Bản án số 993/2025/DS-PT ngày 26/08/2025 của TAND TP. Hồ Chí Minh về tranh chấp hợp đồng tặng cho tài sản

  • Thuộc tính
  • Nội dung
  • VB gốc
  • VB liên quan
  • Lược đồ
  • Đính chính
  • Án lệ
  • BA/QĐ cùng nội dung
  • Tải về
Tải văn bản
Báo lỗi
  • Gửi liên kết tới Email
  • Chia sẻ:
  • Chế độ xem: Sáng | Tối
  • Thay đổi cỡ chữ:
    17

Thuộc tính Bản án 993/2025/DS-PT

Tên Bản án: Bản án số 993/2025/DS-PT ngày 26/08/2025 của TAND TP. Hồ Chí Minh về tranh chấp hợp đồng tặng cho tài sản
Quan hệ pháp luật: Tranh chấp hợp đồng tặng cho tài sản
Cấp xét xử: Phúc thẩm
Tòa án xét xử: TAND TP. Hồ Chí Minh
Số hiệu: 993/2025/DS-PT
Loại văn bản: Bản án
Ngày ban hành: 26/08/2025
Lĩnh vực: Dân sự
Áp dụng án lệ:
Đã biết

Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để xem áp dụng án lệ. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!

Đính chính:
Đã biết

Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để xem đính chính. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!

Thông tin về vụ/việc: Không chấp nhận yêu cầu kháng cáo của nguyên đơn bà Võ Thị H. 2. Giữ nguyên Bản án dân sự sơ thẩm số 245/2024/DS-ST ngày 30/12/2024 của Tòa án nhân dân thành phố Thủ Dầu Một, tỉnh Bình Dương (nay là Tòa án nhân dân khu vực 15, Thành phố Hồ Chí Minh) như sau
Tóm tắt Bản án

Nội dung tóm tắt đang được cập nhật, Quý khách vui lòng quay lại sau!

Tải văn bản

1
TÒA ÁN NHÂN DÂN
THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH
Bản án số: 993/2025/DS-PT
Ngày 26 - 8 -2025
V/v tranh chấp hợp đồng tặng
cho quyền sử dụng đất
CỘNG HÒA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM
Độc lập - Tự do - Hạnh phúc
NHÂN DANH
NƯỚC CỘNG HÒA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM
TÒA ÁN NHÂN DÂN THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH
- Thành phần Hội đồng xét xử phúc thẩm gồm có:
Thẩm phán - Chủ tọa phiên tòa:
Các thẩm phán:
Ông Nguyễn Văn Tài.
Ông Phan Trí Dũng.
Ông Nguyễn Trung Dũng.
- Thư phiên toà: Thị Thanh - Thư Toà án nhân dân Thành
phố Hồ Chí Minh.
- Đại diện Viện kiểm sát nhân dân Thành phố Hồ Chí Minh tham gia
phiên tòa: Bà Nguyễn Thị Ngọc Nữ - Kiểm sát viên.
Ngày 26 tháng 8 năm 2025, tại trụ sở Tòa án nhân dân Thành phố Hồ Chí
Minh xét xử phúc thẩm công khai vụ án thụ số: 110/2025/TLPT-DS ngày 08
tháng 4 năm 2025, về việc: tranh chấp hợp đồng tặng cho quyền sử dụng đất.
Do Bản án dân sự sơ thẩm số: 245/2024/DS-ST ngày 30-12-2024 của Tòa
án nhân dân thành phố Thủ Dầu Một, tỉnh Bình Dương (nay Tòa án nhân dân
khu vực 15, Thành phố Hồ Chí Minh bị kháng cáo).
Theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử phúc thẩm số: 272/2025/QĐ-PT
ngày 09 tháng 5 năm 2025, giữa các đương sự:
Nguyên đơn: Bà Võ Th H, sinh năm 1940; địa ch: s G, t B, khu ph C,
phưng P, thành ph T, tỉnh Bình Dương (nay số G, t B, khu ph C, phường
T, Thành ph H Chí Minh).
Người đại din hp pháp của nguyên đơn: Ông Nguyn Quốc Đ, sinh
năm: 1957; địa ch: s F, t H, khu ph I, phường P, thành ph T, tnh Bình
Dương (số F, t H, khu ph I, phường P, Thành ph H Chí Minh), người đại
din theo y quyền (Văn bản y quyn ngày 14/6/2023, có mt).
Người bo v quyn li ích hp pháp của nguyên đơn: Luật Trnh
Văn S, Luật sư ng ty L1, thuc Đoàn Luật sư Thành phố H (có mt).
2
- B đơn: Hoàng Th Minh T, sinh năm 1961; đa ch: s G, t B, khu
ph C, phường P, thành ph T, tỉnh Bình Dương (nay s G, t B, khu ph P,
phưng T, Thành ph H Chí Minh).
Người đại din hp pháp ca b đơn: Ông Phm Minh T1, sinh năm:
1980; đa ch: s D Đại l B, khu ph A, phường P, thành ph T, tnh Bình
ơng (nay là số D Đại l B, khu ph A, phường T, Thành ph H Chí Minh) là
người đi din theo y quyền (Văn bản y quyn ngày 15/8/2023, có mt).
- Người có quyn lợi, nghĩa vụ liên quan:
+ Hoàng Th Minh N, sinh năm 1964; địa ch: s G, t I, khu G,
phưng P, thành ph T, tnh Bình Dương (nay là số G, t I, khu ph G, phường
T, Thành ph H Chí Minh, có mt).
+ Phòng Công chng s 1 tnh B; địa ch: s D Đại l B, tnh Bình
Dương. D, phưng P, thành ph T (nay Phòng C thuc S pháp Thành
ph H Chí Minh; địa ch: s D Đại L B, phường T, Thành ph H Chí Minh,
có yêu cu xét x vng mt).
- Người làm chứng: Cao Thị S1, sinh năm 1957; địa chỉ: số B (củ C)
đường N, khu A, phường C Thành phố T
Người kháng cáo: nguyên đơn bà Võ Th H.
NỘI DUNG VỤ ÁN:
Nguyên đơn Th H trình bày: Th H đã bị bà Hoàng Th
Minh T la di hợp đng tng cho quyn s dụng đất đối vi phần đt
din tích 238m² bên trái đường dây điện (t ớng ngoài đường đi vào) thuộc
hành lang bo v đường điện thuc tha s 103, t bản đồ s 30, ta lc ti
phưng P, thành ph T, tỉnh Bình Dương đã được Công chng s 4875, quyn
s 06TP/CC SCC/HĐGD ký vào ngày 29/6/2013 tại Phòng C tnh Bình
Dương Hoàng Th Minh T đưc cp Giy chng nhn quyn s dụng đất,
quyn s hu nhà tài sn khác gn lin với đất s CK 235665, s vào s
cp GCN CS05154, do y ban nhân dân thành ph T cp ngày 04/8/2017, din
tích 526,8m², thửa đất s 103, t bản đồ s 30, ta lc ti phưng P, thành ph
T, tỉnh Bình Dương. Nay Th H khi kin yêu cu Tòa án gii quyết như
sau:
- Yêu cầu Tòa án giải quyết hủy một phần hợp đồng tặng cho quyền sử
dụng đất số 4875, quyển số 06TP/CC SCC/HĐGD vào ngày 29/6/2013 tại
Phòng C tỉnh Bình Dương giữa Thị H và Hoàng Thị Minh T đối với
phần đất có diện tích 238m² ở bên trái đường dây điện (từ hướng ngoài đường đi
vào) thuộc hành lang bảo vệ đường điện thuộc thửa số 103, tờ bản đồ số 30, tọa
lạc tại phường P, thành phố T, tỉnh Bình Dương.
- Yêu cầu Tòa án kiến nghị Ủy ban nhân n thành phố T thu hồi Giấy
chứng nhận quyền sử dụng đất, quyền sở hữu nhà tài sản khác gắn liền với
đất số CK 235665, số vào sổ cấp GCN CS05154 đối với phần đất diện tích
526,8m
2
thuộc thửa số 103, tờ bản đồ số 30, tọa lạc tại phường P, thành phố T,
3
tỉnh Bình Dương do Ủy ban nhân dân thành phố T cấp ngày 04/8/2017 mang tên
Hoàng Thị Minh T.
- Yêu cầu Tòa án Công nhận phần đất diện tích 255,6m
2
vị trí bên
trái đường dây điện (từ hướng ngoài đường đi vào) thuộc thửa số 103, tờ bản đồ
số 30, tọa lạc tại phường P, thành phố T, tỉnh Bình Dương thuộc quyền sử dụng
của bà Võ Thị H.
- Yêu cầu Tòa án giải quyết buộc Hoàng Thị M Tâm giao trả phần đất
diện tích 255,6m
2
vị tbên trái đường dây điện (từ hướng ngoài đường đi
vào) thuộc thửa số 103, tờ bản đồ số 30, tọa lạc tại phường P, thành phố T, tỉnh
Bình Dương cho Võ Thị H.
- Bị đơn bà Hoàng Thị Minh T trình bày:
Không đồng ý theo yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn. Hợp đồng tặng cho
quyền sử dụng thửa đất số 103, tờ bản đồ số 30, tọa lạc tại phường P, thành phố
T, tỉnh Bình Dương giữa Thị H bà Hoàng Thị Minh T được Công
chứng số 4875, quyển số 06TP/CC SCC/HĐGD vào ngày 29/6/2013 tại
Phòng C tỉnh Bình Dương hợp pháp, hợp đồng tặng cho quyền sử dụng đất
đúng với nguyện vọng của Thị H cụ thể: khi H lập hợp đồng tặng cho
T N dành 01 lối di chung giữa đất của T N, đồng thời theo
Bản án dân sự sơ thẩm số 115/2020/DS-ST ngày 30/9/2020 của Tòa án nhân dân
thành phố Thủ Dầu Một, tỉnh Bình Dương thì Thị H đơn yêu cầu độc
lập đối với T nhưng sau đó rút đơn yêu cầu độc lập với do phần đất đang
tranh chấp đã tặng cho bà T.
- Người quyền lợi, nghĩa vụ liên quan Phòng C tỉnh Bình Dương (nay
Phòng C thuộc Sở pháp Thành phố Hồ Chí Minh) cung cấp hồ công
chứng số 4875, quyển số 06TP/CC – SCC/HĐGD ký vào ngày 29/6/2013.
- Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan bà Hoàng Thị Minh N: không
lời khai (không tham gia tố tụng).
- Người làm chứng bà Cao Thị S1 trình bày:
Năm 2013 bà Cao Thị S1 đang công tác tại Hội phụ nữ phường P
Hoàng Thị Minh T là hội viên Hội phụ nữ phường P, đồng thời là con của bà
Thị H, khi đó T H đều quen biết S1 nên H T nhờ S1
làm chứng trong việc lập hợp đồng tặng cho quyền sử dụng đất từ bà H sang cho
T; khi các bên lên công chứng tại Phòng C tỉnh Bình Dương, do H không
biết chữ nên Công chứng viên đã đọc toàn bộ nội dung hợp đồng tặng cho quyền
sử dụng đất giữa H tặng cho T, H đồng ý; S1 xem lại nội dung
hợp đồng đúng với nội dung Công chứng viên vừa đọc nên bà Sử ký T2 vào hợp
đồng tặng cho quyền sử dụng đất với cách người làm chứng được Công
chứng viên chứng thực vào hợp đồng tặng cho quyền sử dụng đất. Theo S1
việc lập hợp đồng công chứng trên đúng quy định của pháp luật, không
gian dối trong việc kết hợp đồng tặng cho quyền sử dụng đất giữa bà H tặng
4
cho T. S1 hiện tại lớn tuổi, xin Tòa giải quyết vắng mặt trong tất cả các
quá trình tố tụng tại Tòa án các cấp.
Tại Bản án dân sự sơ thẩm số 245/2024/DS-ST ngày 30/12/2024 của Tòa
án nhân dân thành phố Thủ Dầu Một, tỉnh Bình Dương đã quyết định như sau:
1. Không chấp nhận toàn bộ yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn bà Thị
H đối với bị đơn Hoàng Thị Minh T về việc “tranh chấp quyền sử dụng đất,
tranh chấp hợp đồng tặng cho quyền sử dụng đất” như sau:
1.2. Không chấp nhận yêu cầu Tòa án giải quyết hủy một phần hợp đồng
tặng cho quyền sử dụng đất số 4875, quyển số 06TP/CC SCC/HĐGD vào
ngày 29/6/2013 tại Phòng C tỉnh Bình Dương giữa Võ Thị H1 Hoàng
Thị Minh T đối với phần đất diện tích 238m
2
bên trái đường dây điện (từ
hướng ngoài đường đi vào) thuộc hành lang bảo vệ đường điện thuộc thửa số
103, tờ bản đồ số 30, tọa lạc tại phường P, thành phố T, tỉnh Bình Dương.
1.2. Không chấp nhận yêu cầu Tòa án kiến nghị Ủy ban nhân dân thành
phố T thu hồi Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, quyền sở hữu nhà tài
sản khác gắn liền với đất số CK 235665, số vào scấp GCN CS05154 đối với
phần đất diện tích 526,8m
2
thuộc thửa số 103, tbản đồ số 30, tọa lạc tại
phường P, thành phố T, tỉnh Bình Dương do Ủy ban nhân dân thành phố T cấp
ngày 04/8/2017 mang tên bà Hoàng Thị Minh T.
1.3. Không chấp nhận yêu cầu Tòa án công nhận phần đất diện tích
238m
2
ở vị trí bên trái đường dây điện (từ hướng ngoài đường đi vào) thuộc thửa
số 103, tờ bản đồ số 30, tọa lạc tại phường P, thành phố T, tỉnh Bình Dương
thuộc quyền sử dụng của bà Võ Thị H.
1.4 Không chấp nhận yêu cầu Tòa án giải quyết buộc Hoàng Thị M
Tâm giao trả phần đất diện tích 238m
2
vị trí bên trái đường dây điện (t
hướng ngoài đường đi vào) thuộc thửa số 103, t bản đồ số 30, tọa lạc tại
phường P, thành phố T, tỉnh Bình Dương cho bà Võ Thị H.
Ngoài ra bản án còn quyết định về chi phí tố tụng, nghĩa vụ án phí
quyền kháng cáo của các đương sự.
Sau khi xét xử thẩm, ngày 02 tháng 01 năm 2025, nguyên đơn
Thị H nộp đơn kháng cáo.
Tại phiên tòa phúc thẩm, nguyên đơn ginguyên yêu cầu khởi kiện
kháng cáo, các đương sự không thỏa thuận được với nhau về việc giải quyết vụ
án.
Đại diện Viện Kiểm sát nhân dân Thành phố Hồ Chí Minh phát biểu ý
kiến:
Về tố tụng: Những người tiến hành tố tụng và tham gia tố tụng đã thực
hiện đúng quy định của Bộ luật Tố tụng dân sự tại Tòa án cấp phúc thẩm.
Về nội dung: Nguyên đơn cho rằng đã bị T lừa dối kết hợp đồng
tặng cho quyền sử dụng đất ngày 29/6/2013 tại Phòng C tỉnh Bình Dương đối
5
với phần đất diện tích 238m
2
bên trái đường dây điện (từ hướng ngoài
đường đi vào) thuộc hành lang bảo vệ đường điện thuộc thửa số 103 T
được cấp Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, quyền sở hữu nhà tài sản
khác gắn liền với đất đối với toàn bộ đất có diện tích 526,8m
2
thuộc thửa số 103
do ủy ban nhân dân thành phố T cấp ngày 04/8/2017 không đúng với ý c
nguyện vọng của H, theo Biên bản hòa giải ngày 20/4/2010 tại Ủy ban
nhân dân phường P, thị T, tỉnh Bình Dương theo giấy cho nhận đất
ngày 10/3/2010 thể hiện ý chí H cho đất hai người con T N làm
hai phần bằng nhau. Tuy nhiên, sau phiên hoà giải ngày 20/4/2010 tại Ủy ban
nhân dân phường P, ngày 04/8/2012 Thị H lập hợp đồng tặng cho Q sử
dụng đất cho con là bà N diện tích 139,9m
2
đối với thửa đất số 102 (56, 57 gốc),
tờ bản đồ số 30 tại Phòng C chứng thực, tiếp đó đến ngày 29/6/2013 H lập
hợp đồng tặng cho con là T quyền sử dụng đất số 4875, quyển số 06TP/CC
SCC/HĐGD vào ngày 29/6/2013 tại Phòng C tỉnh Bình Dương diện tích
526,8m
2
thuộc thửa số 103, tờ bản đồ số 30. Như vậy, tuy diện tích đất H lập
hợp đồng tặng cho đối với hai con bà T N không giống nội dung phiên
hoà giải ngày 20/4/2010 tại Ủy ban nhân dân phường P H sẽ chia làm hai
phần bằng nhau cho bà T, bà N nhưng trên thực tế bà H đã phân chia đất cho các
con, điều này cho thấy ý chí, nguyện vọng của bà H đã được thực hiện.
H cho rằng do không biết đọc, biết viết (không biết chữ) nên T đã
lừa dối trong việc kết hợp đồng tặng cho quyền sửn dụng đất, tuy nhiên tại
Văn bản trình bày ngày 24/01/2024 Cao Thị S1 người làm chứng xác định
H và bà T đều quen biết nên có nhờ bà S1 làm chứng trong việc tặng cho hợp
đồng chuyển quyền sử dụng đất từ H sang cho T tại Văn phòng C1 tỉnh
Bình Dương việc lập hợp đồng tặng cho quyền sử dụng đất công chứng nêu
trên đúng quy định của pháp luật, không gian dối trong việc ký kết hợp
đồng hợp đồng tặng cho quyền sử dụng đất từ H tặng cho bà T. Do đó, có đủ
căn cứ để xác định thời điểm hợp đồng tặng cho H không bị lừa dối, ép
buộc, việc tham gia ký hợp đồng là hoàn toàn tự nguyện.
Theo Công văn số 975/UBND-VP ngày 15/3/2024 của y ban nhân dân
thành phố T xác định ngun gc đất, trình t th tục đăng khai cp quyn
s dng đối với phần đất diện tích 526,8m
2
thuộc thửa số 103, tờ bản đồ số
30 do Ủy ban nhân dân thành phố T cấp ngày 04/8/2017 mang tên bà Hoàng Thị
Minh T là đúng trình tự quy định.
Từ những phân ch trên, nhận thấy Toà án cấp thẩm không chấp nhận
yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn căn cứ. Kháng cáo của nguyên đơn
không có cơ sở để chấp nhận.
Căn cứ khoản 1 Điều 308 Bộ luật Tố tụng dân năm 2015, không chấp
nhận kháng cáo của nguyên đơn, giữ nguyên bản án thẩm số 245/2024/DS-
ST ngày 30/12/2024 của Tòa án nhân dân thành phố Thủ Dầu Một, tỉnh Bình
Dương.
6
Sau khi nghiên cứu các tài liệu có trong hồ sơ được thẩm tra tại phiên tòa;
căn cứ vào kết quả tranh luận tại phiên tòa, ý kiến của đại diện Viện kiểm sát
nhân dân Thành phố Hồ Chí Minh.
NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN:
[1] Về tố tụng: kháng cáo của nguyên đơn Thị H trong hạn luật
định, n cứ Điều 293 Bộ luật Tố tụng n sự, Tòa án t xử vụ án theo quy
định của pháp luật.
[2] Xét kháng cáo của nguyên đơn:
[3] Hộ Võ Thị H được Ủy ban nhân dân thành phố T, tỉnh Bình Dương
cấp Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất lần đầu số Y402165, số vào sổ
434/QSDĐ ngày 24/12/2003, diện tích 1064m
2
, gồm 03 thửa đất số 25, số
26(56) số 26(57). Quá trình sử dụng đất H chuyển nhượng một phần đất
cho Châu Cẩm L, ông Lê Văn T3, tặng cho đất cho các con bà Hoàng Thị
Minh N, bà Hoàng Thị Minh T.
[4] Đến ngày 18/10/2012, Thị H được Ủy ban nhân dân thành phố
T, tỉnh Bình Dương cấp đổi lại Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất số BL
602928, số vào sổ CH 02113, thửa đất số 103, tờ bản đồ số 30, diện tích
528,6m
2
(trong đó 354,1m
2
thuộc hành lang bảo vệ an toàn đường điện;
9,5m
2
thuộc hành lang an toàn đường bộ và 163,2m
2
đất trồng cây lâu năm), đất
tọa lạc tại phường P, thành phố T, tỉnh Bình Dương (bút lục 11).
[5] Ngày 29/6/2013, Thị H lập Hợp đồng tặng cho quyền sdụng
đất cho con là bà Hoàng ThMinh T diện tích đất 528,6m
2
(trong đó có 354,1m
2
thuộc hành lang bảo vệ an toàn đường điện; 9,5m
2
thuộc hành lang an toàn
đường bộ và 163,2m
2
đất trồng cây lâu năm) thuộc thửa đất số 103, tờ bản đồ số
30, tọa lạc tại phường P, thành phố T, tỉnh Bình Dương. Hợp đồng tặng cho
quyền sử dụng đất giữa H với T được Phòng C tỉnh Bình Dương chứng
nhận số 4875, Quyển số 06TP/CC - SCC/HĐGD ngày 29/6/2013.
[6] Tòa án nhận thấy, cá nhân bà H được Nhà nước cấp quyền sử dụng đất
nên bà H có quyền chuyển nhượng quyền sử dụng đất theo quy định tại các Điều
105, 106 Luật đất đai năm 2003. Tại thời điểm H hợp đồng chuyển
nhượng thì thửa đất đất s 103, tờ bản đồ số 30 không bị tranh chấp, biên
đảm bảo thi hành án; về năng lực hành vi dân sự, bà H không biết chữ nên người
làm chứng Cao Thị S1 (người làm chứng trong vụ án) đã đọc toàn bộ nội
dung hợp đồng cho H nghe, đồng thời Công chứng viên Phòng Công chứng
cũng đọc cho H nghe toàn bộ nội dung hợp đồng, bà H đã đồng ý nên in dấu
vân tay vào từng trang của hợp đồng; nội dung hợp đồng không vi phạm điều
cấm, không trái đạo đức hội, hợp đồng được công chứng theo quy định;
không tài liệu chứng cứ nào chứng minh H bị lừa dối hay bị ép buộc khi
hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất cho T. Theo quy định tại
Điều 159 Bộ luật Dân sự năm 2004 thì thời hiệu khởi kiện vtranh chấp hợp
đồng là 02 năm, nhưng sau khi H hợp đồng tặng cho T quyền sử dụng
7
đất vào ngày 29/6/2013 cho rằng H blừa dối nhưng H không hành
động khiếu nại, khiếu kiện T tranh chấp hợp đồng chuyển nhượng quyền sử
dụng đất, điều này ng thể hiện stự nguyện tặng cho đất của H đối với
T.
[7] Ngoài ra, vào năm 2020 Hoàng Thị Minh T khởi kiện ông Phạm
Minh T1 về việc tranh chấp lối đi chung, tranh chấp quyền sử dụng đất”, tại
Bản án số 115/2020 ngày 30/9/2020 của Tòa án nhân dân thành phố Thủ Dầu
Một ghi nhận ý kiến của bà H như sau: gia đình H phân chia đất cho các con
T N, theo đó chia hai phần đất bằng nhau cho T, N lấy đường
dây diện làm ranh giữa, tại giấy chứng nhận quyền sử dụng đất của H thể
hiện phần đất bà H tặng cho bà T năm 2007 hướng bên phải đường dây diện
tính từ đường đi nhìn vào, nay phần đất tranh chấp cũng tại hướng bên phải
của đường dây diện tính từ đường đi nhìn vào; đồng thời tại phiên tòa năm 2020,
H trình bày phần đất H yêu cầu T trả lại (cũng thửa đất tranh chấp
hiện nay), H đã tặng cho T nên rút lại yêu cầu độc lập, Tòa án đã đình chỉ
yêu cầu của bà H.
[8] ng văn số 975/UBND-VP ngày 15/3/2024 của Ủy ban nhân dân
thành phố T, tỉnh Bình Dương xác định ngun gốc đt, trình t th tục đăng
khai cp quyền sử dụng đất theo Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, quyền
sở hữu nhà ở và tài sản khác gắn liền với đất số CK 235665, số vào sổ cấp GCN
CS05154 đối với phần đất diện tích 526,8m
2
thuộc thửa số 103, tbản đồ số
30, tọa lạc tại phường P, thành phố T, tỉnh Bình Dương do Ủy ban nhân n
thành phố T cấp ngày 04/8/2017 mang tên bà Hoàng Thị Minh T là đúng trình tự
quy định.
[9] Với tài liệu chứng cứ thu thập tại hồ tại cấp phúc thẩm H
không tài liệu, chứng cứ mới khác nên không căn cứ chấp nhận kháng
cáo của bà H.
[10] Án phí phúc thẩm: H người cao tuổi đơn xin miễn nên
được miễn án phí.
[11] Ý kiến của Viện kiểm sát nhân dân Thành phố Hồ Chí Minh phù
hợp.
Vì các lẽ trên;
QUYẾT ĐỊNH:
Căn cứ Điều 48, 148, khoản 1 Điều 308, Điều 313 Bộ luật Tố tụng dân sự;
Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30-12-2016 của Ủy Ban T4 quy định
về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án.
1. Không chấp nhận yêu cầu kháng cáo của nguyên đơnVõ Thị H.
2. Giữ nguyên Bản án dân sự thẩm số 245/2024/DS-ST ngày
30/12/2024 của Tòa án nhân dân thành phố Thủ Dầu Một, tỉnh Bình Dương (nay
là Tòa án nhân dân khu vực 15, Thành phố Hồ Chí Minh) như sau:
8
2.1. Không chấp nhận toàn bộ yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn
Thị H đối với bị đơn Hoàng Thị Minh T vviệc “Tranh chấp quyền sử dụng
đất, tranh chấp hợp đồng tặng cho quyền sử dụng đất” như sau:
2.2. Không chấp nhận yêu cầu Tòa án giải quyết hủy một phần hợp đồng
tặng cho quyền sử dụng đất số 4875, quyến s06TP/CC - SCC/HĐGD vào
ngày 29/6/2013 tại Phòng C tỉnh Bình Dương giữa Thị H Hoàng
Thị Minh T đối với phần đất diện tích 238m² bên trái đường dây điện (từ
hướng ngoài đường đi vào) thuộc hành lang bảo vệ đường điện thuộc thửa số
103, tờ bản đồ số 30 tọa lạc tại phường P, thành phố T, tỉnh Bình Dương.
2.3. Không chấp nhận yêu cầu Tòa án kiến nghị Ủy ban nhân dân thành
phố T thu hồi Giấy chứng nhận quyền sdụng đất, quyền sở hữu nhà tài
sản khác gắn liền với đất số CK 235665, số vào số cấp GCN CS05154 đối với
phần đất diện tích 526,8m² thuộc thửa số 103, tờ bản đồ s30 tọa lạc tại
phường P, thành phố T, tỉnh Bình Dương do Ủy ban nhân dân thành phố T cấp
ngày 04/8/2017 mang tên bà Hoàng Thị Minh T.
2.4. Không chấp nhận yêu cầu Tòa án công nhận phần đất diện tích
238m² ở vị trí bên trái đường dây điện (từ hướng ngoài đường đi vào) thuộc thửa
số 103, tờ bản đồ số 30 tọa lạc tại phường P, thành phố T, tỉnh Bình Dương
thuộc quyền sử dụng của bà Võ Thị H.
2.5. Không chấp nhận yêu cầu Tòa án giải quyết buộc Hoàng Thị M
Tâm giao trả phần đất diện tích 238m² vị trí bên trái đường dây điện (từ
hướng ngoài đường đi vào) thuộc thửa số 103, tờ bản đồ số 30 tọa lạc tại phường
P, thành phố T, tỉnh Bình Dương cho bà Võ Thị H.
2.6. Về án phí dân sự thẩm: Nguyên đơn ThH được miễn án
phí theo quy định tại điểm đ Khoản 1 Điều 12 Nghị quyết
326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016.
3. Về chi phí tố tụng: chi phí đo đạc, định giá và sao lục hồ sơ nguyên đơn
Thị H phải nộp số tiền 3.504.532 đồng được trừ vào số tiền Thị H
đã nộp tạm ứng trước đây tại Tòa án.
4. Án phí phúc thẩm: nguyên đơn bà Võ Thị H đã được miễn.
Trường hợp bản án được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật Thi hành
án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự
quyền thỏa thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án
hoặc bcưỡng chế thi hành án theo quy định tại các Điều 6, 7, 9 Luật Thi
hành án dân sự; thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30
Luật Thi hành án dân sự.
Bản án dân sự phúc thẩm có hiệu lực pháp luật kể từ ngày tuyên án./.
Nơi nhận:
- VKSND Thành phố Hồ Chí Minh;
- Phòng Thi hành án dân s khu vc 15;
- TAND khu vực 15;
TM. HỘI ĐỒNG XÉT XỬ PHÚC THẨM
THẨM PHÁN - CHỦ TỌA PHIÊN TÒA
9
- Các đương sự (để thi hành);
- Lưu: Hồ sơ. (08)
Nguyễn Văn Tài
Tải về
Bản án số 993/2025/DS-PT Bản án số 993/2025/DS-PT

Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để tải file. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!

Bản án số 993/2025/DS-PT Bản án số 993/2025/DS-PT

Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để tải file. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!

Bản án/ Quyết định cùng đối tượng

Bản án cùng lĩnh vực

Bản án mới nhất