấn Mai Châu chứng thực giao dịch ngày 23/3/2016 đối với thửa đất số
7xx, tờ bản đồ số 1x, diện tích 172,8 m
2
là vô hiệu và yêu cầu trả lại bố tôi giấy
chứng nhận quyền sử dụng đất số 397/QSDĐ/583/QĐ-UB có số R 3642xx do
UBND huyện Mai Châu cấp ngày 12/11/2003 mang tên Lê Thanh H. Ngày
09/02/2018, TAND huyện Mai Châu đã đưa vụ án tranh chấp hợp đồng dân sự
giữa nguyên đơn là bố tôi với bị đơn là ông Nguyễn Quang T ra xét xử. Tại bản án
dân sự sơ thẩm số: 01/2018/DS-ST ngày 09/2/2018 của TAND huyện Mai Châu,
quyết định:
"1. Chấp nhận yêu cầu khởi kiện của ông Lê Thanh H. Tuyên bố hợp đồng
chuyển nhượng quyền sử dụng đất với diện tích 172.8m
2
tại thửa số 7xx, tờ bản đồ
số 1x đã được UBND thị trấn Mai Châu chứng thực ngày 23/3/2016 là vô hiệu;
3
2. Buộc anh Nguyễn Quang T, Chi nhánh văn phòng đăng ký đất đai huyện
Mai Châu khôi phục để trả lại ông Lê Thanh H giấy chứng nhận QSDĐ Số
397/QSDĐ/583/QĐ-UB, bìa có số R 3642xx do UBND huyện Mai Châu cấp ngày
12/11/2003 mang tên Lê Thanh H."
Sau khi TAND huyện Mai Châu tuyên án, các đương sự không có ai có
kháng cáo, Viện kiểm sát nhân dân cũng không có kháng nghị. Quá trình thi hành
án, ngày 20/7/2019, bố tôi đã có đơn đề nghị xin rút đơn yêu cầu thi hành án và
đình chỉ thi hành vụ việc. Ngày 23/7/2019, Chi cục thi hành án dân sự huyện Mai
Châu đã ra Quyết định số: 05/QĐ-CCTHADS về việc đình chỉ thi hành án đối với
ông Nguyễn Quang T và Chi nhánh Văn phòng Đăng ký đất đai huyện Mai Châu,
tỉnh Hòa Bình.
Mặc dù phần phán quyết:“Buộc anh Nguyễn Quang T, Chi nhánh văn
phòng đăng ký đất đai huyện Mai Châu khôi phục để trả lại ông Lê Thanh H giấy
chứng nhận QSDĐ số 397/QSDĐ/583/QĐ-UB, bìa có số R 3642xx do UBND
huyện Mai Châu cấp ngày 12/11/2003 mang tên Lê Thanh H” đã bị đình chỉ thi
hành án theo đơn đề nghị của bố tôi, tuy nhiên phần diện tích đất nêu trên vẫn là
tài sản thuộc quyền sử dụng và quyền sở hữu hợp pháp của bố tôi do Hợp đồng
chuyển nhượng quyền sử dụng đất với diện tích 172.8m
2
tại thửa số 7xx, tờ bản đồ
số 1x được UBND thị trấn Mai Châu chứng thực ngày 23/3/2016 đã được Tòa án
nhân dân có thẩm quyền tuyên là vô hiệu. Toàn bộ tài sản trên đất và quyền sử
dụng đất vẫn do bố tôi quản lý và sử dụng đến khi bố tôi mất.
Sau khi bố tôi mất, chị gái tôi là Lê Thị L cùng anh rể là Nguyễn Quang T
đã tự ý sử dụng toàn bộ diện tích nhà, đất do bố tôi để lại mà không được sự đồng
ý của tất cả những người thuộc hàng thừa kế thứ nhất của bố tôi.
Do vậy tôi yêu cầu Tòa án nhân dân huyện Mai Châu:
1. Xác định di sản thừa kế do bố tôi là Lê Thanh H để lại gồm:
- Quyền sử dụng thửa đất số 6xx, tờ bản đồ số 1x, diện tích 201 m
2
đã được
UBND huyện Mai Châu cấp Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất số R 3642xx
ngày 12/11/2003 mang tên Lê Thanh H (hiện nay là thửa đất số 7xx, tờ bản đồ số
1x, diện tích 172,8 m
2
theo Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất số CA 5198xx do
Sở Tài nguyên và môi trường tỉnh Hòa Bình cấp ngày 06/7/2016 mang tên Nguyễn
Quang T). Đề nghị chia thừa kế theo diện tích đất thực tế hiện nay là 172,8 m
2
.
- 01 ngôi nhà xây hai tầng gắn liền với thửa đất nêu trên.
2. Thực hiện việc phân chia di sản thừa kế gồm nhà và đất của bố tôi là Lê
Thanh H, có xem xét đến nghĩa vụ về tiền của bố tôi khi còn sống đối với vợ
chồng ông Nguyễn Quang T, bà Lê Thị L là 850.000.000 đồng, mà vợ chồng T, L
đã thực hiện thay bố tôi theo Quyết định công nhận thuận tình ly hôn và sự thỏa
thuận của các đương sự số 11/2015/QĐST-HNGĐ ngày 10/9/2015 giữa bố tôi Lê
Thanh H và bà Trần Thị L. Trừ vào giá trị di sản thừa kế là nhà và đất nêu trên số
còn lại chia thừa kế theo quy định của pháp luật, nếu vợ chồng bà Lê Thị L lấy
nhà và đất thì trả tiền phần của những người được thừa kế khác, nếu vợ chồng bà
L không lấy thì tôi lấy nhà, đất và trả tiền phần của những người được thừa kế
khác trong vụ án.
3. Đề nghị Tòa án hủy bỏ Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất số CA
5198xx do Sở Tài nguyên và môi trường tỉnh Hòa Bình cấp ngày 06/7/2016 mang
tên Nguyễn Quang T. Theo quy định tại Điều 34 Bộ luật Tố tụng dân sự và Điều
4
32 Luật Tố tụng hành chính hiện hành. Ngoài các vấn đề nêu trên tôi không yêu
Tòa án giải quyết vấn đề gì khác.
Ý kiến của người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của nguyên đơn:
tóm tắt như sau: Nguyên đơn có đơn khởi kiện để yêu cầu chia di sản thừa kế tài
sản là quyền sử dụng thửa đất số 6xx, tờ bản đồ số 1x, diện tích 201 m
2
, đã được
UBND huyện Mai Châu cấp Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất số R3642xx
ngày 12/11/2003 mang tên Lê Thanh H (hiện nay là thửa số 7xx, tờ bản đồ số 1x,
diện tích 172,8 m
2
, theo Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất số CA 5198xx do Sở
Tài nguyên và môi trường tỉnh Hòa Bình cấp ngày 06/7/2016 mang tên Nguyễn
Quang T) và tài sản gắn liền với đất là căn nhà xây 02 tầng tôi cho rằng yêu cầu
này là hoàn toàn có căn cứ:
Thứ nhất về thời hiệu yêu cầu chia thừa kế vẫn còn.
Thứ hai về xác định di sản thừa kế: Theo các tài liệu và chứng cứ có trong
hồ sơ và phần hỏi tại phiên tòa đã xác định di sản ông Lê Thanh H gồm: Mảnh đất
và ngôi nhà 02 tầng xây trên đất. Đây là tài sản được hình thành trong thời kỳ hôn
nhân giữa ông H với bà L. Năm 2015 ông H và bà L ly hôn, Tòa án đã ra quyết
định công nhận sự thỏa thuận của các đương sự theo đó tài sản là nhà và đất thuộc
quyền sở hữu của ông Hải, còn ông Hải có nghĩa vụ trả tiền chênh lệch chia tài sản
cho bà L. Năm 2016 ông T làm giả chữ ký chuyển nhượng và bị Tòa án tuyên vô
hiệu. Bản án có hiệu lực do không kháng cáo, kháng nghị. Quá trình thi hành án,
ông H có đơn đề nghị đình chỉ Thi hành án, cơ quan Thi hành án ra quyết định
đình chỉ thi hành án. Tuy nhiên vụ việc đã bị đình chỉ nhưng tài sản vẫn là của ông
H. Trước và sau khi có quyết định đình chỉ ông H không làm thủ tục tặng cho,
chuyển nhượng tài sản cho ai. Việc ông H làm đơn xin rút không có nghĩa là ông
H từ bỏ quyền sở hữu. Ngoài ra ông H chỉ yêu cầu đình chỉ một phần quyết định
trong bản án. Còn phần tuyên hợp đồng vô hiệu vẫn có hiệu lực. Đơn xin rút chỉ là
rút theo thủ tục hành chính. Chính vì vậy nên xác định di sản thừa kế là đất và nhà
nêu trên. Tại phiên tòa bị đơn không đưa ra các căn cứ gì về việc ông H đã chuyển
nhượng tài sản cho bà L, ông T, nên phải xác định đó vẫn là tài sản riêng của ông
H. Từ những căn cứ xác định nêu trên đề nghị Tòa án chia di sản thừa kế của ông
Lê Thanh H như sau: Di sản không thể chia được bằng đất và nhà, nên chia bằng
tiền. Căn cứ vào kết luận định giá tài sản cần chia đều giá trị tài sản cho các hàng
thừa kế thứ nhất là cho 7 suất bằng nhau. Đối với nghĩa vụ mà bà Lê Thị L đã thay
mặt ông H thực hiện nghĩa vụ trả chênh lệch cho bà L cũng chia đều cho 7 suất để
thực hiện nghĩa vụ mà ông H để lại là 850.000.000 đồng. Nếu nhà và đất mà Tòa
án giao cho ai là người sở hữu, sử dụng thì người đó có nghĩa vụ trả tiền cho
những người thuộc diện thừa kế còn lại bằng phần di sản mà họ được chia theo
bản án của Tòa án.
Tại bản khai ngày 01/12/2023; biên bản lấy lời khai ngày 18/3/2024 và
tại phiên tòa, bị đơn bà Lê Thị L, có ý kiến:
Trước hoàn cảnh của ông Lê Thanh H (bố tôi) là bị đơn trong vụ án ly hôn
với bà Trần Thị L (vợ hai của bố tôi) năm 2014 do cả hai ông bà đã tuổi cao nên
ông H không có tiền trả cho bà L. Ông H đã viết giấy cho tài sản cho tôi ngày
03/12/2014 để lo cho việc ông không có chỗ ở đó chính là di chúc. Ngày
20/9/2015 tôi đã nộp tiền thỏa thuận ly hôn cho bà L (lúc đó bà còn là vợ ông H).
5
Ngày 14/3/2016 tôi đã nộp cho ông H 50.000.000 để ông H làm thủ tục chuyển
quyền nhà đất. Ngày 23/3/2016 ông H đã làm thủ tục chuyển nhượng tại thị trấn
M, huyện M thửa đất 7xx, tờ bản đồ số 1x diện tích thực tế 172,8m
2
. Tôi và ông H
đã thỏa thuận để tôi đứng tên vay tiền tại Ngân hàng Công thương tỉnh Hòa Bình
và thế chấp bìa đỏ ngày 24/8/2016 để có tiền giải quyết thuận tình ly hôn của ông
bà. Năm 2018 ông H kiện tôi ra Tòa án nhân dân huyện Mai Châu theo bản án số:
01/2018/DS-ST ngày 09/02/2018. Sau một thời gian đến ngày 20/7/2019 ông H
nhận thấy rằng tôi đang trả lãi hàng tháng số tiền mà tôi đứng ra vay tại Ngân hàng
là để phục vụ căn nhà hiện ông đang ở. Ông nhận thấy nên đã viết đơn xin đề nghị
thi hành án rút đơn kiện và yêu cầu thỏa thuận với tôi. Nên ngày 23/7/2019 Chi
cục thi hành án dân sự huyện Mai Châu đã đình chỉ thi hành án. Vì ông H đã hiểu
toàn bộ số tiền mà tôi đứng ra vay tại Ngân hàng và đang trả cả lãi từ ngày
24/8/2016 đến nay là để lo cho chỗ ở của ông và cũng như do vợ chồng tôi là Lê
Thị L và Nguyễn Quang T đã nói để ông hiểu là vợ chồng tôi đã phải thực hiện
thay ông nhiều nghĩa vụ theo quyết định công nhận thuận tình ly hôn và sự thỏa
thuận của các đương sự số: 41/2015/QĐST-HNGĐ ngày 10/9/2015 là
850.000.0000 đồng, năm 2016 đưa 50.000.000 đồng để làm thủ tục nhà đất và vợ
chồng tôi phải vay ngân hàng phải chịu lãi từ năm 2016 ông H đã hiểu nên đã thỏa
thuận được và vợ chồng tôi thống nhất với bố tôi là Lê Thanh H là để lại nhà và
đất của ông H cho vợ chồng tôi quyền sử dụng đất thửa đất số 6xx, tờ bản đồ số
1x, diện tích 201m
2
, đã được UBND huyện Mai Châu cấp Giấy chứng nhận quyền
sử dụng đất số 3xx ngày 12/11/2003 mang tên Lê Thanh H, hiện nay đã cấp cho
chồng tôi là Nguyễn Quang T là thửa số 727, tờ bản đồ số 15, diện tích thực tế đo
đạc lại là 172,8m
2
, theo Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất số cấp giấy chứng
nhận 2008 do Sở Tài nguyên và môi trường tỉnh Hòa Bình cấp ngày 06/7/2016 và
tài sản gắn liền với đất là căn nhà xây 02 tầng nên ông đã thể hiện sự đồng ý của
mình ngay trong đơn đề nghị về việc rút yêu cầu thi hành án đề ngày 20/7/2019,
đơn có đầy đủ chữ ký, điểm chỉ của ông H và sự chứng kiến xác nhận của tiểu khu
trưởng tiểu khu 4 ông Bùi Quốc H2 và cơ quan thi hành án đã đình chỉ thi hành và
do đã thỏa thuận được như vậy nên vợ chồng tôi có thỏa thuận với bố tôi là Lê
Thanh H là không yêu cầu cơ quan có thẩm quyền hủy giấy chứng nhận quyền sử
dụng đất đã cấp cho chồng tôi Lê Quang T nêu trên nữa vì đằng nào thì bố tôi
cũng đã cho vợ chồng tôi nhà, đất nêu trên. Trong đơn có nêu (cùng các con tôi
trong gia đình…) được hiểu là giữa bố tôi ông Lê Thanh H và hai vợ chồng tôi Lê
Thị L, Nguyễn Quang T, ngoài ra không có các con khác tham gia vì tài sản nhà,
đất là của bố tôi lúc đó ông còn sống nên những người khác không liên quan. Do
là bố con với nhau nên không được lập bằng văn bản mà chỉ thỏa thuận thống nhất
nội dung nêu trên bằng lời nói nhưng ý chí, sự đồng ý của ông H đã thể hiện ngay
trên đơn đề nghị về việc xin rút yêu cầu thi hành án của ông. Nhưng đến năm
2019, do dịch Covid19 tôi không thể lo lãi cho Ngân hàng hàng tháng được nữa và
bị phạt 15%. Tôi thấy gia đình tôi quá áp lực, không có cách giải quyết nào cho
ông được nữa. Nên tháng 11/2021 tôi đã mời họp gia đình (gồm 7 anh chị em) để
trao đổi về vấn đề nhà ông đang ở hiện nay. Tôi đã lo cho ông từ đó đến giờ
(2016-2021) hiện nay Ngân hàng phát mại ngôi nhà, ông không có chỗ ở, nên tôi
yêu cầu họp bàn các chị em góp số tiền tôi đã lo cho ông chỗ ở từ năm 2016 đến
nay để chia sẻ đỡ tôi về chỗ ở của ông. Lúc đầu thống nhất mỗi nhà góp
6
300.000.000 đồng giúp tôi trả Ngân hàng và tôi sẽ chuyển lại căn nhà cho 6 chị
em, những ngày hôm sau bà L1, bà P, ông H1 trả lời với tôi là không có tiền và tự
làm tự chịu. Trong lúc cả thế giới và cả nước đều suy thoái nhưng Ngân hàng vẫn
theo Hợp đồng và phát mại nhà của ông Hải đang ở. Trước gia cảnh nhà ông H bị
phát mại, tôi đã phải bán căn nhà tôi đang ở để trả tiền căn nhà cho chỗ ở ông Hải
lúc này. Đến tháng 12/2022 ông H mất, sau khi ông mất đến ngày 20/01/2023 làm
lễ cúng 49 ngày và đưa ông lên trên nhà bà L (vợ của ông M). Tôi mở buổi họp
mời gia đình (gồm 7 chị em) và cần bán căn nhà đó, tính toán phần còn lại của ông
để chia cho các chị em. Và tôi chuộc lại căn nhà của tôi để ở nhưng không có ai
mua và cũng không có tiền. Tôi cũng mong mỏi 7 chị em cùng tôi đóng góp số
tiền tôi đã giải quyết cho ông ở 8 năm qua để tôi trả Ngân hàng chuộc lại nhà để ở
và để căn nhà đó sau 3 năm sẽ bán đi, nhưng không ai đóng góp cho tôi cả và chỉ
thống nhất nhà tôi xuống ở căn nhà của ông. Vì tôi mất nhà và sau 3 năm sẽ giải
quyết. Sau đó tôi có sửa căn nhà của ông để ở. Vì các lý do nêu trên tôi không
đồng ý với các yêu cầu của nguyên đơn, đề nghị Tòa án không chấp nhận yêu cầu
hủy giấy chứng nhận quyền sử dụng đất và yêu cầu về chia thừa kế của nguyên
đơn.
Tại biên bản lấy lời khai ngày 18/3/2024, bản khai ngày 18/3/2024 và tại
phiên tòa, bị đơn ông Nguyễn Quang T, có ý kiến:
Tại bản án dân sự sơ thẩm số: 01/2018/DS-ST ngày 09/02/2018 của Tòa án
nhân dân huyện Mai Châu quyết định:
"1. Chấp nhận yêu cầu khởi kiện của ông Lê Thanh H. Tuyên bố hợp đồng
chuyển nhượng quyền sử dụng đất với diện tích 172.8m
2
tại thửa số 7xx, tờ bản đồ
số 1x đã được UBND thị trấn Mai Châu chứng thực ngày 23/3/2016 là vô hiệu;
2. Buộc anh Nguyễn Quang T, Chi nhánh văn phòng đăng ký đất đai huyện
Mai Châu khôi phục để trả lại ông Lê Thanh H giấy chứng nhận QSDĐ Số
397/QSDĐ/583/QĐ-UB, bìa có số R 3642xx do UBND huyện Mai Châu cấp ngày
12/11/2003 mang tên Lê Thanh H."
Sau khi bản án trên có hiệu lực. Bố vợ tôi là ông Lê Thanh H làm đơn yêu
cầu thi hành án quyết định của bản án nêu trên. Trong quá trình thi hành án vợ
chồng tôi có nói với ông H và ông H cũng hiểu là vợ chồng tôi thực tế đã thực
hiện nghĩa vụ thay ông H số tiền 850.000.000 đồng theo quyết định thuận tình ly
hôn và sự thỏa thuận của các đương sự ngày 10/9/2015 của TAND huyện Mai
Châu và ngày 14/3/2016 vợ chồng tôi có chuyển cho ông H 50.000.000 đồng để
làm thủ tục chuyển nhà đất. Hai khoản tiền này vợ chồng tôi đã đi vay tại Ngân
hàng Công thương tỉnh Hòa Bình và trả lãi hàng tháng từ năm 2016. Ông H hiểu
điều đó nên đã thỏa thuận thống nhất với vợ chồng tôi là để nhà đất nêu trên cho
vợ chồng tôi sử dụng, không yêu cầu cơ quan có thẩm quyền hủy Giấy chứng
nhận QSDĐ đã cấp cho tôi nữa vì đằng nào khi bố vợ tôi cũng đã cho tôi và vợ tôi
nhà đất của ông. Vì vậy ngày 20/7/2019 ông H đã làm đơn đề nghị đến Chi cục thi
hành án dân sự huyện Mai Châu xin rút đơn yêu cầu thi hành án, đình chỉ thi hành
án vụ việc. Và ngày 23/7/2019 Chi cục thi hành án dân sự huyện Mai Châu đã ra
quyết định số: 05/QĐ-CCTHADS về việc đình chỉ thi hành án. Như vậy ông H đã
tự nguyện định đoạt để lại nhà đất cho vợ chồng tôi nên muốn rút đơn thi hành án
điều này được thể hiện ngay trong đơn đề nghị xin rút đơn yêu cầu thi hành án đề
ngày 20/7/2019 vì do là bố con với nhau nên không được lập bằng văn bản mà chỉ
7
thỏa thuận, thống nhất bằng lời nói. Đơn này có trưởng Tiểu khu x, thị trấn M,
huyện M nơi ông H cư trú chứng kiến đơn, chữ ký và vân tay của ông H là đúng
như trong đơn. Nhà và đất nêu trên là tài sản riêng của ông H ông đã định đoạt tài
sản riêng của mình như trên khi còn sống nên các anh chị em khác trong gia đình
không liên quan gì. Hơn nữa kể từ ngày 23/7/2019 Chi cục thi hành án dân sự
huyện Mai Châu ra quyết định về đình chỉ thi hành án đến ngày ông H mất ngày
24/12/2022 là hơn 03 năm ông H không có thay đổi sự định đoạt nhà đất của mình
nữa và các thành viên khác trong gia đình cũng không có ý kiến gì trong thời gian
này. Ngoài ra, ngày 03/12/2014 ông H đã viết giấy cho tài sản cho vợ chồng tôi để
lo cho việc ông không có chỗ ở đó chính là di chúc. Do đó tôi không đồng ý với
các yêu cầu của nguyên đơn, đề nghị Tòa án không chấp nhận yêu cầu hủy giấy
chứng nhận quyền sử dụng đất và yêu cầu về chia thừa kế của nguyên đơn.
Tại bản khai ngày 20/12/2023 người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan bà
Lê Thị L1 và ông Lê Trung H1 đều có ý kiến:
Năm 2022 bố chúng tôi mất, không để lại di chúc. Di sản bố chúng tôi để lại
là quyền sử dụng thửa đất số 6xx, tờ bản đồ số 1x, diện tích 201m
2
, đã được
UBND huyện Mai Châu cấp Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất số R 3642xx
ngày 12/11/2003 mang tên Lê Thanh H (hiện nay là thửa số 7xx, tờ bản đồ số 1x,
diện tích 172,8m
2
, theo Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất số CA 5198xx do Sở
Tài nguyên và môi trường tỉnh Hòa Bình cấp ngày 06/7/2016 mang tên Nguyễn
Quang T) và tài sản gắn liền với đất là căn nhà xây 02 tầng.
Về nguồn gốc tài sản nêu trên là của bố chúng tôi có được trong thời kỳ hôn
nhân với vợ hai là bà Trần Thị L. Tuy nhiên, đến năm 2015 bố chúng tôi và bà
Trần Thị L đã ly hôn và đã thỏa thuận phân chia tài sản khi ly hôn, theo đó hai bên
thỏa thuận bố chúng tôi được sở hữu và được quyền sử dụng toàn bộ phần diện
tích đất và tài sản gắn liền với đất đối với thửa đất nêu trên. Năm 2016, ông
Nguyễn Quang T (chồng bà Lê Thị L) đã làm giả chữ ký của bố chúng tôi trên
Hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất để sang tên toàn bộ thửa đất nêu trên
từ bố chúng tôi sang cho ông Tiến.
Ngày 19/10/2017, bố chúng tôi đã khởi kiện ông Nguyễn Quang T ra
TAND huyện Mai Châu và đề nghị TAND huyện Mai Châu giải quyết tuyên bố
hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất giữa bố chúng tôi và ông Nguyễn
Quang T đã được UBND thị trấn Mai Châu chứng thực giao dịch ngày 23/3/2016
đối với thửa đất số 7xx, tờ bản đồ số 1x, diện tích 172,8 m
2
là vô hiệu và yêu cầu
trả lại bố chúng tôi giấy chứng nhận quyền sử dụng đất số 397/QSDĐ/583/QĐ-UB
có số R 3642xx do UBND huyện Mai Châu cấp ngày 12/11/2003 mang tên Lê
Thanh H. Ngày 09/02/2018, TAND huyện Mai Châu đã đưa vụ án tranh chấp hợp
đồng dân sự giữa nguyên đơn là bố chúng tôi với bị đơn là ông Nguyễn Quang T
ra xét xử. Tại Bản án dân sự sơ thẩm số 01/2018/DS-ST ngày 09/2/2018 của
TAND huyện Mai Châu, quyết định:
"1. Chấp nhận yêu cầu khởi kiện của ông Lê Thanh H. Tuyên bố hợp đồng
chuyển nhượng quyền sử dụng đất với diện tích 172.8m
2
tại thửa số 727, tờ bản đồ
số 15 đã được UBND thị trấn Mai Châu chứng thực ngày 23/3/2016 là vô hiệu;
2. Buộc anh Nguyễn Quang T, Chi nhánh văn phòng đăng ký đất đai huyện
Mai Châu khôi phục để trả lại ông Lê Thanh H giấy chứng nhận QSDĐ Số
8
397/QSDĐ/583/QĐ-UB, bìa có số R 3642xx do UBND huyện Mai Châu cấp ngày
12/11/2003 mang tên Lê Thanh H."
Sau khi TAND huyện Mai Châu tuyên án, các đương sự không có ai có
kháng cáo, Viện kiểm sát nhân dân cũng không có kháng nghị. Quá trình thi hành
án, ngày 20/7/2019, bố chúng tôi đã có đơn đề nghị xin rút đơn yêu cầu thi hành
án và đình chỉ thi hành vụ việc. Ngày 23/7/2019, Chi cục thi hành án dân sự huyện
Mai Châu đã ra Quyết định số 05/QĐ-CCTHADS về việc đình chỉ thi hành án đối
với ông Nguyễn Quang T và Chi nhánh Văn phòng Đăng ký đất đai huyện Mai
Châu, tỉnh Hòa Bình.
Mặc dù phần phán quyết:“Buộc anh Nguyễn Quang T, Chi nhánh văn
phòng đăng ký đất đai huyện Mai Châu khôi phục để trả lại ông Lê Thanh H giấy
chứng nhận QSDĐ số 397/QSDĐ/583/QĐ-UB, bìa có số R 364242 do UBND
huyện Mai Châu cấp ngày 12/11/2003 mang tên Lê Thanh H” đã bị đình chỉ thi
hành án theo đơn đề nghị của bố chúng tôi, tuy nhiên phần diện tích đất nêu trên
vẫn là tài sản thuộc quyền sử dụng và quyền sở hữu hợp pháp của bố chúng tôi do
Hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất với diện tích 172.8m
2
tại thửa số
7xx, tờ bản đồ số 1x được UBND thị trấn Mai Châu chứng thực ngày 23/3/2016
đã được Tòa án nhân dân có thẩm quyền tuyên là vô hiệu. Toàn bộ tài sản trên đất
và quyền sử dụng đất vẫn do bố chúng tôi quản lý và sử dụng đến khi bố chúng tôi
mất.
Sau khi bố chúng tôi mất, bà Lê Thị L cùng ông Nguyễn Quang T đã tự ý sử
dụng toàn bộ diện tích nhà, đất do bố chúng tôi để lại mà không được sự đồng ý
của tất cả những người thuộc hàng thừa kế thứ nhất của bố chúng tôi. Do đó đề
nghị Tòa án phân chia di sản thừa kế của bố chúng tôi theo quy định pháp luật.
Ngoài các vấn đề nêu trên chúng tôi không yêu Tòa án giải quyết vấn đề gì khác.
Tại phiên tòa người được ủy quyền của bà Lê Thị L1 và ông Lê Trung
H1 là bà Dương Thị H có ý kiến: Quá trình giải quyết vụ án bà L1 với ông H1 đã
có bản khai tại hồ sơ. Các ý kiến này giống với ý kiến của nguyên đơn. Tại phiên
tòa hôm nay tôi tham gia tố tụng với bên nguyên đơn và tôi hoàn toàn nhất trí với
phần trình bày của nguyên đơn và không bổ sung gì thêm.
Tại bản tự khai ngày 17/12/2023 những người có quyền lợi, nghĩa vụ
liên quan bà Lê Thị N, bà Lê Thị H, anh Lê Văn C và anh Lê Việt L, đều có ý
kiến:
Bản thân chúng tôi đều là những người không hiểu biết gì về pháp luật.
Trước vụ án yêu cầu hủy Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất và tranh chấp về
thừa kế tài sản này. Chúng tôi đề nghị Tòa án giải quyết theo quy định của pháp
luật. Ngoài các vấn đề nêu trên chúng tôi không đề nghị Tòa án giải quyết vấn đề
gì khác.
Tại văn bản số: 3348/STNMT-TTr ngày 06/8/2024, Sở T tnh Hòa Bình
có ý kiến:
Sở T tỉnh Hòa Bình nhận Thông báo thụ lý vụ án dân sự số 03/2024/TLST-
DS ngày 04/3/2024; Quyết định đưa vụ án ra xét xử sơ thẩm số
03/2024/QĐXXST-DS ngày 09/7/2024 của Toà án nhân dân huyện Mai Châu về
9
việc yêu cầu hủy Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất và tranh chấp về thừa kế tài
sản.
Đối với nội dung yêu cầu hủy giấy chứng nhận quyền sử dụng đất của
nguyên đơn: Ngày 06/7/2016, Sở T tỉnh Hòa Bình đã cấp Giấy chứng nhận quyền
sử dụng đất số vào sổ cấp GCN: 2008 cho ông Nguyễn Quang T, sinh năm 1963,
nơi cư trú: Tiểu khu x, thị trấn M, huyện M, tỉnh Hoà Bình. Ngày 09/02/2018, Toà
án nhân dân huyện Mai Châu đã xét xử và ban hành bản án số: 01/2018/DS-ST.
“1. Chấp nhận yêu cầu khởi kiện của ông Lê Thanh H. Tuyên bố hợp đồng
chuyển nhượng quyền sử dụng đất với diện tích 172,8 m
2
tại thửa đất 7xx, tờ bản
đồ 1x, đã được UBND thị trấn Mai Châu chứng thực ngày 23/3/2016 là vô hiệu.
2. Buộc anh Nguyễn Quang T, Chi nhánh Văn phòng đăng ký đất đai huyện
Mai Châu khôi phục để trả lại ông Lê Thanh H giấy chứng nhận QSD đất số
397/QSDĐ/583/QĐ-UB, R 3642xx do UBND huyện Mai Châu cấp ngày
12/11/2003 mang tên Lê Thanh H.”
Bản án số 01/2018/DS-ST đã có hiệu lực và Chi cục Thi hành án dân sự
huyện Mai Châu đã ra Quyết định thi hành nhưng ông Lê Thanh H có đơn yêu cầu
đình chỉ thi hành án và Chi cục Thi hành án dân sự huyện Mai Châu đã ra Quyết
định đình chỉ thi hành án số: 05/QĐ-CCTHADS ngày 23/7/2019, do vậy Sở T tỉnh
Hòa Bình không hủy bỏ Giấy chứng nhận QSD đất đã cấp cho ông Nguyễn Quang
T, hiện nay Giấy chứng nhận QSD đất nêu trên vẫn đang có hiệu lực.
Đối với nội dung tranh chấp về thừa kế tài sản, Sở T tỉnh Hòa Bình không
liên quan.
Sở T tỉnh Hòa Bình đề nghị Toà án nhân dân huyện Mai Châu giải quyết vụ
án theo quy định của pháp luật và xét xử vắng mặt Sở T trong phiên xét xử ngày
07/8/2024 và các phiên tòa khác nếu phiên tòa ngày 07/8/2024 phải hoãn.
Tại phiên tòa đại diện Viện kiểm sát nhân dân huyện Mai Châu phát
biểu quan điểm về vụ án, tóm tắt như sau:
- Về tuân theo pháp luật tố tụng: Qua kiểm sát quá trình giải quyết vụ án
thấy, vụ án thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa án nhân dân huyện Mai Châu.
Quá trình giải quyết Tòa án nhân dân huyện Mai Châu đã thụ lý, thu thập các tài
liệu chứng cứ và giải quyết vụ án theo đúng trình tự thủ tục quy định của Bộ luật
Tố tụng dân sự. Quá trình giải quyết và tại phiên tòa Thẩm phán, Thư ký và Hội
đồng xét xử đã tuân thủ các quy định có liên quan của Bộ luật Tố tụng dân sự. Từ
khi thụ lý vụ án đến phiên tòa ngày hôm nay, đối với nguyên đơn; bị đơn; người
có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan đã thực hiện đúng quy định của Bộ luật Tố tụng
dân sự. Người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan Sở T tỉnh Hòa Bình không có mặt
tại các lần giải quyết trước thời điểm xét xử.
- Ý kiến về giải quyết vụ án: Qua ý kiến trình bày của các bên đương sự, các
chứng cứ mà đương sự đã cung cấp có trong hồ sơ vụ án được xem xét tại phiên
tòa, thể hiện Hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất với diện tích 172.8m
2
và tài sản gắn liền trên đất tại thửa số 7xx, tờ bản đồ số 1x được UBND thị trấn
Mai Châu chứng thực ngày 23/3/2016 giữa ông Lê Thanh H và ông Nguyễn
Quang T đã bị Tòa án tuyên vô hiệu. Nhưng quá trình thi hành bản án số:
01/2018/DS-ST ngày 09/2/2018 của TAND huyện Mai Châu. Đến ngày 20/7/2019
ông Lê Thanh H đã có đơn về việc rút yêu cầu thi hành án và đề nghị đình chỉ thi
10
hành án đối với bản án nêu trên, hơn nữa lý do đề nghị đình chỉ theo bên bị đơn
trình bày là do ông H đã hiểu là vợ chồng ông Nguyễn Quang T, bà Lê Thị L đã
thực hiện nhiều nghĩa vụ thay cho ông H và phải chịu lãi suất của số tiền đã thực
hiện thay nên đã để cho vợ chồng ông T, bà L sử dụng nhà đất và cũng vì vậy
không yêu cầu cơ quan có thẩm quyền hủy Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất đã
cấp cho ông Nguyễn Quang T. Những vấn đề này phù hợp với lời khai của vợ
chồng ông T, bà L; phù hợp với ý chí của ông H về tài sản là nhà và đất của mình
trong đơn đề nghị về việc đình chỉ thi hành án đề ngày 20/7/2019 đối với bản án
nêu trên. Như vậy yêu cầu về hủy Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất đã cấp cho
ông Nguyễn Quang T của nguyên đơn đã được giải quyết bằng quyết định có hiệu
lực của cơ quan có thẩm quyền tại Quyết định về việc đình chỉ thi hành án số:
05/QĐ-CCTHADS ngày 23/7/2019 của Chi cục Thi hành án dân sự huyện Mai
Châu. Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất mà Sở Tài nguyên và Môi trường tỉnh
Hòa Bình cấp cho ông Nguyễn Quang T đang có hiệu lực. Do vậy yêu cầu về chia
thừa kế là không có căn cứ. Đề nghị Hội đồng xét xử bác toàn bộ yêu cầu của
nguyên đơn và những người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan tham gia tố tụng với
bên nguyên đơn theo quy định của điểm g khoản 1 Điều 217; điểm c khoản 1 Điều
192 của Bộ luật Tố tụng dân sự; khoản 1, 2 Điều 237 Bộ luật Dân sự. Đối với các
vấn đề khác đề nghị Hội đồng xét xử giải quyết theo quy định của pháp luật.
NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN:
Sau khi nghiên cứu tài liệu, chứng cứ có trong hồ sơ vụ án đã được thẩm tra
tại phiên tòa và căn cứ vào kết quả tranh luận tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận
định:
[1] Về thẩm quyền giải quyết vụ án: Thuộc thẩm quyền giải quyết của
Tòa án nhân dân huyện Mai Châu theo khoản 5 Điều 26, điểm a khoản 1 Điều 35,
điểm a khoản 1 Điều 39; của Bộ luật Tố tụng dân sự.
[2] Về việc vắng mặt người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan: Bà Lê Thị
N, bà Lê Thị H, anh Lê Văn C, anh Lê Việt L và Sở T tỉnh Hòa Bình vắng mặt đã
có lời khai, ý kiến đã có đơn đề nghị xử vắng mặt, nên vẫn tiến hành xét xử vụ án,
không hoãn phiên tòa. Căn cứ Điều 227; Điều 228 Bộ luật Tố tụng dân sự.
[3] Xét yêu cầu của nguyên đơn và ý kiến của người bảo vệ quyền và lợi
ích hợp pháp của nguyên đơn, sau khi xem xét ý kiến phát biểu của Kiểm sát
viên:
Đối với yêu cầu hủy Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất: Qua ý kiến trình
bày của các bên đương sự, các tài liệu, chứng cứ mà đương sự đã cung cấp và các
tài liệu, chứng cứ mà Tòa án thu thập có trong hồ sơ vụ án được xem xét tại phiên
tòa, thể hiện Hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất với diện tích 172,8 m
2
và tài sản gắn liền trên đất tại thửa số 7xx, tờ bản đồ số 1x, vị trí tại Tiểu khu x, thị
trấn M, huyện M, tỉnh Hòa Bình được chứng thực ngày 23/3/2016 giữa ông Lê
Thanh H và ông Nguyễn Quang T đã bị Tòa án tuyên vô hiệu tại Bản án số:
01/2018/DS-ST ngày 09/2/2018 của TAND huyện Mai Châu. Cụ thể đã tuyên:
"1. Chấp nhận yêu cầu khởi kiện của ông Lê Thanh H. Tuyên bố hợp đồng
chuyển nhượng quyền sử dụng đất với diện tích 172.8m
2
tại thửa số 7xx, tờ bản đồ
số 1x đã được UBND thị trấn Mai Châu chứng thực ngày 23/3/2016 là vô hiệu;
11
2. Buộc anh Nguyễn Quang T, Chi nhánh văn phòng đăng ký đất đai huyện
Mai Châu khôi phục để trả lại ông Lê Thanh H giấy chứng nhận QSDĐ Số
397/QSDĐ/583/QĐ-UB, bìa có số R 3642xx do UBND huyện Mai Châu cấp ngày
12/11/2003 mang tên Lê Thanh H."
Tuy nhiên quá trình thi hành bản án, đến ngày 20/7/2019 ông Lê Thanh H
đã có đơn về việc đề nghị xin rút đơn yêu cầu thi hành án và đình chỉ thi hành án
đối với bản án nêu trên, cơ quan thi hành án dân sự huyện Mai Châu đã lập biên
bản về việc người được thi hành án yêu cầu đình chỉ thi hành án và ban hành
Quyết định về việc đình chỉ thi hành án số: 05/QĐ-CCTHADS ngày 23/7/2019,
hơn nữa lý do đề nghị đình chỉ theo bên bị đơn trình bày là do ông H đã hiểu là vợ
chồng ông Nguyễn Quang T, bà Lê Thị L đã thực hiện nghĩa vụ thay cho ông Hải
bằng tiền nên đã cho vợ chồng ông T, bà L nhà và đất của mình trước khi làm đơn
nêu trên. Những vấn đề này phù hợp với ý chí của ông Hải về định đoạt tài sản là
nhà và đất của mình thể hiện trong đơn đề nghị về việc xin rút yêu cầu thi hành án
và đình chỉ thi hành án đề ngày 20/7/2019, đối với tài sản là đất và nhà của ông H
khi chuyển nhượng cho ông T, ông H đã có giấy chứng nhận quyền sử dụng đất,
khi ông rút đơn yêu cầu thi hành án nêu trên như vậy là ông H đã tự định đoạt, tự
từ bỏ quyền được khôi phục lại giấy chứng nhận quyền sử dụng đất mà Bản án số:
01/2018/DS-ST ngày 09/02/2018 của Tòa án nhân dân huyện Mai Châu đã tuyên,
nên Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất đã cấp cho ông Nguyễn Quang T vẫn
đang có hiệu lực. Kể từ khi có quyết định đình chỉ thi hành án đến khi chết là trên
03 năm ông Hải không có ý kiến, yêu cầu thi hành án trở lại và ông Hải đã được
cơ quan thi hành án giải thích và biết về việc yêu cầu đình chỉ thi hành án thì ông
Hải không có quyền thi hành án trở lại được thể hiện tại Biên bản về việc người
được thi hành án yêu cầu đình chỉ thi hành án, biểu mẫu biên bản này được ban
hành kèm theo Thông tư số 01/2016/TT-BTP ngày 01/02/2016 của Bộ Tư pháp.
Như vậy yêu cầu về hủy Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất đã cấp cho ông
Nguyễn Quang T của nguyên đơn đã được giải quyết bằng quyết định có hiệu lực
của cơ quan có thẩm quyền tại Quyết định về việc đình chỉ thi hành án số: 05/QĐ-
CCTHADS ngày 23/7/2019 của Chi cục Thi hành án dân sự huyện Mai Châu. Nên
cần đình chỉ yêu cầu hủy Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất do Sở Tài nguyên
và Môi trường tỉnh Hòa Bình đã cấp cho ông Nguyễn Quang T số vào sổ cấp GCN
2008 ngày 06/7/2016. Căn cứ vào Điều 50 và 52 Luật thi hành án dân sự; điểm g
khoản 1 Điều 217; điểm c khoản 1 Điều 192; khoản 2 Điều 235 Bộ luật Tố tụng
dân sự.
Đối với yêu cầu chia thừa kế: Đối với tài sản có yêu cầu chia thừa kế là đất
và nhà gắn liền với đất của ông Lê Thanh H có liên quan đến yêu cầu hủy giấy
chứng nhận quyền sử dụng đất. Do yêu cầu về hủy Giấy chứng nhận quyền sử
dụng đất đã cấp cho ông Nguyễn Quang T của nguyên đơn đã được giải quyết
bằng quyết định có hiệu lực của cơ quan có thẩm quyền, Giấy chứng nhận quyền
sử dụng đất mà Sở Tài nguyên và Môi trường tỉnh Hòa Bình cấp cho ông Nguyễn
Quang T đang có hiệu lực được nhận định tại mục [3] nêu trên. Do vậy yêu cầu về
chia thừa kế là không có căn cứ. Căn cứ khoản 2 Điều 237; 239 Bộ luật Dân sự.
[4] Đối với ý kiến của các bị đơn: Không chấp nhận yêu cầu về chia thừa
kế của nguyên đơn và không đồng ý với yêu cầu hủy giấy chứng nhận quyền sử
12
dụng đất đã cấp cho ông T, ý kiến này phù hợp với nhận định tại mục [3] bản án
này nên xác định được là có căn cứ.
[5] Đối với ý kiến của những người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan:
- Bà Lê Thị L1 và ông Lê Trung H1 tại bản tự khai và ý kiến của người
được bà L1, ông H1 ủy quyền đều có ý kiến đề nghị hủy Giấy chứng nhận quyền
sử dụng đất và chia thừa kế đối với ý kiến này như đã nhận định tại mục [3] bản án
này nên các ý kiến này không có căn cứ.
- Bà Lê Thị , bà Lê Thị H, anh Lê Văn C và anh Lê Việt L đều có ý kiến đề
nghị giải quyết vụ án theo quy định của pháp luật, giải quyết theo quy định của
pháp luật là như đã nhận định tại mục [3] bản án này. Các yêu cầu cầu hủy giấy
chứng nhận quyền sử dụng đất đã cấp cho ông Nguyễn Quang T và yêu cầu chia
thừa kế của nguyên đơn là không có căn cứ.
- Đối với ý kiến của Sở T tỉnh Hòa Bình là không hủy Giấy chứng nhận
quyền sử dụng đất số vào sổ cấp GCN: 2008, ngày 06/7/2016 cho ông Nguyễn
Quang T, sinh năm 1963, nơi cư trú: Tiểu khu x, thị trấn M, huyện M, tỉnh Hoà
Bình. Do quá trình thi hành án ông Lê Thanh Hcó đề nghị xin rút đơn yêu cầu thi
hành án và đình chỉ thi hành án nên Chi cục Thi hành án dân sự huyện Mai Châu
đã ra Quyết định đình chỉ thi hành án số: 05/QĐ-CCTHADS ngày 23/7/2019, do
vậy Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất nêu trên vẫn đang có hiệu lực. Ý kiến này
phù hợp với quy định của pháp luật như đã nhận định tại mục [3] bản án này.
Ngoài ra phía bị đơn trình bày có di chúc của ông Lê Thanh H để lại tài sản
cho cho bà Lê Thị L và ông Nguyễn Quang T. Tại phiên tòa bà L và ông T đã
công nhận không phải là di chúc mà là văn bản khác, nên không xét đến. Đối với ý
kiến của người bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp cho nguyên đơn có ý kiến về cách
thức chia di sản. Xét thấy không có căn cứ về chia thừa kế nêu trên, nên không
xem xét giải quyết ý kiến này.
[6] Về án phí: Do Hội đồng xét xử có căn cứ không chấp nhận yêu cầu chia
thừa kế theo yêu cầu của nguyên đơn nên bà Lê Thị P chỉ phải chịu án phí dân sự
sơ thẩm không có giá ngạch. Căn cứ vào quy định tại Điều 147 Bộ luật Tố tụng
dân sự; điểm a khoản 7 Điều 27 Nghị quyết 326/2016/UBTVQH 14 ngày
30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc Hội về mức thu, miễn, giảm thu nộp,
quản lý và sử dụng án phí, lệ phí Tòa án. Tiền tạm ứng án phí nguyên đơn đã nộp
được trả lại phần còn lại sau khi đã đối trừ nghĩa vụ án phí không có giá ngạch
phải nộp.
[7] Về chi phí tố tụng: Các đương sự không ai có ý kiến gì về chi phí tố
tụng nên không xem xét giải quyết.
[8] Về quyền kháng cáo: Căn cứ vào Điều 271, khoản 1, 3 Điều 273 của
Bộ luật Tố tụng dân sự, các đương sự có quyền kháng cáo bản án trong thời hạn
15 ngày, kể từ ngày tuyên án sơ thẩm. Người vắng mặt có quyền kháng cáo cùng
thời hạn kể từ ngày nhận được bản án hoặc kể từ ngày bản án được tống đạt hợp
lệ.
Vì các lẽ trên,
QUYẾT ĐỊNH:
Căn cứ vào: Khoản 5 Điều 26, điểm a khoản 1 Điều 35, điểm a khoản 1
Điều 39; Điều 227; Điều 228 của Bộ luật Tố tụng dân sự;
13
Căn cứ Điều 50 và Điều 52 Luật thi hành án dân sự; điểm g khoản 1 Điều
217; điểm c khoản 1 Điều 192; khoản 2 Điều 235 của Bộ luật Tố tụng dân sự;
Căn cứ khoản 2 Điều 237; Điều 239 Bộ luật Dân sự;
Căn cứ Điều 147 Bộ luật Tố tụng dân sự; điểm a, khoản 7 Điều 27 Nghị
quyết 326/2016/UBTVQH 14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc Hội
về mức thu, miễn, giảm thu nộp, quản lý và sử dụng án phí, lệ phí Tòa án;
Căn cứ Điều 271; khoản 1, 3 Điều 273 Bộ luật Tố tụng dân sự;
Căn cứ các nhận định nêu trên.
1. Đình chỉ yêu cầu hủy Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất do Sở Tài
nguyên và Môi trường tỉnh Hòa Bình đã cấp cho ông Nguyễn Quang T số vào sổ
cấp GCN 2008 ngày 06/7/2016.
2. Không chấp nhận yêu cầu chia thừa kế của nguyên đơn bà Lê Thị P.
3. Về án phí: Bà Lê Thị P phải nộp 300.000 đồng án phí dân sự sơ thẩm.
Được đối trừ vào số tiền tạm ứng án phí bà P đã nộp 6.964.000 đồng, trả lại cho bà
Lê Thị P 6.664.000 đồng, theo Biên lai thu tạm ứng án phí, lệ phí Tòa án số:
0003xxx ngày 21/11/2023 của Chi cục Thi hành án dân sự huyện Mai Châu, tỉnh
Hòa Bình.
Trong thời hạn 15 ngày, kể từ ngày tuyên án các đương sự có quyền kháng
cáo bản án lên Tòa án nhân dân tỉnh Hòa Bình để xét xử phúc thẩm, theo quy định
của pháp luật. Người vắng mặt có quyền kháng cáo cùng thời hạn kể từ ngày nhận
được bản án hoặc kể từ ngày bản án được tống đạt hợp lệ.
Nơi nhận: TM - HỘI ĐỒNG XÉT XỬ SƠ THẨM
- TAND tỉnh HB; Thẩm phán – Chủ tọa phiên tòa
- VKSND tỉnh HB;
- VKSND huyện MC;
- THA dân sự; (đã ký)
- UBND thị trấn Mai Châu;
- Các đương sự;
- Lưu hồ sơ.
Phạm Thanh Tùng
Tải về
Bản án số 03/2024/DS
Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để tải file. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!
Bản án số 03/2024/DS
Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để tải file. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!
Bản án/ Quyết định cùng đối tượng
1
Ban hành: 26/12/2024
Cấp xét xử: Sơ thẩm
2
Ban hành: 24/12/2024
Cấp xét xử: Sơ thẩm
3
Ban hành: 24/12/2024
Cấp xét xử: Sơ thẩm
4
Ban hành: 19/12/2024
Cấp xét xử: Sơ thẩm
5
Ban hành: 19/12/2024
Cấp xét xử: Sơ thẩm
6
Ban hành: 18/12/2024
Cấp xét xử: Sơ thẩm
7
Ban hành: 12/12/2024
Cấp xét xử: Sơ thẩm
8
Ban hành: 12/12/2024
Cấp xét xử: Sơ thẩm
9
Ban hành: 09/12/2024
Cấp xét xử: Sơ thẩm
10
Ban hành: 09/12/2024
Cấp xét xử: Sơ thẩm
11
Ban hành: 09/12/2024
Cấp xét xử: Sơ thẩm
12
Ban hành: 05/12/2024
Cấp xét xử: Sơ thẩm
13
Ban hành: 03/12/2024
Cấp xét xử: Sơ thẩm
14
Ban hành: 29/11/2024
Cấp xét xử: Sơ thẩm
15
Ban hành: 29/11/2024
Cấp xét xử: Sơ thẩm
16
Ban hành: 29/11/2024
Cấp xét xử: Sơ thẩm
17
Ban hành: 29/11/2024
Cấp xét xử: Sơ thẩm
18
Ban hành: 28/11/2024
Cấp xét xử: Sơ thẩm
19
Ban hành: 27/11/2024
Cấp xét xử: Sơ thẩm
20
Ban hành: 26/11/2024
Cấp xét xử: Sơ thẩm