Bản án số 995/2023/DS-PT ngày 26/09/2023 của TAND TP. Hồ Chí Minh về tranh chấp hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất

  • Thuộc tính
  • Nội dung
  • VB gốc
  • VB liên quan
  • Lược đồ
  • Đính chính
  • Án lệ
  • BA/QĐ cùng nội dung
  • Tải về
Tải văn bản
Báo lỗi
  • Gửi liên kết tới Email
  • Chia sẻ:
  • Chế độ xem: Sáng | Tối
  • Thay đổi cỡ chữ:
    17

Thuộc tính Bản án 995/2023/DS-PT

Tên Bản án: Bản án số 995/2023/DS-PT ngày 26/09/2023 của TAND TP. Hồ Chí Minh về tranh chấp hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất
Quan hệ pháp luật: Tranh chấp hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất
Cấp xét xử: Phúc thẩm
Tòa án xét xử: TAND TP. Hồ Chí Minh
Số hiệu: 995/2023/DS-PT
Loại văn bản: Bản án
Ngày ban hành: 26/09/2023
Lĩnh vực: Dân sự
Áp dụng án lệ:
Đã biết

Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để xem áp dụng án lệ. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!

Đính chính:
Đã biết

Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để xem đính chính. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!

Thông tin về vụ/việc: Tranh chấp hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất
Tóm tắt Bản án

Nội dung tóm tắt đang được cập nhật, Quý khách vui lòng quay lại sau!

Tải văn bản

TÒA ÁN NHÂN DÂN CỘNG HÒA XÃ HỘI CHNGA VIT NAM
THÀNH PH H CHÍ MINH Đc lập Tự do Hạnh phúc
Bản án số: 995/2023/DS-PT
Ngày: 26/9/2023
V/v tranh chấp hợp đồng
chuyển nhượng quyền sử dụng đất
NHÂN DANH
NƯỚC CỘNG HÒA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM
TÒA ÁN NHÂN DÂN THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH
- Thành phần Hội đồng xét xử phúc thẩm gồm có:
Thẩm phán - Chủ tọa phiên tòa:Phạm Hồng Loan
Các Thẩm phán: Nguyễn Thị Huyền
Nguyễn Thị Thanh Hiền
- Thư ký phiên tòa: Bà Phạm Nguyễn Thanh Hồng Thư ký Tòa án nhân
dân Thành phố Hồ Chí Minh.
- Đại diện Viện Kiểm sát nhân dân Thành phố Hồ Chí Minh tham gia
phiên tòa: Bà Đỗ Thị Vân Kiểm sát viên.
Ngày 26 tháng 9 năm 2023, tại trụ sở Tòa án nhân dân Thành phố Hồ Chí
Minh xét xử phúc thẩm công khai vụ án thụ s305/2023/TLPT-DS ngày 24
tháng 7 năm 2023 về việc: “Tranh chấp hợp đồng chuyển nhượng quyền sử
dụng đất”.
Do Bản án dân sự sơ thẩm số 212/2023/DSST ngày 26/5/2023 ca Tòa án
nhân dân huyện Củ Chi, Thành phố Hồ Chí Minh bị kháng cáo.
Theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 3505/2023/QĐPT-DS ngày 15
tháng 8 năm 2023 Quyết định hoãn phiên tòa số 11995/2023/QĐ-PT ngày 06
tháng 9 năm 2023, giữa các đương sự:
1/ Nguyên đơn: Ông Võ Thành T, sinh năm 1987.
Địa chỉ: Số 95/4/11 đường A, ấp Đ, T, huyện C, Thành phố Hồ Chí
Minh.
Người đại diện hợp pháp của nguyên đơn: Ông Đỗ Thanh B, sinh năm
1997. (Có mặt)
Địa chỉ: Khu phX, thị trấn C, huyện C, Thành phố HChí Minh.
người đại diện theo ủy quyền. (Giấy ủy quyền lập ngày 05/11/2021 tại
Văn phòng Công chứng Nguyễn Tất Thành, Thành phố Hồ Chí Minh, quyển số
003469, quyển số 11/2021 TP/CC-SCC/HĐGD).
2
2/ Bị đơn: Ông Lê Minh H, sinh năm 1985
Địa chỉ: số 65/3A, ấp M, xã Tr, huyện H, Thành phố Hồ Chí Minh.
Người đại diện hợp pháp của bị đơn: Ông Hunh Thanh H, sinh năm
1984. (Có mt)
Địa ch: S 40 đường N, t 9, p 3, T, huyn C, Thành ph H Chí
Minh.
người đại diện theo ủy quyền. (Giấy ủy quyền số công chứng 02425,
quyển số 02/2023 TP/CC-SCC/HĐGD ngày 30/6/2023 do Văn phòng Công
chứng Nguyễn Thị Thành, Thành phố Hồ Chí Minh chứng nhận).
3/ Người có quyền lợi và nghĩa vụ liên quan:
3.1/ Ông Nguyễn Tài Anh T1, sinh năm 1975.
Địa chỉ: Số 166/1 đường Th, Phường D, quận P, Thành phố Hồ Chí Minh.
Người đại diện hợp pháp: Bà Đinh Thị Th, sinh năm 1997. (Vắng mặt)
Địa chỉ: Số 219 đường Ph, xã B, huyện M, tỉnh B.
người đại diện theo ủy quyền. (Hợp đồng ủy quyền số công chứng
009141, quyển số 10/2022 TP/CC-SCC/HĐGD ngày 01/10/2022 do Phòng công
chứng số 1, Thành phố Hồ Chí Minh chứng nhận)
3.2/ Bà Phạm Thị Ch, sinh năm 1974. (Xin vắng mặt)
Địa chỉ: Số 16/45, ấp M, xã Tr, huyện H, Thành phố Hồ Chí Minh.
3.3/ Bà Võ Thị Th1, sinh năm 1952. (Xin vắng mặt)
3.4/ Ông Võ Văn B, sinh năm 1953. (Xin vắng mặt)
Cùng ngụ địa chỉ: Số 95/4/11 đường V, ấp Đ, T, huyện C, Thành phố
Hồ Chí Minh.
3.5/ Văn phòng Công chứng Đ, Thành phố Hồ Chí Minh (Xin vắng
mặt)
Địa chỉ: Số 8/1A đường T, xã Th, huyện H, Thành phố Hồ Chí Minh.
3.6/ Văn phòng Công chứng L (Xin vắng mặt)
Địa chỉ: Số 1/4 đường B, khu phố A, thị trấn H, huyện H, Thành phố Hồ
Chí Minh.
4/ Nời kng cáo: Bđơn ông Minh H.
NỘI DUNG VỤ ÁN:
Theo bản án sơ thẩm thể hiện nội dung vụ án như sau:
Trong đơn khởi kin trong quá trình gii quyết v án, nguyên đơn ông
Võ Thành T trình bày:
3
Ông là chủ sở hữu nhà đất với diện tích 2391,6m
2
, thuộc thửa đất số
38, tờ bản đồ số 16, tọa lạc: xã T, huyện C, Thành phố Hồ Chí Minh, được cấp
Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, quyền sở hữu nhà tài sản gắn liền với
đất số: 497956, số vào sổ cấp GCN: CH04270 do Ủy ban nhân dân huyện
Củ Chi, Thành phố Hồ Chí Minh cấp ngày 17/10/2016, cập nhật biến động ngày
07/7/2017.
Ông T ông T1 bạn bè. Do ông T1 muốn vay tiền nhưng không có tài
sản bảo đảm nên đã mượn giấy tờ nhà đất ông T đang sở hữu để làm tài sản
bảo lãnh cho ông T1 vay tiền. Ông T1 hứa sau 02 (hai) năm sẽ trả hết tiền vay
để trả lại nhà đất trên cho ông T. Vì tin tưởng ông T1 nên ông chấp nhận lời yêu
cầu của ông T1.
Lần thứ nhất: Ngày 14/11/2017 ông T1 hẹn ông ra Văn phòng công chứng
L vào thỏa thuận vay tiền với stiền 700.000.000 (Bảy trăm triệu) đồng,
người cho vay tiền ông Minh H. Để đảm bảo cho số nợ này, ông phải
Hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất số 017854, quyển số
11/2017/TP/VPCC-SCC/HĐGD và giao giấy chứng nhận QS cho ông H.
Lần thứ hai: Ông tiếp tục bảo lãnh cho ông T1 vay số tiền 800.000.000
(Tám trăm triệu) đồng để ông T1 mở rộng kinh doanh. Ngày 17/04/2018, ông
T1 hẹn ông đến Văn phòng công chứng Nguyễn Văn Một để ký lại thỏa thuận
vay tiền giúp ông T1 nâng tổng số tiền vay lên 1.500.000.000 (Một tỷ năm trăm
triệu) đồng.
Lần thứ ba: Ngày 24/05/2018 ông cùng ông T1 ông H đến Văn phòng
công chứng Nguyễn Văn Một để giấy thỏa thuận mượn tiền cùng điều khoản
với giấy thỏa thuận vay tiền ngày 17/4/2018 nhưng nâng tổng số tiền vay của
ông T1 lên 2.500.000.000 (Hai tỷ năm trăm triệu) đồng.
Lần thứ : Ngày 16/8/2018 tại Văn phòng công chứng Nguyễn Văn Một,
ông tiếp tục giấy thỏa thuận vay tiền cho ông T1 vay 500.000.000 (Năm trăm
triệu) đồng tông H, nâng tổng số tiền vay của ông T1 lên 3.000.000.000 (Ba
tỷ) đồng. Đồng thời tại thời điểm ký kết, ông không thấy ông H giao tiền cho
ông T1 chỉ thấy trong giấy thỏa thuận ông T1 có ghi “Tôi cam kết có vay của
anh Lê Minh H số tiền là 3.000.000.000 đ (Ba tỷ đồng) chia thành các đợt như
trên.
Đến năm 2021, ông mới được biết ông T1 ông H đã lừa dối ông
ông H không cho ông T1 vay và số tiền trên là ông T1 nợ tiền cá độ bóng đá với
ông H. Theo thỏa thuận thì việc ký Hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất
để bảo đảm cho số nợ của ông T1 chứ trên thực tế không việc chuyển
nhượng. Tuy nhiên, ông Minh H đã tự ý thực hiện các thủ tục đăng bộ
được cập nhật biến động vào ngày 31/5/2019. Sau đó, ông H Hợp đồng
chuyển nhượng quyền sử dụng đất số công chứng: 009418, quyển số 04 TP/CC-
SCC/HĐGD ngày 04/11/2020 chuyển nhượng toàn bộ nhà đất nêu trên cho
Phạm Thị Ch tại Văn phòng Công chứng Đ, Thành phố Hồ Chí Minh.
Chính đã cập nhật sang tên ngày 06/11/2020. Nay ông yêu cầu Tòa án giải quyết
các vấn đề sau:
4
1. Hủy Hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất công chứng giữa
ông với ông Minh H số: 017854, quyển số 11/2017/TP/VPCC-SCC/HĐGD
ngày 14/11/2017 tại Văn phòng công chứng L.
2. Hủy Hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất công chứng giữa
ông Minh H với Phạm Thị Ch theo số: 009418, quyển số 04 TP/CC-
SCC/HĐGD ngày 04/11/2020 tại Văn phòng Công chứng Đ, Thành phố Hồ Chí
Minh.
3. Hủy giấy thỏa thuận vay tiền ngày 14/11/2017.
4. Hủy giấy thỏa thuận vay tiền ngày 17/04/2018.
5. Hủy giấy thỏa thuận vay tiền ngày 24/5/2018.
6. Hủy giấy thỏa thuận vay tiền ngày 16/8/2018.
7. Hủy phần cập nhật trang 04 ngày 31/5/2019 cho ông Minh H tại
Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, quyền sở hữu nhà tải sản gắn liền với
đất số CĐ 497956 do Ủy ban nhân dân huyện Củ Chi cấp ngày 17/10/2016.
8. Hủy phần cập nhật trang 04 ngày 06/11/2020 cho Phạm Thị Ch tại
Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, quyền sở hữu nhà tải sản gắn liền với
đất số CĐ 497956 do Ủy ban nhân dân huyện Củ Chi cấp ngày 17/10/2016.
9. Buộc ông Lê Minh H trả lại Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, quyền
sở hữu nhà tải sản gắn liền với đất số 497956 do Ủy ban nhân dân
huyện Củ Chi cấp ngày 17/10/2016.
Tại phiên tòa thẩm, người đại diện theo ủy quyền của ông T rút lại
những yêu cầu sau:
+ Hủy giấy thỏa thuận vay tiền ngày 14/11/2017.
+ Hủy giấy thỏa thuận vay tiền ngày 17/04/2018.
+ Hủy giấy thỏa thuận vay tiền ngày 24/5/2018.
+ Hủy giấy thỏa thuận vay tiền ngày 16/8/2018.
B đơn ông Minh H người đại din theo y quyn ca b đơn ông
Trn Thanh Tâm trình bày: Ông H không đồng ý vi tt c yêu cu ca phía
nguyên đơn, do bên ông H thc hiện đúng tha thun vay tin. Nếu ông T,
gia đình ông T ông T1 không bàn giao đất cho bà Chính thì phi tr li tin
cho ông H vi s tin 3.000.000.000 đồng cng lãi sut là 1,5%/tháng, tính t
ngày 16/8/2018 cho đến nay, tạm tính là 2.025.000.000 đồng (Hai t không trăm
hai mươi lăm triệu đồng). Ngoài ra, ông H yêu cu ông T phi bồi thường thit
hi ngoài hợp đồng vi s tiền 700.000.000 đồng cng vi s tin ông H phi
thuê mướn đơn vị vn, h tr pháp vi s tiền 900.000.000 đồng. Quan
h gia bà Chính và ông H s gii quyết bng mt v kin dân s khác.
Người quyền lợi, nghĩa vụ liên quan ông Võ Văn B Thị Th1
trình bày: Đối với nhà đất diện tích 2.391,6 m
2
thuộc thửa đất số 38, tờ bản đồ
số 16, tọa lạc tại T, huyện C, Thành phố Hồ Chí Minh thuộc Giấy chứng
5
nhận quyền sdụng đất số: 497956, số vào sổ cấp GCN: CH04270, do Ủy
ban nhân dân huyện Củ Chi cấp ngày 17/10/2016, cập nhật biến động ngày
07/7/2017 do vợ chồng ông bà tặng cho con trai ông Thành T. Hiện tại
ông đang sinh sống tại căn nhà này được vợ chồng ông T phụng dưỡng
chăm sóc. Ông bà xác nhận ông T không hề buôn bán nhà, đất trên cho bất kỳ ai.
Người quyền lợi, nghĩa vụ liên quan ông Nguyễn Tài Anh T1
Đinh Thị Th người đại diện theo ủy quyền trình bày: Ông T1 nợ tiền cờ
bạc với ông Minh H tổng số tiền 3.000.000.000 (Ba tỷ) đồng. Do ông T1
không đất đai nên ông hỏi mượn giấy tờ nhà đất của ông Thành T đ
thế chấp cho ông H. Ông T1, ông T, ông H có ký 04 tờ thỏa thuận vay tiền gồm:
Ngày 14/11/2017 thỏa thuận vay số tiền 700.000.000 đồng; Ngày 17/4/2018
vay thêm 800.000.000 đồng; Ngày 24/5/2018 vay 1.000.000.000 đồng;
Ngày 16/8/2018 vay 500.000.000 đồng.Tất cả số nợ này, ông T đều xác
nhận bảo đảm.
Sau khi vay, ông trả lãi hàng tháng cho ông H được khoảng 06 tháng
thì ông không còn khả năng trả nợ nên ông H đã tý đi thực hiện thủ tục đăng
bộ mà không thông báo cho ông và ông T biết. Ngày 31/5/2019 ông H được cập
nhật biến động quyền sử dụng đất trên. Sau đó, ông H tự ý chuyển nhượng lại
cho Phạm Thị Ch bằng Hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất số công
chứng 009418, quyển số 04 TP/CC-SCC/HĐGD ngày 04/11/2020 tại Văn
phòng Công chứng Đ, Thành phố Hồ Chí Minh. Ngày 06/11/2020, bà Phạm Thị
Ch được cập nhật trang 04 quyền sử dụng đất trên. Việc ông H tự ý chuyển
nhượng quyền sử dụng đất của ông T, ông ông T không biết không nhận
được bất kỳ thông báo nào từ ông H.
Khi bảo đảm cho số nợ của ông T1, ông T tưởng rằng ông T1 vay tiền
của ông H để mở rộng kinh doanh. Sau khi phát hiện ra việc ông ông H đã
lừa dối ông T nên ông T khởi kiện tại Tòa án nhân dân huyện Củ Chi. Nay ông
xin xác nhận các thỏa thuận vay tiền giữa ông, ông H và ông T thực chất việc
xác nhận nợ cờ bạc giữa ông với ông H, ông xin chịu trách nhiệm thanh toán số
tiền trên cho ông H, ông T không biết việc nợ tiền giữa ông và ông H nên không
phải chịu trách nhiệm khoản tiền trên của ông. Do khó khăn nên số nợ
3.000.000.000 (Ba tỷ) đồng tiền lãi theo quy định của pháp luật ông sẽ trả
cho ông H bằng cách trả dần mỗi tháng 10.000.000 đồng cho đến khi hết nợ.
Ông đồng ý với toàn bộ yêu cầu khởi kiện của ông T.
Người quyền lợi, nghĩa vụ liên quan Phạm Thị Ch trình bày: Ông
Thành T ông Minh H phải thực hiện đúng nội dung Hợp đồng công
chứng mua bán s 0147854, quyển số 1/2017 TP/CC-SCC/HĐGD, ngày
14/11/2017 tại Văn phòng ng chứng L Hợp đồng mua bán số 009418,
quyển số 4 TP/CC-SCC/HĐGD ngày 04/11/2020 tại Văn phòng Công chứng Đ.
Trong quá trình gii quyết v án, đi din theo y quyn ca Chính
ông Trn Thanh Tâm xác định li, giao dch gia Chính ông H s gii
quyết bng mt v kin dân s khác không yêu cu trong v án này.
6
Người quyền lợi, nghĩa vụ liên quan Văn phòng Công chứng Đ, Thành
phố Hồ Chí Minh trình bày: Ngày 04/11/2020, Văn phòng Công chứng Đ có tiếp
nhận yêu cầu công chứng chuyển nhượng quyền sử dụng đất tại thửa đất 38, tờ
bản đồ số 16, T, huyện C, Thành phố Hồ Chí Minh giữa bên chuyển nhượng là
ông Minh H với bên nhận chuyn nhượng Phạm Thị Ch. Người yêu cầu
công chứng đã xuất trình đầy đủ các giấy tờ liên quan. Căn cứ Luật hôn nhân gia
đình, Luật đất đai, Luật công chứng c quy định pháp lut liên quan tại
thời điểm ng chứng, công chng viên Văn phòng ng chứng Đ, Tnh phố
Hồ CMinh tiếp nhận hồ thực hiện việc công chứng hợp đồng chuyển
nhượng quyền sử dụng đất đúng tnh tự, thủ tục theo quy định của pháp luật. Văn
phòng Công chứng Đ đơn xin vắng mặt trong suốt quá trình Tòa án giải quyết
vụ án.
Người quyền lợi, nghĩa vụ liên quan Văn phòng công chứng L, Thành
phố Hồ Chí Minh trình bày: Ngày 14/11/2017, Văn phòng công chứng L, Thành
phố Hồ Chí Minh nhận được yêu cầu công chứng hợp đồng chuyển nhượng
quyền sử dụng đất liên quan đến thửa đất số 38, tờ bản đố số 16 tại T, huyện
C, Thành phố Hồ Chí Minh giữa ông Minh H ông Thành T. Sau khi
xem xét vnăng lực hành vi dân sự của chủ thể tham gia hợp đồng, xét theo ý
chí của người yêu cầu công chứng, tra cứu tài sản trên hệ thống ngăn chặn, nhận
thấy người yêu cầu công chứng và đối tượng tham gia hợp đồng đáp ứng đầy đủ
các quy định của pháp luật tại thời điểm công chứng; Người yêu cầu công chứng
cung cấp đầy đủ các giấy tờ theo quy định của Luật công chứng nên công chứng
viên Nguyễn Văn Minh Văn phòng công chứng L đã chứng nhận hợp đồng
chuyển nhượng quyền sử dụng đất nêu trên. vậy, Văn phòng yêu cầu Tòa án
nhân dân huyện Củ Chi, Thành phố Hồ Chí Minh xem xét, giải quyết giữ
nguyên hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất đã được Văn phòng công
chứng L, Thành phố Hồ Chí Minh chứng nhận số: 017854, ngày 14/11/2017 liên
quan đến thửa đất số 38, tờ bản đồ số 16 tại T, huyện C, Thành phố Hồ Chí
Minh nêu trên.
Tại Bản án dân sự sơ thẩm số 212/2023/DSST ngày 26/5/2023 ca Tòa án
nhân dân huyện Củ Chi, Thành phố Hồ Chí Minh đã tuyên xử:
Chấp nhận một phần yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn ông Thành T;
Chấp nhận một phần yêu cầu độc lập của người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan
ông Nguyễn Tài Anh T1.
1. Hủy Hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất số 017854, quyển số
11/2017/ TP/VPCC-SCC/HĐGD ngày 14/11/2017 giữa ông Thành T ông
Minh H tại Văn phòng công chứng L đối với phần đất diện tích 2.391,6 m
2
thuộc thửa s38, tờ bản đồ số 16, đất tọa lạc tại Trung Lập Thượng, thuộc
Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất số: 497956, số vào sổ cấp GCN:
CH04270, ngày 17/10/2016 do Ủy ban nhân dân huyện Củ Chi cấp cho ông
Văn B, cập nhật trang 4 sang tên cho ông Võ Thành T vào ngày 07/7/2017.
2. Hủy Hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất số 009418, quyển số
4 TP/CC-SCC/HĐGD ngày 04/11/2020 giữa ông Lê Minh H và bà Phạm Thị Ch
7
tại Văn phòng Công chứng Đ đối với phần đất diện tích 2.391,6 m
2
thuộc thửa
số 38, tờ bản đồ số 16, tọa lạc tại xã Trung Lập Thượng, thuộc Giấy chứng nhận
quyền sử dụng đất số: 497956, số vào sổ cấp GCN: CH04270, ngày
17/10/2016 do Ủy ban nhân dân huyện Củ Chi cấp cho ông Văn B, cập nhật
trang 4 sang tên cho ông Lê Minh H vào ngày 31/5/2019.
3. Hủy cập nhật trang 4 sang tên cho ông Minh H vào ngày 31/5/2019
trên Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất số: 497956, số vào sổ cấp GCN:
CH04270, ngày 17/10/2016 do Ủy ban nhân dân huyện Củ Chi cấp cho ông
Văn B đối với phần đất diện tích 2.391,6 m
2
thuộc thửa s38, tờ bản đồ số 16,
tọa lạc tại xã T, huyện C, Thành phố Hồ Chí Minh.
4. Hủy cập nhật trang 4 sang tên cho Phạm Thị Ch vào ngày
06/11/2020 trên Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất số: CĐ 497956, số vào sổ
cấp GCN: CH04270, ngày 17/10/2016 do Ủy ban nhân dân huyện CChi cấp
cho ông Văn B đối với phần đất diện ch 2.391,6 m
2
thuộc thửa số 38, t
bản đồ số 16, tọa lạc tại xã T, huyện C, Thành phố Hồ Chí Minh.
5. Buộc ông Minh H Phạm Thị Ch hoàn trả lại cho ông
Thành T bản chính Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất số: 497956, số vào
sổ cấp GCN: CH04270, ngày 17/10/2016 do Ủy ban nhân dân huyện Củ Chi cấp
cho ông Văn B đối với phần đất diện ch 2.391,6 m
2
thuộc thửa số 38, t
bản đồ số 16, đất tọa lạc tại xã T, huyện C, Thành phố Hồ Chí Minh.
6. Buộc ông Nguyễn Tài Anh T1 hoàn trả lại cho ông Minh H số tiền
vay gốc lãi tạm tính đến ngày 24/5/2023 là: 4.533.714.612 (Bốn tỷ năm trăm
ba mươi ba triệu bảy trăm mười bốn nghìn sáu trăm mười hai) đồng; trong đó
tiền gốc là 3.000.000.000 đồng và tiền lãi tạm tính đến ngày 24/5/2023
1.533.714.612 đồng; Thanh toán một lần ngay sau khi bản án phát sinh hiệu lực
pháp luật.
7. Đình chỉ yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn ông Thành T về việc
hủy giấy thỏa thuận vay tiền ngày 14/11/2017; Hủy giấy thỏa thuận vay tiền
ngày 17/04/2018; Hủy giấy thỏa thuận vay tiền ngày 24/5/2018; Hủy giấy thỏa
thuận vay tiền ngày 16/8/2018.
8. Đình chỉ yêu cầu độc lập của người quyền lợi, nghĩa vụ liên quan
ông Nguyễn Tài Anh T1 về việc hủy giấy thỏa thuận vay tiền ngày 14/11/2017;
Hủy giấy thỏa thuận vay tiền ngày 17/04/2018; Hủy giấy thỏa thuận vay tiền
ngày 24/5/2018; Hủy giấy thỏa thuận vay tiền ngày 16/8/2018; Buộc ông
Minh H trả lại Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, quyền sở hữu nhà tải
sản gắn liền với đất số 497956, số vào sổ cấp GCN: CH04270 do Ủy ban
nhân dân huyện Củ Chi cấp ngày 17/10/2016 cho ông Võ Thành T.
Ngoài ra, bn án sơ thẩm còn tuyên về án phí, quyền kháng cáo, quyền và
nghĩa vụ thi hành án của các đương sự.
Ngày 07/6/2023, bị đơn ông Minh H đơn kháng cáo toàn bộ bản án
sơ thẩm.
8
Tại phiên tòa phúc thẩm:
Bị đơn ông Minh H ông Huỳnh Thanh H người đại diện theo ủy
quyền trình bày: Theo Giấy thỏa thuận mượn tiền ngày 14/11/2017, ngày
17/04/2018, ngày 24/5/2018 và ngày 16/8/2018 thì ông H cho ông T1 vay
3.000.000.000 đồng trả trong vòng 02 năm, nếu ông T1 không trả được thì ông
T sẽ giao nđất của ông T cho ông H. Từ sự thỏa thuận trên, ông T ông H
đã kết Hợp đồng chuyển nhượng nhà đất tại Văn phòng công chứng L. Như
vậy, ông H cho ông T1 vay tiền là do có sự bảo lãnh của ông T. Tòa cấp sơ thẩm
đã không đánh giá về nội dung các bên thỏa thuận nên đã hủy hợp đồng chuyển
nhượng nhà đất nêu trên mà không xem xét đến giao dịch bảo lãnh là không đảm
bảo quyền lợi cho ông H. Nay ông H đề nghị Hội đồng xét xử phúc thẩm sửa
bản án sơ thẩm theo hướng bác yêu cầu của ông T ông T1, buộc ông T giao
nhà đất cho ông H; Nếu tuyên vô hiệu hợp đồng chuyển nhượng đất thì phải giải
quyết hậu quả của hợp đồng hiệu, buộc ông T, ông T1 phải cùng trách
nhiệm trả nợ cho ông H; Trong trường hợp không thể khắc phục được những vi
phạm của cấp sơ thẩm thì hủy bản án sơ thẩm để giải quyết lại theo quy định.
Nguyên đơn ông Võ Thành T có ông Đỗ Thanh Bngười đại diện theo ủy
quyền trình bày: Ông T có ký Hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất tại C
Chi cho ông H nhưng thực tế không giao dịch mua bán chỉ để làm tin cho
giao dịch vay mượn tiền giữa ông H và ông T1. Ông T1 nói mượn tiền của ông H
để đầu nâng cấp thiết bị, mở rộng kinh doanh nhưng qua tìm hiểu ông T được
biết tiền ông T1 nợ ông H tiền cờ bạc. Trong giao dịch này, ông T người bị
hại do bị ông T1 lừa dối. Do đó, ông T đnghị hủy hợp đồng chuyển nhượng giữa
ông T với ông H, giữa ông H với bà Chính và hủy phần cập nhật đăng bộ của ông
H của Chính. Đồng thời buộc ông H, Chính trả lại giấy tờ nhà đất cho
ông T. Đối với số nợ ông T1 vay của ông H thì ông T1 sẽ có trách nhiệm trả cho
ông H. Nguyên đơn đề nghị Hội đồng xét xử giữ nguyên bn án thẩm.
Đi din Viện Kim sát nhân dân Thành ph H Chí Minh phát biu quan đim:
Về tố tụng: Tòa cấp phúc thẩm đã thực hiện đúng trình tự thủ tục theo quy
định của pháp luật. Các đương sự cũng được thực hiện đầy đủ các quyền
nghĩa vụ của mình.
Về nội dung: Viện kiểm sát nhân dân Thành phố Hồ Chí Minh đề nghị
chấp nhận một phần kháng cáo của ông H, sửa bản án sơ thẩm theo hướng tuyên
vô hiệu hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất giữa ông T với ông H, giữa
ông H với bà Chính; Không chấp nhận yêu cầu của người có quyền lợi, nghĩa vụ
liên quan vviệc buộc ông H trả lại bản chính giấy chứng nhận quyền sử dụng
đất cho ông T; Buộc ông T1 phải trthêm tiền lãi cho ông H với số tiền lãi
2.945.509.200 đồng; Không chấp nhận yêu cầu của ông H buộc ông T phải thực
hiện nghĩa vụ bảo lãnh trong trường hợp ông T1 không trả được tiền cho ông H;
Sửa lại án phí các bên phải chịu theo quy định.
Căn cứ vào các chứng cứ, tài liệu đã được thẩm tra tại phiên tòa phúc
thẩm, căn cứ vào kết quả tranh luận tại phiên tòa, ý kiến của đại diện Viện kiểm
9
sát nhân dân Thành phố HChí Minh, trên sở xem xét đầy đủ, toàn diện tài
liệu, chứng cứ có trong hồ sơ vụ án.
NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN:
Ngày 14/11/2017, tại Văn phòng công chứng L, ông Thành T hợp
đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất thửa đất số 38, tờ bản đố số 16, tại xã T,
huyện C, Thành phố Hồ Chí Minh cho ông Minh H theo Hợp đồng chuyển
nhượng số 017854, quyển số 11/2017/ TP/VPCC-SCC/HĐGD. Tuy nhiên, ông
T ông T1 khai rằng, do ông T1 mượn tiền của ông H nhưng không tài sản
bảo đảm n ông T1 đã nhờ ông T bảo lãnh khoản vay của ông T1 bằng việc
ông T phải Hợp đồng chuyển nhượng quyền sdụng đất cho ông H. Hợp
đồng ghi giá chuyển nhượng 700.000.000 đồng nhưng thực tế ông T không
nhận tiền mua đất của ông H. Ông T chứng minh bằng các tài liệu Giấy thỏa
thuận mượn tiền ngày 14/11/2017, giấy thỏa thuận mượn tiền ngày 17/04/2018,
giấy thỏa thuận mượn tiền ngày 24/5/2018, giấy thỏa thuận mượn tiền ngày
16/8/2018 được ký giữa ông Võ Thành T, ông Minh H, ông Nguyễn Tài Anh
T1, thể hiện ông T1 có nợ ông H tổng số tiền là 3.000.000.000 đồng. Ông T chịu
trách nhiệm bảo lãnh khoản vay của ông T1 nên ông T hợp đồng chuyển
nhượng đất cho ông H tại Văn phòng công chứng L vào ngày 14/11/2017. Phía
ông H cũng thừa nhận sự việc như lời trình bày của ông T, ông T1.
Như vậy, mặc hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất được
giữa ông T ông H tuy công chứng nhưng theo lời khai của các bên đương
sự phù hợp với chứng cứ trong hồ sở xác định hợp đồng chuyển
nhượng nêu trên là giả tạo, không có thật. Án sơ thẩm xác định giao dịch chuyển
nhượng quyền sử dụng đất giữa ông Tông H vô hiệu có căn cứ. Song, bên
cạnh một hợp đồng giả tạo lại xác định được một hợp đồng bche dấu là hợp
đồng bảo lãnh. vậy, việc giải quyết hậu quả của giao dịch dân sự hiệu do
giả tạo phải bao gồm cả việc xem xét về hợp đồng bị che dấu. Quá trình giải
quyết vụ án ông H lời khai rằng, nếu ông T, gia đình ông Tông T1 không
bàn giao đất cho bà Chính (người nhận chuyển nhượng nhà đất từ ông H) thì
phải trả lại tiền cho ông H với số tiền 3.000.000.000 đồng cộng lãi suất là
1,5%/tháng, tính từ ngày 16/8/2018 cho đến khi xét xử. Nội dung này cũng được
ông H trình bày trong đơn đề ngày 19/01/2022 gửi cho Tòa án (BL 84). Lẽ ra,
khi ông H có yêu cầu như trên thì Tòa thẩm phải giải thích để ông H chấp
hành quy định của pháp luật về nộp đơn yêu cầu và tiền tạm ứng án phí theo quy
định của pháp luật nhưng Tòa cấp thẩm đã không giải thích pháp luật mà cho
rằng ông H không yêu cầu trách nhiệm bảo lãnh của ông T nên không xem
xét trách nhiệm bảo lãnh của ông T đối với khoản vay của ông T1 chưa đúng,
không đảm bảo quyền lợi của bên cho vay.
Tại phiên tòa hôm nay, ông H không đồng ý cho ông T1 trả nợ dần. Ông
H vẫn giữ nguyên yêu cầu buộc ông T giao đất hoặc ông T ông T1 phải cùng
trách nhiệm trả số nợ 3.000.000.000 đồng cộng với lãi suất trong trường hợp
ông T1 không trả được nợ ngay cho ông H. Do cấp thẩm chưa xem xét giải
quyết hợp đồng bảo lãnh của ông T nên cấp phúc thẩm cũng không giải quyết
10
được yêu cầu trên của ông H vì không đảm bảo các cấp xét xử. Vì vậy, Hội đồng
xét xử phúc thẩm thấy cần phải hủy bản án thẩm để giải quyết thẩm lại
theo thủ tục chung.
Về án phí dân sự phúc thẩm: Do yêu cầu kháng cáo của bị đơn được Tòa
chấp nhận nên bị đơn không phải chịu án phí phúc thẩm.
Vì các lẽ trên,
QUYẾT ĐỊNH:
n cKhoản 3 Điều 148, Điều 310 của Bluật Ttụng Dân s;
Chấp nhận kháng cáo của bị đơn ông Lê Minh H;
Tuyên xử: Hủy bản án sơ thẩm:
1/ Hủy bản án dân sthẩm số212/2023/DSST ngày 26/5/2023 ca Tòa
án nhân dân huyện Củ Chi, Thành phố Hồ Chí Minh.
Giao hồ vụ án cho Tòa án nhân dân huyện Củ Chi, Thành phố Hồ Chí
Minh giải quyết sơ thẩm lại theo thủ tục chung
2/ Về án phí dân sự phúc thẩm:
Ông Minh H không phải chịu. Hoàn tiền tạm ứng án phí phúc thẩm
cho ông H 300.000 (Ba trăm ngàn) đồng theo Biên lai thu số
AA/2023/0017607 ngày 07/6/2023 của Chi cục Thi hành án dân sự huyện Củ
Chi, Thành phố Hồ Chí Minh.
Bản án phúc thẩm có hiệu lực kể từ ngày tuyên án.
TM. HỘI ĐỒNG XÉT XỬ PHÚC THẨM
THẨM PHÁN - CHỦ TỌA PHIÊN TÒA
Phạm Hồng Loan
Tải về
Bản án số 995/2023/DS-PT Bản án số 995/2023/DS-PT

Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để tải file. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!

Bản án/ Quyết định cùng đối tượng

Bản án cùng lĩnh vực

Bản án mới nhất