Bản án số 01/2025/DS ngày 02/01/2025 của TAND tỉnh Quảng Nam về tranh chấp hợp đồng vay tài sản
- Thuộc tính
- Nội dung
- VB gốc
- VB liên quan
- Lược đồ
- Đính chính
- Án lệ
- BA/QĐ cùng nội dung
- Tải về
Tải văn bản
-
Bản án số 01/2025/DS
Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để tải file. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!
-
Bản án số 01/2025/DS
Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để tải file. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!
Báo lỗi
Thuộc tính Bản án 01/2025/DS
Tên Bản án: | Bản án số 01/2025/DS ngày 02/01/2025 của TAND tỉnh Quảng Nam về tranh chấp hợp đồng vay tài sản |
---|---|
Quan hệ pháp luật: | Tranh chấp hợp đồng vay tài sản |
Cấp xét xử: | Phúc thẩm |
Tòa án xét xử: | TAND tỉnh Quảng Nam |
Số hiệu: | 01/2025/DS |
Loại văn bản: | Bản án |
Ngày ban hành: | 02/01/2025 |
Lĩnh vực: | Dân sự |
Áp dụng án lệ: |
Đã biết
Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để xem áp dụng án lệ. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây! |
Đính chính: |
Đã biết
Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để xem đính chính. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây! |
Thông tin về vụ/việc: | Tranh chấp hợp đồng vay tài sản giữa nguyên đơn ông Nguyễn Xuân L với bị đơn ông Lê Ngọc C, bà Võ Thị H, ông Lê Ngọc T |
Tóm tắt Bản án
Nội dung tóm tắt đang được cập nhật, Quý khách vui lòng quay lại sau!
Tải văn bản

1
TÒA ÁN NHÂN DÂN
TỈNH QUẢNG NAM
Bản án số: 01/2025/DS – PT
Ngày 02 – 01 – 2025;
“Tranh chấp hợp đồng vay tài sản”
CỘNG HÒA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM
Độc lập - Tự do - Hạnh phúc
NHÂN DANH
NƯỚC CỘNG HOÀ XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM
TÒA ÁN NHÂN DÂN TỈNH QUẢNG NAM
- Thành phần Hội đồng xét xử phúc thẩm gồm có:
Thẩm phán - Chủ tọa phiên tòa:
Các Thẩm phán:
ông Nguyễn Văn Dũng.
ông Nguyễn Hữu Thịnh;
bà Võ Thị Minh Phượng.
- Thư ký phiên tòa: bà Đỗ Thị Thu Thảo - Thư ký Tòa án nhân dân tỉnh
Quảng Nam.
- Đại diện Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Quảng Nam tham gia phiên tòa: ông
Nguyễn Quang Minh - Kiểm sát viên.
Ngày 02 tháng 01 năm 2025, tại trụ sở Tòa án nhân dân tỉnh Quảng Nam, xét
xử phúc thẩm công khai vụ án thụ lý số 99/2024/TLPT-DS ngày 04 tháng 11 năm
2024 về việc “Tranh chấp hợp đồng vay tài sản”;
Do Bản án dân sự sơ thẩm số 64/2024/DS - ST ngày 26 tháng 9 năm 2024
của Tòa án nhân dân huyện P, tỉnh Quảng Nam bị kháng cáo và kháng nghị.
Theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử phúc thẩm số 100/2024/QĐ - PT ngày
12 tháng 11 năm 2024, giữa các đương sự:
- Nguyên đơn: ông Nguyễn Xuân L, sinh năm 1998; địa chỉ: thôn K, xã T,
huyện P, tỉnh Quảng Nam.
- Các bị đơn: ông Lê Ngọc C, sinh năm 1955; bà Võ Thị H, sinh năm 1958;
ông Lê Ngọc T, sinh năm 1989; cùng địa chỉ: thôn L, xã T, huyện P, tỉnh Quảng
Nam.
- Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan: bà Lê Thị Thúy P, sinh năm 1979;
địa chỉ: thôn C, xã T, huyện P, tỉnh Quảng Nam.
- Người kháng cáo: các bị đơn Lê Ngọc C và Võ Thị H, người có quyền lợi,
nghĩa vụ liên quan Lê Thị Thúy P.
- Viện kiểm sát kháng nghị: Quyết định kháng nghị số 27/QĐ-VKS – DS ngày
24 tháng 10 năm 2024 của Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Quảng Nam.
Các ông, bà L, H, T, P có mặt. Ông C vắng mặt.
NỘI DUNG VỤ ÁN:
Phía nguyên đơn cho rằng: ngày 15 tháng 01 năm 2024, tại xã T, vợ chồng
ông Lê Ngọc C, bà Võ Thị H và con là Lê Ngọc T có lập “Giấy mượn tiền”, vay
của ông Nguyễn Xuân L số tiền 1.000.000.000 (một tỷ) đồng, lãi vay theo thỏa
thuận, hạn trả 30 ngày. Sau khi vay, phía bị đơn đã trả 8.500.000 đồng tiền lãi. Đến
hạn trả nợ, bên vay vi phạm nghĩa vụ trả lãi và gốc. Nguyên đơn yêu cầu Toà án
buộc ông Lê Ngọc C, bà Võ Thị H, ông Lê Ngọc T trả cho ông Nguyễn Xuân L số
tiền vay 1.000.000.000 đồng và số tiền lãi tính từ ngày 15/02/2024 đến ngày
26/9/2024 (ngày xét xử sơ thẩm) là 52.889.000 đồng, tổng cộng là 1.052.889.000
đồng.
Các bị đơn ông Lê Ngọc T, Võ Thị H cho rằng: giao dịch mượn tiền ngày
2
15/01/2024 như ông L trình bày là đúng. Khi mượn tiền thì gia đình ông đã đưa cho
ông L 02 Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất (giấy chứng nhận) số CX714681 và
CX714682 do UBND huyện P cấp cho hộ ông Lê Ngọc C ngày 04/02/2021. Mục
đích mượn tiền để cho bà Lê Thị Thúy P xử lý nợ, lãi suất 75.000.000 đồng/tháng.
Ông L đã chuyển tiền qua số tài khoản của bà P. Sau thời gian mượn tiền 01 tháng,
con gái của bà P có đưa cho ông L số tiền lãi 45.000.000 đồng, sau đó Lê Ngọc V
(anh trai ông T) có đưa cho ông L số tiền 8.500.000 đồng. Ông T thống nhất chịu
trách nhiệm trả hết số nợ cho ông L, nhưng ông T đề nghị ông L phải trừ số tiền gia
đình đã trả vào tiền gốc hoặc lãi cho rõ ràng; khi gia đình ông trả nợ thì đề nghị ông
L trả lại 02 giấy chứng nhận cho gia đình ông. Bị đơn Lê Ngọc C không phản hồi ý
kiến.
Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan Lê Thị Thúy P trình bày: ngày
15/01/2024 bà P có liên hệ với ông Nguyễn Xuân L để mượn số tiền 1.000.000.000
đồng, do không có tài sản thế chấp nên bà có nhờ ba, mẹ và em trai đem 02 giấy
chứng nhận của ba, mẹ bà đến ông L để ký giấy vay tiền. Sau khi lập giấy, ông L
chuyển khoản qua cho bà số tiền 1.000.000.000 đồng. Vào ngày 29 âm lịch tết
Nguyên đán, con gái bà trả cho ông L số tiền 45.000.000 đồng và sau này em trai bà
trả cho ông L số tiền 8.500.000 đồng. Bà đề nghị Tòa án xem xét giải quyết theo
quy định.
Với nội dung như trên, tại Bản án dân sự sơ thẩm số 64/2024/DS - ST ngày 26
tháng 9 năm 2024 của Tòa án nhân dân huyện P, tỉnh Quảng Nam đã căn cứ các
điều 26, 35, 39, 147, 227, 228, 271, 273 Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2015; các điều
288, 290, 463, 466, 468 Bộ luật dân sự năm 2015; Nghị quyết 01/2019/NQ-HĐTP
ngày 11 tháng 01 năm 2019 của Hội đồng thẩm phán Tòa án nhân dân Tối cao;
Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ
Quốc hội, xử: chấp nhận toàn bộ yêu cầu khởi kiện của ông Nguyễn Xuân L, buộc
ông Lê Ngọc C, bà Võ Thị H, ông Lê Ngọc T phải liên đới chịu trách nhiệm trả cho
ông Nguyễn Xuân L số tiền là 1.052.889.000 đồng; trong đó nợ gốc là
1.000.000.000 đồng, nợ lãi tính đến ngày 26 tháng 9 năm 2024 là 52.889.000 đồng.
Chia phần: ông Lê Ngọc C, bà Võ Thị H, ông Lê Ngọc T mỗi người trả cho ông
Nguyễn Xuân L số tiền gốc 333.333.333 đồng; số tiền lãi là 17.629.667 đồng.
Ngoài ra, Bản án sơ thẩm còn quyết định án phí, nghĩa vụ thi hành án và quyền
kháng cáo của các đương sự.
Sau khi xét xử sơ thẩm, trong các ngày 03/10/2024 và 10/10/2024, các bị đơn
Lê Ngọc C và Võ Thị H, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan Lê Thị Thúy P
kháng cáo toàn bộ bản án sơ thẩm. Ngày 24/10/2024, Viện trưởng Viện kiểm sát
nhân dân tỉnh Quảng Nam kháng nghị toàn bộ bản án sơ thẩm.
Tại phiên tòa phúc thẩm, đại diện Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Quảng Nam rút một
phần nội dung kháng nghị và phát biểu ý kiến: Tòa án, người tiến hành tố tụng,
người tham gia tố tụng đã đảm bảo các quy định của pháp luật tố tụng dân sự trong
quá trình thụ lý, xét xử vụ án; đề nghị Hội đồng xét xử chấp nhận kháng nghị,
kháng cáo, sửa một phần bản án sơ thẩm theo hướng buộc nguyên đơn trả lại các
giấy chứng nhận quyền sử dụng đất cho hộ ông Lê Ngọc C và tính án phí đúng quy
định của pháp luật.
3
NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN:
Căn cứ vào các tài liệu, chứng cứ đã được xem xét tại phiên tòa, kết quả
tranh tụng tại phiên tòa, ý kiến phát biểu của đại diện Viện kiểm sát, Hội đồng xét
xử phúc thẩm nhận định:
[1]. Tại phiên tòa phúc thẩm, nguyên đơn không rút đơn khởi kiện; các ông
bà Lê Ngọc C, Võ Thị H, Lê Thị Thúy P không rút đơn kháng cáo; đại diện Viện
kiểm sát thông báo rút một phần nội dung kháng nghị; các đương sự không thỏa
thuận được việc giải quyết vụ án.
[2] Xét kháng nghị, kháng cáo
[2.1]. Về tính hợp pháp của kháng cáo, kháng nghị và thủ tục tố tụng tại cấp
phúc thẩm
[2.1.1]. Việc kháng cáo của bị đơn, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan và
kháng nghị của Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Quảng Nam thực hiện
trong thời hạn, được thụ lý đúng điều kiện, thủ tục và thẩm quyền theo quy định của
Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2015, nên kháng nghị của Viện trưởng Viện kiểm sát
nhân dân tỉnh Quảng Nam và kháng cáo của các ông, bà Lê Ngọc C, Võ Thị H, Lê
Thị Thúy P là hợp pháp.
[2.1.2]. Tại phiên tòa, đại diện Viện kiểm sát rút một phần kháng nghị, giữ nội
dung kháng nghị bản án sơ thẩm về tính án phí và giải quyết quyền lợi, nghĩa vụ của
đương sự phát sinh từ việc giao nhận giấy chứng nhận quyền sử dụng đất thuộc giao
dịch đang tranh chấp. Hội đồng xét xử căn cứ khoản 3 Điều 289 Bộ luật Tố tụng
dân sự năm 2015, đình chỉ xét xử phúc thẩm một phần kháng nghị của Viện trưởng
Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Quảng Nam.
[2.1.3]. Sau khi xét xử sơ thẩm, các bà Võ Thị Ngọc S, Phạm Thị Đ có văn bản
xác định không có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan và không khiếu nại kết quả xét xử
sơ thẩm, nên Hội đồng xét xử căn cứ Điều 5 Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2015,
không xác định các bà Võ Thị Ngọc S, Phạm Thị Đ là người có quyền lợi, nghĩa vụ
liên quan đến vụ án.
[2.2]. Về nội dung
Thứ nhất, trong quá trình tố tụng, các bị đơn và bà Lê Thị Thúy P thừa nhận
đã tự nguyện ký giấy mượn tiền lập ngày 15 tháng 01 năm 2024 và bà P đã nhận số
tiền nguyên đơn chuyển là 1.000.000.000 đồng; đến thời điểm giải quyết vụ án, các
bị đơn và bà P chưa trả số tiền 1.000.000.000 đồng cho nguyên đơn. Đây là các tình
tiết, sự việc không phải chứng minh theo quy định tại Điều 92 Bộ luật Tố tụng dân
sự năm 2015 và là cơ sở để Hội đồng xét xử xác định: Tòa án cấp sơ thẩm xác định
giao dịch vay tiền có hiệu lực, buộc bên vay tiền trả số nợ gốc đến hạn cho nguyên
đơn là có căn cứ pháp luật và đúng với sự kiện pháp lý đã xảy ra. Ông C, bà H và bà
P kháng cáo cho rằng C, bà H, ông T chỉ ký vào Giấy mượn tiền với tư cách là
người bảo lãnh nên nghĩa vụ trả nợ là của bà P, nhưng quan điểm này không được
phía nguyên đơn đồng ý, không có chứng cứ chứng minh, không phù hợp với các
chủ thể đứng tên “Người mượn tiền” thể hiện trong giấy mượn tiền, không đảm bảo
điều kiện chuyển giao nghĩa vụ theo Điều 370 Bộ luật Dân sự năm 2015. Theo đó,
Hội đồng xét xử không chấp nhận kháng cáo của ông C, bà H, bà P về nội dung này.
Thứ hai, phía bị đơn và bà P kháng cáo, cho rằng ngoài số tiền lãi đã trả
8.500.000 đồng thì phía nguyên đơn đã nhận của bà P số tiền lãi 45.000.000 đồng.
Tình tiết này không được phía nguyên đơn chấp nhận, bà P và các bị đơn không
xuất trình được chứng cứ chứng minh. Ngoài ra, phía bị đơn khai hai bên thỏa thuận
4
lãi 75.000.000 đồng/tháng, tương ứng 7,5%/tháng, nhưng nội dung hợp đồng không
thỏa thuận mức lãi phải trả và tổng số tiền lãi đã trả 8.500.000 đồng so với số tiền
gốc và thời gian chậm thanh toán không đủ cơ sở kết luận hai bên có thỏa thuận
mức lãi như phía bị đơn khai hoặc bên cho vay đã nhận lãi với mức lãi suất vượt
quá pháp luật quy định. Do vậy, Hội đồng xét xử không có cơ sở để chấp nhận nội
dung kháng cáo về tiền lãi.
Thứ ba, việc các bị đơn giao Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất cho nguyên
đơn là thực hiện giao dịch đã ký kết ngày 15 tháng 01 năm 2024, Tòa án cấp sơ
thẩm chấp nhận yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn, giải quyết tranh chấp giữa các
bên liên quan đến giao dịch vay tiền, chấp nhận yêu cầu của nguyên đơn, buộc phía
bị đơn trả tiền vay và tiền lãi phát sinh từ giao dịch nhưng không buộc nguyên đơn
trả lại giấy chứng nhận quyền sử dụng đất đã nhận của các bị đơn là không đảm bảo
quyền lợi của các bị đơn theo quy định tại Điều 410 Bộ luật Dân sự năm 2015. Mặt
khác, tại phiên tòa, các bị đơn yêu cầu trả lại giấy chứng nhận, nguyên đơn đồng ý
thực hiện yêu cầu này trong giai đoạn thi hành án. Theo đó, Hội đồng xét xử chấp
nhận một phần kháng cáo của các đương sự, một phần kháng nghị của Viện trưởng
Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Quảng Nam, sửa bản án sơ thẩm về nội dung này theo
hướng buộc nguyên đơn trả lại các giấy chứng nhận cho hộ ông Lê Ngọc C.
Thứ tư, Tòa án buộc các bị đơn thực hiện nghĩa vụ liên đới trả nợ theo quy
định tại Điều 288 Bộ luật Dân sự năm 2015 và nghĩa vụ này được phân chia theo
phần, nên Tòa án cấp sơ thẩm xác định cụ thể phần nghĩa vụ của từng bị đơn, buộc
bị đơn Lê Ngọc T thực hiện nghĩa vụ liên đới trả tiền cho nguyên đơn theo phần là
350.963.000 đồng, tính án phí trên phần nghĩa vụ bị đơn Lê Ngọc T phải chịu
(17.548.150 đồng) là đúng quy định tại các khoản 2, 4, 9 Điều 26 Nghị quyết
326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội. Do vậy,
Hội đồng xét xử không có căn cứ pháp luật để chấp nhận kháng cáo, kháng nghị về
nội dung này.
Từ những nhận định trên, Hội đồng xét xử chấp nhận một phần kháng cáo của
các bị đơn Lê Ngọc C, Võ Thị H, Lê Thị Thúy P và một phần kháng nghị của Viện
trưởng Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Quảng Nam, sửa một phần Bản án sơ thẩm số
64/2024/DS - ST ngày 26 tháng 9 năm 2024 của Tòa án nhân dân huyện P, tỉnh
Quảng Nam theo hướng buộc nguyên đơn trả lại các giấy chứng nhận quyền sử
dụng đất cho hộ ông Lê Ngọc C.
[2.3]. Về án phí dân sự phúc thẩm: do kháng cáo được chấp nhận, và bản án
sơ thẩm bị sửa một phần nên người kháng cáo không chịu án phí.
Vì các lẽ trên;
QUYẾT ĐỊNH:
Căn cứ khoản 2 Điều 308, Điều 309, các điều 5, 26, 35, 39, 157, 159, 294,
296 Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2015; các điều 288, 290, 370, 410, 463, 466, 468
Bộ luật Dân sự năm 2015; Nghị quyết 326/2016/NQ-UBTVQH12 ngày 30 tháng 12
năm 2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu,
nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án. Tuyên xử:
1. Đình chỉ xét xử phúc thẩm một phần kháng nghị của Viện trưởng Viện
kiểm sát nhân dân tỉnh Quảng Nam đối với Bản án sơ thẩm số 64/2024/DS - ST
ngày 26 tháng 9 năm 2024 của Tòa án nhân dân huyện P, tỉnh Quảng Nam liên quan
đến kết quả thu thập chứng cứ để đảm bảo quyền lợi của các bà Võ Thị Ngọc S,
Phạm Thị Đ.
5
2. Chấp nhận một phần kháng cáo của các đương sự Lê Ngọc C, Võ Thị H,
Lê Thị Thúy P và một phần kháng nghị của Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân
tỉnh Quảng Nam, sửa một phần Bản án sơ thẩm số 64/2024/DS - ST ngày 26 tháng
9 năm 2024 của Tòa án nhân dân huyện P, tỉnh Quảng Nam;
3. Chấp nhận toàn bộ yêu cầu khởi kiện của ông Nguyễn Xuân L, buộc ông
Lê Ngọc C, bà Võ Thị H, ông Lê Ngọc T phải liên đới chịu trách nhiệm trả cho ông
Nguyễn Xuân L số tiền là 1.052.889.000 (một tỷ không trăm năm mươi hai triệu,
tám trăm tám mươi chín nghìn) đồng; trong đó nợ gốc là 1.000.000.000 đồng, nợ lãi
tính đến ngày 26 tháng 9 năm 2024 là 52.889.000 đồng. Chia phần: ông Lê Ngọc C,
bà Võ Thị H, ông Lê Ngọc T mỗi người trả cho ông Nguyễn Xuân L số tiền
350.963.000 (ba trăm năm mươi triệu, chín trăm sáu mươi ba nghìn) đồng, gồm
tiền gốc 333.333.333 đồng, tiền lãi là 17.629.667 đồng.
Kể từ ngày bản án có hiệu lực pháp luật, bên được thi hành án có đơn yêu cầu
thi hành án, mà bên phải thi hành án không thi hành khoản tiền trên thì hàng tháng
phải chịu thêm khoản tiền lãi theo mức lãi suất quy định tại khoản 2 Điều 468 Bộ
luật Dân sự năm 2015.
Buộc ông Nguyễn Xuân L trả lại hộ gia đình ông Lê Ngọc C (do ông Lê Ngọc
C làm chủ hộ đại diện nhận) 02 (hai) Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất của Ủy
ban nhân dân huyện P cấp cho hộ ông Lê Ngọc C (địa chỉ: thôn L, xã T, huyện P,
tỉnh Quảng Nam), số CX 714682 ngày 04/02/2021 (đối với thửa đất số 1112, tờ bản
đồ số 3) và số CX 71681 ngày 04/02/2021 (đối với thửa đất số 1111, tờ bản đồ số
31).
4. Án phí dân sự và chi phí tố tụng
4.1. Án phí dân sự sơ thẩm: miễn án phí cho ông Lê Ngọc C và bà Võ Thị H;
buộc ông Lê Ngọc T phải chịu 17.548.150 (mười bảy triệu năm trăm bốn mươi tám
nghìn, một trăm năm mươi) đồng. Hoàn trả cho ông Nguyễn Xuân L số tiền tạm ứng
án phí đã nộp là 21.534.000 (hai mươi mốt triệu năm trăm ba mươi tư nghìn) đồng,
theo Biên lai thu số 00017939 ngày 10 tháng 7 năm 2024 của Chi cục Thi hành án
dân sự huyện P, tỉnh Quảng Nam.
4.2. Án phí dân sự phúc thẩm: ông Lê Ngọc C, và các bà Võ Thị H, Lê Thị
Thúy P không chịu. Hoàn trả cho bà Lê Thị Thúy P 300.000 (ba trăm nghìn) đồng
tiền tạm ứng án phí đã nộp theo Biên lai thu số 0017999 ngày 22 tháng 10 năm
2024 của Chi cục Thi hành án dân sự huyện P, tỉnh Quảng Nam.
Trường hợp bản án, quyết định được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật
Thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự
có quyền thỏa thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án
hoặc cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các Điều 6, 7 và 9 Luật Thi hành án
dân sự; thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật Thi
hành án dân sự.
Bản án phúc thẩm có hiệu lực pháp luật kể từ ngày tuyên án (ngày
02/01/2025).
Nơi nhận:
- TAND cấp cao tại Đà Nẵng;
- VKSND tỉnh Quảng Nam;
- TAND huyện P;
- Chi cục THADS huyện P;
- Các đương sự;
- Lưu hồ sơ vụ án.
TM. HỘI ĐỒNG XÉT XỬ PHÚC THẨM
THẨM PHÁN - CHỦ TỌA PHIÊN TÒA
(Đã ký)
Nguyễn Văn Dũng
6
Tải về
Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để tải file. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!
Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để tải file. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!
Bản án/ Quyết định cùng đối tượng
1
Ban hành: 28/03/2025
Cấp xét xử: Phúc thẩm
2
Ban hành: 24/03/2025
Cấp xét xử: Phúc thẩm
3
Ban hành: 21/03/2025
Cấp xét xử: Phúc thẩm
4
Ban hành: 19/03/2025
Cấp xét xử: Phúc thẩm
5
Ban hành: 18/03/2025
Cấp xét xử: Phúc thẩm
6
Ban hành: 15/03/2025
Cấp xét xử: Phúc thẩm
7
Ban hành: 14/03/2025
Cấp xét xử: Phúc thẩm
8
Ban hành: 14/03/2025
Cấp xét xử: Phúc thẩm
9
Ban hành: 12/03/2025
Cấp xét xử: Phúc thẩm
10
Ban hành: 11/03/2025
Cấp xét xử: Phúc thẩm
11
Ban hành: 07/03/2025
Cấp xét xử: Phúc thẩm
12
Ban hành: 06/03/2025
Cấp xét xử: Phúc thẩm
13
Ban hành: 05/03/2025
Cấp xét xử: Phúc thẩm
14
Ban hành: 05/03/2025
Cấp xét xử: Phúc thẩm
15
Ban hành: 04/03/2025
Cấp xét xử: Phúc thẩm
16
Ban hành: 04/03/2025
Cấp xét xử: Phúc thẩm
17
Ban hành: 28/02/2025
Cấp xét xử: Phúc thẩm
18
Ban hành: 28/02/2025
Cấp xét xử: Phúc thẩm
19
Ban hành: 28/02/2025
Cấp xét xử: Phúc thẩm
20
Ban hành: 28/02/2025
Cấp xét xử: Phúc thẩm