Bản án số 24/2025/DS-ST ngày 14/08/2025 của Tòa án nhân dân khu vực 7 - Vĩnh Long, tỉnh Vĩnh Long về tranh chấp hợp đồng tặng cho tài sản

  • Thuộc tính
  • Nội dung
  • VB gốc
  • VB liên quan
  • Lược đồ
  • Đính chính
  • Án lệ
  • BA/QĐ cùng nội dung
  • Tải về
Tải văn bản
Báo lỗi
  • Gửi liên kết tới Email
  • Chia sẻ:
  • Chế độ xem: Sáng | Tối
  • Thay đổi cỡ chữ:
    17

Thuộc tính Bản án 24/2025/DS-ST

Tên Bản án: Bản án số 24/2025/DS-ST ngày 14/08/2025 của Tòa án nhân dân khu vực 7 - Vĩnh Long, tỉnh Vĩnh Long về tranh chấp hợp đồng tặng cho tài sản
Quan hệ pháp luật: Tranh chấp hợp đồng tặng cho tài sản
Cấp xét xử: Sơ thẩm
Tòa án xét xử: Tòa án nhân dân khu vực 7 - Vĩnh Long, tỉnh Vĩnh Long
Số hiệu: 24/2025/DS-ST
Loại văn bản: Bản án
Ngày ban hành: 14/08/2025
Lĩnh vực: Dân sự
Áp dụng án lệ:
Đã biết

Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để xem áp dụng án lệ. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!

Đính chính:
Đã biết

Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để xem đính chính. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!

Thông tin về vụ/việc: Nguyễn Văn L yêu cầu hủy hợp đồng tặng cho quyền sử dụng đất giữa Nguyễn Văn Lượm E, Nguyễn Kiển T và Nguyễn Thị Q
Tóm tắt Bản án

Nội dung tóm tắt đang được cập nhật, Quý khách vui lòng quay lại sau!

Tải văn bản

1
TÒA ÁN NHÂN DÂN
KHU VC 7 VĨNH LONG
Bản án số: 24/2025/DS-ST
Ngày: 14-8-2025
V/v Tranh chấp hợp đồng tặng cho
quyền sử dụng đất”
CỘNG HÒA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM
Độc lập - Tự do - Hạnh phúc
NHÂN DANH
NƯỚC CỘNG A XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM
TOÀ ÁN NHÂN DÂN KHU VỰC 7 – VĨNH LONG
- Thành phần Hội đồng xét xử sơ thẩm gồm có:
Thẩm phán - Chủ tọa phiên toà: Bà Nguyễn Thị Phương Yến.
Các Hội thẩm nhân dân:
1. Ông Đỗ Thanh Tùng.
2. Bà Phạm Thị Thu Trang.
- Thư phiên toà: Trần Thị Bình Nguyên Thư Tòa án của Tòa
án nhân dân khu vực 7 – Vĩnh Long.
- Kiểm sát viên Viện kiểm sát nhân dân khu vực 7 – Vĩnh Long tham gia
phiên tòa: Bà Thị Minh Trang.
Ngày 14 tháng 8 năm 2025, tại trsở Toà án nhân n khu vực 7 Vĩnh
Long t xử thm ng khai vụ án th số 87/2025/TLST-DS ngày 27 tháng
02 năm 2025 về “Tranh chấp hợp đồng tặng cho quyền sử dụng đất theo Quyết
định đưa vụ án ra xét xử số 51/2025/QĐXXST-DS ngày 08 tháng 7 m 2025,
giữa các đương s:
1. Nguyên đơn: Ông Nguyễn Văn L, sinh năm 1967;
Địa chỉ: Ấp X, xã B, huyện T, tỉnh Long An (nay ấp X, xã T, Tỉnh Tây
Ninh).
Người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của nguyên đơn:
Ông Văn A, sinh năm 1964 Hội viên Hội luật gia
huyện G, tỉnh Bến Tre (nay là tỉnh Vĩnh Long);
Địa chỉ: Khu phố A, thị trấn G, huyện G, tỉnh Bến Tre (nay là ấp A, xã G,
tỉnh Vĩnh Long).
2. Bị đơn: - Ông Nguyễn Văn Lượm E, sinh năm 1969;
- Bà Nguyễn Kiển T, sinh năm 1974;
2
Cùng địa chỉ: Ấp Q, xã M, huyện G, tỉnh Bến Tre (nay ấp Q, L, tỉnh
Vĩnh Long).
- Bà Nguyễn Thị Q, sinh năm 1940;
Địa chỉ: Ấp Q, M, huyện G, tỉnh Bến Tre (nay là ấp Q, L, tỉnh Vĩnh
Long).
Đại diện theo ủy quyền của các bị đơn ông Nguyễn Văn Lượm E bà
Nguyễn Kiển T:
Ông Huỳnh Minh T1, sinh năm 1979;
Địa chỉ: Ấp H, P, huyện G, tỉnh Bến Tre (nay ấp H, L, tỉnh Vĩnh
Long) (Theo Hợp đồng ủy quyền đề ngày 03/3/2025).
3. Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan:
- Bà Nguyễn Thị N, sinh năm 1966;
Địa chỉ: Ấp L1, M, huyện G, tỉnh Bến Tre (nay ấp L1, L, tỉnh
Vĩnh Long).
- Ông Nguyễn Thanh S, sinh năm 1990;
Địa chỉ: Ấp Q, M, huyện G, tỉnh Bến Tre (nay là ấp Q, L, tỉnh Vĩnh
Long).
(Ông Nguyễn Văn L, ông Văn A, ông Huỳnh Minh T1, Nguyễn N
có mặt; bà Nguyễn Thị Q và ông Nguyễn Thanh S vắng mặt).
NỘI DUNG VỤ ÁN:
Theo Đơn khi kin; Đơn khi kin bổ sung; Bản tkhai; Biên bản về kiểm
tra việc giao nộp, tiếp cận, công khai chứng cứ; Biên bn hòa giải và cáci liu,
chứng ccung cấp cho Tòa án, cũng như ti phiên a, nguyên đơn ông Nguyễn
Văn L và người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của nguyên đơn là ông Lê Văn
A trình bày:
Mẹ của ông Nguyễn Văn L là bà Nguyễn Thị Q là chủ sử dụng thửa đất s
139 diện tích 1.819,7m
2
thửa đất s93 có diện ch 2.998,3m
2
, cùng tờ bản đ
số 12, cùng tọa lạc tại M, huyện G, tỉnh Bến Tre (nay L, tỉnh Vĩnh Long),
được cấp giấy chứng nhn quyền sử dụng đất năm 1997 cấp đổi lại m 2012.
m 1990, bà Q tặng cho ông L thửa đất số 139 trên nhưng bằng lời nói, không
lập thành văn bản, đến nay chưa làm thủ tục sang tên. Sau khi được tặng cho đất
năm 1990, ông L vào quản lý, sử dụng đất, đến khoảng năm 2021 thì ông L đi
làm ăn tại tỉnh Long An nên cho chị Nguyễn Thị N thuê. Khi cho N
thuê đất, hai bên có lập giấy tờ nhưng hiện tại kngn; thời hn th 20m;
giá thuê 12.000.000 đồng/20 m, N đã trả đủ tiền thuê cho ông L; nội dung
thuê là N giữ đất, cây o chết thì bà N trồng lại, bồi bổ đất, hưởng hoa lợi trên
đất. Thời hạn thuê đã kết thúc 04 năm nay (năm 2021), sau khi kết thúc thời hn
3
ththì ông L nh N trông coi m đất cho đến nay. Theo các biên bản xác
minh lời thừa nhận của bà Q thì năm 1990 Q tặng cho thửa đất số 139
cho ông L, ông L đã vào quản lý, sử dụng đất, ông Lượm E Kiển T không
có quản lý, sử dụng đất, cũng không có tranh chấp hay ý kiến gì đối với việc ông
L quản lý, sử dụng đất.
Năm 2015, ông Lượm E và Kiển T thiếu tiền chăn nuôi nên Q cho
ông Lượm E Kiển T mượn giấy chứng nhận quyền sử dụng đất đối với
thửa đất số 139 bằng hình thức lập hợp đồng tặng cho quyền sử dụng đất để vay
tiền Ngân hàng. Khi đó, do không am hiểu pháp luật nên Q, ông L N
mới ký tên vào các giấy tờ tại Ủy ban nhân dân xã M, huyện G, tỉnh Bến Tre
(nay là xã L, tỉnh Vĩnh Long). Thực tế, từ năm 2015 đến năm 2024, ông Lượm E
Kiển T thế chấp thửa đất số 139 để vay tiền tại Ngân hàng. Năm 2024,
sau khi lấy giấy chứng nhận quyền sử dụng đất đối với thửa đất số 139 tNgân
hàng, ông Lượm E kêu ông L làm thủ tục chuyển nhượng lại nhưng khi
tên thì Kiển T không đồng ý ký, đến nay ông Lượm E, Kiển T Q
chưa trả đất lại cho ông L.
Do đó, ông L khởi kiện; khởi kiện bổ sung yêu cầu hủy Hp đồng tặng cho
quyền sdụng đất ngày 11/8/2015 gia bà Q ông Lượm E, bà Kiển T đối
với thửa đất số 139; yêu cầu ông Lượm E, bà Kiển T Q giao lại cho ông
quyền sdụng đất đối với thửa đất số 139, kiến nghị điều chỉnh giấy chứng nhận
quyền sử dụng đất đối với tha đất số 139 t ông Lượm E bà Kiển T sang cho
ông đứng tên.
Về cây trồng trên thửa đất số 139, trong quá trình quản lý, sử dụng đất,
ông L có trồng dừa trên đất, hiện còn 04 cây dừa trên 06 năm trên bờ cặp đường
đi hiện tại, n các cây trồng còn lại do N trồng cho ông L nên đây tài
sản của ông L. Thửa đất số 139 Q đã tặng cho ông L từ năm 1990 n
thuộc quyền sử dụng của ông L, ông L yêu cầu ông Lượm E, Kiển T bà Q
phải giao lại quyền sử dụng đất cho ông nên ông không yêu cầu bồi thường
công sức cây trồng trên đất. Về phần đan do ông Nguyễn Thanh S xây dựng
trên thửa đất số 139 để làm lối đi, ông L không có yêu cầu, tranh chấp gì.
Khi ông L giấy tờ tại Ủy ban nhân dân M, huyện G, tỉnh Bến Tre
(nay là xã L, tỉnh Vĩnh Long) thì ông không biết đó là ký để tặng cho thửa đất số
139 cho ông Lượm E và bà Kiển T. Đến năm 2024, sau khi chấm dứt vic vay
tiền tại Ngân hàng thì ông Lượm E kêu ông L làm thủ tục chuyển nhượng lại
thì lúc này ông L mới biết thửa đất số 139 đã đứng tên ông Lượm E Kiển
T, sau đó ông Lượm E và bà Kiển T thay đổi ý kiến là không chuyển nhượng lại
đất cho ông L. Do đó, từ năm 2024 thì quyền lợi của ông L mới bị ảnh hưởng
nên khi ông L khởi kiện tại Tòa án thì vẫn còn thời hiệu khởi kiện.
Ông L đồng ý lấy trích lục bản đồ địa chính thửa đất số 139 để làm sở
giải quyết vụ án, không cần thiết tiến hành đo đạc; đồng ý kết quả xem xét, thẩm
định tại chỗ định giá tài sản ngày 19/6/2025, thống nhất đơn gcây trồng
4
hoa màu theo Thông báo số 30/TB-SNN ngày 03/01/2024 của Sở Nông nghiệp
Phát triển nông thôn tỉnh Bến Tre, cụ thể: dừa từ 01 đến dưới 04 năm
550.000 đồng/cây, dừa từ 04 đến dưới 06 năm 110.000 đồng/cây, dừa mới
trồng 66.000 đồng/cây, dừa trên 06 năm 1.650.000 đồng/cây, cau trái
55.000 đồng/cây, cau chưa trái 33.000 đồng/cây, cau mới trồng 11.000
đồng/cây, chanh từ 02 đến dưới 03 năm 440.000 đồng/cây, cam t03 đến
dưới 06 năm 495.000 đồng/cây, cam từ 02 đến dưới 03 năm 165.000
đồng/cây, quýt từ 03 đến dưới 06 năm 495.000 đồng/cây, kiểng trồng làm
cảnh ngoài đất đường kính gốc dưới 5cm 33.000 đồng/cây (hỗ trợ chi phí
bứng, di dời), kiểng trồng làm cảnh ngoài đất đường kính gốc trên 15cm
66.000 đồng/cây (hỗ trợ chi phí bứng, di dời).
Về chi phí thu thập chứng cứ, ông L yêu cầu giải quyết theo quy định
pháp luật.
Theo Bn tự khai; Biên bản về kiểm tra việc giao nộp, tiếp cận, công khai
chứng cứ; Biên bản hòa giải và c i liu, chng c cung cấp cho Tòa án, cũng
như ti phiên tòa, đại din theoy quyền của các bị đơn ông Nguyễn Văn m E
bà Nguyễn Kin T ông Hunh Minh T1 trình y:
Nguồn gốc thửa đt s139 của Nguyễn Thị Q mẹ của ông L, ông
Lượm E bà N. Ngày 11/8/2015, Q hợp đồng tặng cho ông Lượm E
vợ là bà Kiển T thửa đất trên, hợp đồng được chứng thực tại Ủy ban nhân dân
M, huyện G, tỉnh Bến Tre (nay là xã L, tỉnh Vĩnh Long), không ai bị lừa dối hay b
ép buộc. Ngày 01/9/2015, ông Lượm E Kiển T đã được cấp giấy chứng
nhận quyền sử dụng đất đối với thửa đất trên. Việc bà Q, ông L và bà N cho rằng
vào năm 2015, ông Lượm E bà Kiển T thiếu tiền chăn nuôi nên bà Q cho ông
Lượm E Kiển T mượn giấy chứng nhận quyền sử dụng đất đối với thửa
đất số 139 bằng hình thức lập hợp đồng tặng cho quyền sử dụng đất để vay tiền
Ngân hàng là không có, đó là lời trình bày của bà Q, ông L và bà N, không có tài
liệu, chứng cứ chứng minh. Đồng thời, vào năm 2015 khi giấy tờ tại Ủy ban
nhân dân M, huyện G, tỉnh Bến Tre (nay L, tỉnh nh Long) thì ông L có
đầy đủ năng lực hành vi dân sự, ông không bị ai ép buộc, ông cho rằng ông không
biết hoặc ít chthì ông phải nhờ người khác đọc lại và giải thích cho ông hiểu
nhưng ông không nhờ là tự ông lựa chọn. Ông L cho rằng ông được tặng cho thửa
đất số 139 từ năm 1990, nhưng từ đó đến nay ông không thực hiện thủ tục sang
tên, giấy chứng nhận quyền sử dụng đất được cấp năm 1997, sau đó cấp đổi lại
vào năm 2012 đều đứng tên Q nhưng ông không có ý kiến gì. N trình bày
việc giấy chứng nhận quyền sử dụng đất đối với thửa đất số 139 do ông Lượm E
Kiểm T giữ nên ông L không biết được; N ông L trình bày việc ông
L cho N thuê đất cũng chỉ là lời trình bày, không tài liệu, chứng cứ chứng
minh.
Sau khi được tặng cho thửa đất số 139, ông Lượm E bà Kiển T quản lý
đất được khoảng 01 năm thì cho bà N mượn đất cho đến nay, nhưng chỉ bằng lời
nói, không lập thành văn bản; hai bên không thỏa thuận thời hạn mượn khi
5
nào cần lấy lại đất thì N phải trả lại đất cho ông Lượm E Kiển T; nội
dung mượn đất ông Lượm E Kiển T cho N hưởng hoa lợi trên đất,
hai bên không thỏa thuận việc giải quyết việc N trồng cây trên đất. Đến nay,
bà N chưa trả lại đất cho ông Lượm E Kiển T. Tuy nhiên, ông Lượm E
bà Kiển T không có yêu cầu gì đối với bà N trong vụ án này.
Năm 1990, thửa đất số 139 đất ruộng, năm 1997 năm 1998 thì trồng
mía, lúc này mới bắt đầu trồng dừa xen với mía. Khoảng năm 1990 năm 1991,
do ông L lập gia đình nên Q mới cho ông L xây nhà nhờ trên thửa đất số
139. Khi nhờ trên đất, ông L trồng cây trên đất nhưng ông Lượm E
Kiển T không biết trồng cây gì. Tuy nhiên, việc ông L sinh sống trồng cây
trên thửa đất số 139 không đồng nghĩa với việc ông L quyền sử dụng đối với
đất. Về cây trồng trên đất thì 07 cây dừa trên 06 năm sẳn trên đất, trồng
trên bờ cặp đường đi hiện tại, các cây trồng còn lại trên đất do N trồng,
việc N cho rằng đó tài sản của ông L thì ông Lượm E và Kiển T không
ý kiến. Đối với cây trồng do N trồng trên đất thì giữa bà N ông Lượm
E, Kiển T sẽ giải quyết sau. Về phần đan do ông S xây dựng trên thửa đất số
139 để làm lối đi, ông Lượm E và bà Kiển T không có yêu cầu, tranh chấp gì.
Ông Lượm E Kiển T yêu cầu áp dụng thời hiệu khởi kiện do hợp
đồng tặng cho đối với thửa đất số 139 được kết năm 2015, từ năm 2015 ông
L đã biết, do đó đến khi ông L khởi kiện thì đã hết thời hiệu khởi kiện.
Như vậy, đã hết thời hiệu khởi kiện, ông L khởi kiện nhưng không tài
liệu, chứng cứ chứng minh, ông L cũng không quyền khởi kiện do hợp đồng
tặng cho giữa Q ông Lượm E, Kiển T, Q mới quyền khởi kiện
nhưng bà Q không khởi kiện. Do đó, ông Lượm E Kiển T không đồng ý
với yêu cầu khởi kiện yêu cầu khởi kiện bổ sung của ông L; đề nghị Hội đồng
xét xử không chấp nhận yêu cầu khởi kiện và yêu cầu khởi kiện bổ sung của ông
L; không giải quyết hậu quả như xem xét công sức, cây trồng trên đất cho ông L
do ông L không yêu cầu, sau này có yêu cầu sẽ được giải quyết sau.
Ông Lượm E Kiển T đồng ý lấy trích lục bản đđịa chính thửa đất
số 139 đlàm sở giải quyết vụ án, không cần thiết tiến hành đo đạc; đồng ý
kết quả xem xét, thẩm định tại chỗ định giá tài sản ngày 19/6/2025, thống
nhất đơn giá y trồng hoa màu theo Thông báo số 30/TB-SNN ngày
03/01/2024 của Sở Nông nghiệp Phát triển nông thôn tỉnh Bến Tre, cụ thể
như lời trình bày của phía nguyên đơn.
Theo Biên bản lấy lời khai của đương sự; Đơn đ nghị giải quyết xét x
vắng mặt; Biên bản về kiểm tra việc giao nộp, tiếp cận, công khai chứng cứ; Biên
bn hòa giải và c tài liu, chứng cứ cung cấp cho Tòa án, bị đơn bà Nguyễn Thị
Q trình bày:
chủ sử dụng thửa đất số 139 thửa đất số 93. Nguồn gốc các thửa
đất này là của tập đoàn khoán lại cho gia đình bà, gia đình bà gồm bà các con là
ông L, ông m E N.
6
Khoảng mấy chục năm trước (cth m o thì bà không nhớ), tặng
cho ông L thửa đất số 139 nhưng chỉ bằng lời nói, không lập thànhn bản đến
nay chưa sang tên, đối với thửa đất số 93 thì bà chưa tng cho ai. Từ khi được tặng
cho thửa đt số 139 đến nay, ông L đão quản , sử dụng đất.
Khoảng năm 2015, đến Ủy ban nn dân xã M, huyện G, tỉnh Bến Tre
(nay xã L, tỉnh Vĩnh Long) giấy tờ đối với thửa đất số 139. Khi ký, bà không
biết là tặng cho thửa đất số 139 cho ông ợm E Kiển T; để ông
ợm E và Kiển T vay tin Ngân ng tr tiền n chăn nuôi (lúc đó, nghe
ông ợm E nói là đã hỏi mượn đất từ ông L, ông L đồng ý cho mượn), bà không
tng cho ông Lượm E Kiển T thửa đất số 139.
Ông L khởi kiện, ý kiến như sau: Do bà đã tặng cho ông L tha đất số
139, không tặng cho ông Lượm E Kin T tha đất y nên bà thống nhất
với u cầu khi kin của ông L hủy Hợp đồng tặng cho quyền sử dụng đất
ngày 11/8/2015 giữa ông Lượm E, bà Kiển T đối với thửa đất số 139; ông
Lượm E, bà Kiển T phải giao lại quyền sử dụng đất đối với thửa đất số 139
cho ông L, sang li cho ông L đứng n.
Trước khi tặng cho đất, hin trạng đất đất ruộng, trồng dừa, chanh
một số cây khác trên bờ ranh nhưng không nhớ cụ thể. Sau khi bà tặng cho đất
cho ông L thì ông L trồng y, trong đó có trồng dừa. Nay không nhớ
trồng bao nhu y, ông L trồng bao nhu y.
đồng ý lấy trích lục bản đồ địa chính thửa đất số 139 để làm sở giải
quyết ván, không cần thiết tiến hành đo đạc; đồng ý kết quả xem xét, thẩm
định tại chỗ định giá tài sản ngày 19/6/2025, thống nhất đơn gcây trồng
hoa màu theo Thông báo số 30/TB-SNN ngày 03/01/2024 của Sở Nông nghiệp
Phát triển nông thôn tỉnh Bến Tre, cụ thể như lời trình bày của phía nguyên
đơn.
Do lớn tuổi, tay chân yếu, đi lại khó khăn nên bà xin vắng mặt trong vụ án
này.
Theo Bn tkhai; Biên bản về kiểm tra việc giao nộp, tiếp cận, công khai
chứng cứ; Biên bản a giải và c i liệu, chứng ccung cấp cho Tòa án, cũng
như tại phn tòa, ngưi có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan Nguyễn Thị N trình
bày:
Nguồn gốc thửa đất s139 của Q mẹ của ông L, ông Lượm E
bà. Năm 1990, bà Q đã tặng cho ông L thửa đất trên, ông L đã bắt đầu vào quản
lý, sử dụng. Sau khi quản lý, sử dụng đất một thời gian, cách nay khoảng 20
năm, ông L cho thuê tha đất s139, hai n lập giấy tờ nng hiện tại
không còn; thời hạn thuê 20 m; giá thuê là 12.000.000 đồng/20 năm, đã tr
đủ tiền th cho ông L; nội dung th đất giữ đất, y o chết t bà trồng lại,
bồi bổ đất, hưởng hoa lợi trên đất. Thời hạn thđã kết thúc khoảng 04 năm nay,
sau khi kết thúc thời hạn ththì ông L có nhờ trông coi dùm đất cho đến nay.
7
không có mượn thửa đất số 139 từ ông Lượm E Kiển T như ông ợm E
bà Kiển T trìnhy.
Năm 2015, Q giấy tcho ông Lượm E Kiển T mượn thửa
đất trên để vay tiền tại Ngân hàng, không phải tặng cho thửa đất trên cho ông
Lượm E và bà Kiển T. Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất đối với thửa đất trên
do Ngân hàng giữ, đến năm 2024 thì ông Lượm E Kiển T mới lấy về, ông
Lượm E yêu cầu ông L về để trả lại đất thì ông L mới biết đất đã đứng tên
ông Lượm E Kiển T, ông Lượm E Kiển T sau đó thay đổi ý kiến
không trả lại đất cho ông L.
Vềc cây trồng tn thửa đất số 139 thì 04 y dừa trên 06 năm do ông L
trồng, cácy trồng còn lại là do bà trồng cho ông Ln là tất cả là tài sản của ông
L, bà không ý kiến, u cầu trong ván y. Về phần đan do ông S xây
dựng trên thửa đất số 139 để làm lối đi, bà không có yêu cầu, tranh chấp gì.
Bà đồng ý lấy trích lục bản đồ địa chính thửa đất số 139 để làm cơ sở giải
quyết ván, không cần thiết tiến hành đo đạc; đồng ý kết quả xem xét, thẩm
định tại chỗ định giá tài sản ngày 19/6/2025, thống nhất đơn gcây trồng
hoa màu theo Thông báo số 30/TB-SNN ngày 03/01/2024 của Sở Nông nghiệp
Phát triển nông thôn tỉnh Bến Tre, cụ thể như lời trình bày của phía nguyên
đơn.
Theo Đơn đề nghị giải quyết và xét x vng mặt; c tài liệu, chng c trong
h vụ án, ng các i liệu, chứng ccung cấp cho a án, người có quyền lợi,
nga v ln quan ông Nguyễn Thanh S trình bày:
Trên thửa đất số 139 có một phần đan do ông xây dựng để làm lối đi. Ông
không tranh chấp, yêu cầu trong vụ án này. Do bận công việc nên ông xin
vắng mặt trong vụ án này.
Đại diện Viện kiểm sát nhân dân khu vực 7 Vĩnh Long phát biểu quan
điểm:
Về việc tuân theo pháp luật: Trong quá trình giải quyết vụ án, Thẩm phán,
Hội đồng xét xử, Thư ký phiên tòa, các đương sự, người bảo vệ quyền và lợi ích
hợp pháp của đương sự tuân thủ đúng, đầy đủ quy định của Bộ luật tố tụng dân
sự.
Về nội dung: Căn cứ vào các Điều 459, 501 Điều 502 Bộ luật dân sự
năm 2015, đề nghị Hội đồng xét xử:
- Không chấp nhận các yêu cầu khởi kiện của ông L về việc: yêu cầu hủy
Hợp đồng tặng cho quyền sử dụng đất ngày 11/8/2015 giữa Q ông
Lượm E, Kiển T đối với thửa đất số 139; yêu cầu ông Lượm E, Kiển T và
Q giao trả lại cho ông quyền sử dụng đất đối với thửa đất số 139, kiến nghị
điều chỉnh giấy chứng nhận quyền sử dụng đất đối với thửa đất số 139 từ ông
Lượm E, bà Kiển T sang cho ông đứng tên.
8
- Buộc ông Lượm E bà Kiển T bồi thường giá trị toàn bộ cây trồng trên
thửa đất số 139 theo giá mà các bên đương sự đã thống nhất bồi thường công
sức gi gìn đất 05 15% giá trị đất theo Biên bản định giá tài sản ngày
19/6/2025. Ông L phải di dời 02 cây kiểng đất. Ông Lượm E Kiển T được
quyền sở hữu các cây trồng trên, trừ 02 cây kiểng trên đất.
- Ghi nhận ông S không yêu cầu giải quyết đối với phần đan được xây
dựng trên thửa đất số 139.
NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN:
Sau khi nghiên cứu các tài liệu, chứng cứ trong hồ vụ án, căn cứ
vào lời trình bày của các đương sự đã được thẩm tra tại phiên toà, căn cứ vào ý
kiến của đại diện Viện kiểm sát nhân dân khu vực 7 Vĩnh Long, căn cứ kết quả
tranh luận tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định:
Về tố tụng:
[1] Về quan hệ pháp luật và thẩm quyền thụ lý giải quyết của Tòa án:
Ông Nguyễn n L khi kiện u cu Tòa án nhân dân huyện Ging Trôm,
tnh Bến Tre (nay là a án nhân n khu vực 7 nh Long) giải quyết hủy Hp
đồng tặng cho quyền sdụng đất ký ny 11/8/2015 giữa Nguyễn Thị Q và ông
Nguyễn Văn Lượm E, bà Nguyễn Kiển T đối với thửa đất số 139 din tích
1.819,7m
2
, tờ bản đồ số 12, tọa lc tại xã M, huyện G, tỉnh Bến Tre (nay L,
tỉnh nh Long); yêu cầu ông Lượm E, bà Kiển T Q giao trả lại cho ông
quyền sử dụng đất đối với thửa đất số 139 trên cơ sở Hợp đồng tặng cho quyền s
dụng đất năm 1990, kiến nghđiu chỉnh giấy chứng nhận quyền sử dụng đất đối
với tha đất này từ ông Lượm E bà Kiển T sang cho ông đứng tên; hiện ông
Lượm E, Kin T Q đang cư trú tại M, huyện G, tỉnh Bến Tre (nay là xã
L, tỉnh Vĩnh Long). n cứ o khoản 3 và khoản 9 Điều 26, điểm a khoản 1 Điều
35 điểm a khoản 1 Điều 39 Bộ lut T tụng dân sự thì đây ván tranh chấp hợp
đồng tặng cho quyền s dụng đất thuộc thẩm quyền th giải quyết ca a án
nhân dân khu vực 7 Vĩnh Long.
[2] Về sự vắng mặt của các đương sự tại phiên tòa:
Bđơn Q và ngưi có quyền li, nghĩa vụ ln quan ông S đều vắng mt ti
phn tòa nhưng đu có đơn đề nghị xét x vắng mt.n c vào khoản 1 Điều 227
khoản 1 Điu 228 Bộ lut tố tụngn sự, Hi đồng xét xử tiến hành t xử vng
mặt Q và ông S.
[3] Về quyền khởi kiện và thời hiệu khởi kiện:
Ông Lượm E và bà Kiển T cho rằng ông L không có quyền khi kiện do hp
đng tặng cho thửa đất số 139 giữa ông bà Q, Q mới quyền khởi
kiện; ông yêu cầu áp dụng thời hiệu khởi kiện do hợp đồng tặng cho đối với
thửa đất số 139 được kết năm 2015, ông L biết từ năm 2015 nên khi ông L
khởi kiện đã hết thời hiệu khởi kiện. Xét thấy, ti Điều 429 Bộ lut dân sự quy
9
định: “Thời hiu khi kin để u cầu a án giải quyết tranh chấp hợp đng 03
năm, kể tngày người có quyền yêu cầu biết hoặc phải biết quyền và lợi ích hợp
pháp của mình bm phạm". Theo ông L tnh bày thì từ năm 1990 ông đã được
Q tặng cho thửa đất số 139 và bắt đầu quản lý, sử dụng đất; đến năm 2015 thì
Q cho ông Lượm E Kiển T mượn giấy chứng nhận quyền sử dụng đất đối
với thửa đất số 139 đvay tiền Ngân ng, không biết việc hợp đồng tặng
cho, đến năm 2024 thì ông mới phát hiện. Theo hồ cấp giấy chứng nhận
quyền sử dụng đất đối với thửa đất số 139 thì ông L vào Tờ họp mặt gia
đình ngày 11/8/2015, theo đó ông đồng ý giao quyền đối với thửa đất số 139 cho
cá nhân bà Q, không có ký vào hợp đồng tặng cho thửa đất này cho ông Lượm E
Kiển T. Theo Biên bản hòa giải ngày 05/12/2024 của Ủy ban nhân dân
M, huyện G, tỉnh Bến Tre (nay L, tỉnh Vĩnh Long) thì ông L yêu cầu
chính quyền địa phương giải quyết để yêu cầu ông Lượm E Kiển T trả lại
thửa đất số 139 do trước đó chỉ cho mượn, kết quả giải quyết không thành. Đến
ngày 16/01/2025, ông L khởi kiện tại Tòa án. Do đó, ông L quyền khởi kiện
thời hiệu khởi kiện vẫn n nên không chấp nhận lời trình bày yêu cầu
trên của ông Lượm E và bà Kin T.
V ni dung:
[4] Xét u cu khởi kin, u cầu khởi kiện bsung của ông L:
V Hợp đồng tặng cho quyền sử dụng đất ngày 11/8/2015 gia Q
ông Lượm E, bà Kiển T đối với tha đất số 139:
- Về hình thc hp đồng tặng cho quyền sử dụng đất: Hp đồng tng cho
quyền sử dụng đt ký ngày 11/8/2015 có lập thành văn bản, chng thực tại Ủy
ban nn dân M, huyện G, tnh Bến Tre (nay L, tỉnh Vĩnh Long) nên đm
bo vhình thức hợp đồng theo quy định ti khoản 3 Điều 167 Luật đất đai năm
2013.
- Về điều kiện tặng cho quyền sử dụng đất nội dung hợp đồng tặng cho
quyền sử dụng đất: Hợp đồng tng cho quyền sử dụng đất 11/8/2015 ni
dung bà Q tặng cho ông Lượm E bà Kiển T hai thửa đất, trong đó tha đất
số 139. Khi tặng cho thửa đất s139, đất không bị tranh chấp, quyền sử dụng đất
không dùng để đảm bảo thi hành án và đất vẫn còn trong thời hạn sử dụng, Giấy
chứng nhận quyền sử dụng đất cấp cho hộ bà Q lần đầu năm 1997 được cấp
lại năm 2012.
Về Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất đối với thửa đất số 139 cấp cho
hộ Q: Các bên đương sự thống nhất hộ Q gồm Q, ông L, ông Lượm E
N. Theo Tờ họp mặt gia đình ngày 11/8/2015 thì ông L, ông Lượm E
N đều tnguyện giao quyền sử dụng đất thửa đất số 139 cho nhân Q
được toàn quyền sử dụng riêng, giao dịch, chuyển nhượng. Các bên đương sự
cũng thống nhất nguồn gốc đất của Q; ông L, ông Lượm E và N không
có quyền sử dụng chung.
10
Bà Q, ông L N đều cho rằng từ năm 1990, bà Q đã tặng cho ông L
thửa đất số 139 nhưng chỉ bằng lời nói, không lập thành văn bản từ năm 1990
đến nay chưa làm thủ tục sang tên. Năm 1997, hộ Q được cấp giấy chứng
nhận quyền sử dụng đất, đến năm 2012 được cấp lại thì ông L không ý kiến.
Đến ngày 11/8/2015, bà Q hợp đng tặng cho thửa đt số 139 cho ông Lượm E
và Kiển T, ông Lượm Evà Kin T đưc cấp Giấy chứng nhận quyền sử dụng
đt vào ngày 01/9/2015. Sau khi được tng cho, m 2015, m 2021, năm 2022,
ông Lượm E và bà Kiển T thế chấp thửa đất số 139 để đảm bo cho các khoản vay
ti Ngân hàng.
Bà Q, ông L và bà N cho rằng năm 2015, ông Lượm E và bà Kiển T thiếu
tiền chăn nuôi nên Q cho ông Lượm E Kiển T mượn giấy chứng nhận
quyền sử dụng đất đối với thửa đất số 139 bằng hình thức lập hợp đồng tặng cho
quyền sử dụng đất để vay tiền Ngân hàng; khi hợp đồng tặng cho, Q
biết là giấy tờ đối với thửa đất số 139 nhưng không biết ký tặng cho tha đất
số 139 cho ông ợm E Kiển T. Xét thấy, đó chỉ lời trình bày, ông
không cung cấp được tài liệu, chứng cứ chứng minh.
Khoản 1 Điều 167 Luật đất đai năm 2013 quy định: Người sử dụng đất
được thực hiện các quyền chuyển đổi, chuyển nhượng, cho thuê, cho thuê lại,
thừa kế, tặng cho, thế chấp, góp vốn quyền sử dụng đất theo quy định của Lut
này”.
Điều 188 Luật đất đai năm 2013 quy định:
“1. Người sử dụng đất được thực hiện các quyền chuyển đổi, chuyển
nhượng, cho thuê, cho thuê lại, thừa kế, tặng cho, thế chấp quyền sử dụng đất;
góp vốn bằng quyền sử dụng đất khi có các điều kiện sau đây:
a) Giấy chứng nhận, trừ trường hợp quy định tại khoản 3 Điều 186
trường hợp nhận thừa kế quy định tại khoản 1 Điều 168 của Luật này;
b) Đất không có tranh chấp;
c) Quyền sử dụng đất không bị kê biên để bảo đảm thi hành án;
d) Trong thời hạn sử dụng đất.
2. Ngoài các điều kiện quy định tại khoản 1 Điều này, người sử dụng đất
khi thực hiện các quyền chuyển đổi, chuyển nhượng, cho thuê, cho thuê lại, thừa
kế, tặng cho quyền sử dụng đất; quyền thế chấp quyền sử dụng đất, góp vốn
bằng quyền sử dụng đất còn phải có đủ điều kiện theo quy định tại các điều 189,
190, 191, 192, 193 và 194 của Luật này.
3. Việc chuyển đổi, chuyển nhượng, cho thuê, cho thuê lại, thừa kế, tặng
cho, thế chấp quyền sử dụng đất, góp vốn bằng quyền sử dụng đất phải đăng
tại quan đăng đất đai hiệu lực ktừ thời điểm đăng vào sổ địa
chính”.
11
Như vậy, Hợp đồng tặng cho quyền sử dụng đất ngày 11/8/2015 giữa
Qông Lượm E, bà Kiển T đối với thửa đất số 139 đảm bo theo quy định
tại khoản 1 Điều 167 Điều 188 Luật đất đai năm 2013; đồng thời cũng đảm
bảo theo quy định tại Điều 722 Điều 723 Bộ luật dân snăm 2005. Do đó,
không có sở chấp nhận các yêu cầu khởi kiện yêu cầu khởi kiện bổ sung
của ông L về việc: u cầu hủy Hp đồng tặng cho quyền sử dụng đất ngày
11/8/2015 giữa Q ông Lượm E, bà Kiển T đối với tha đất số 139; yêu cầu
ông Lượm E, bà Kiển T Q giao trả lại cho ông quyền sử dụng đất đối với
thửa đất số 139, kiến nghđiu chỉnh giấy chứng nhận quyền sử dụng đất đối với
thửa đất số 139 t ông Lượm E và bà Kiển T sang cho ông đứng tên.
Về cây trồng trên thửa đất số 139, các bên đương sự thống nhất đơn giá
theo Thông báo số 30/TB-SNN ngày 03/01/2024 của Sở Nông nghiệp Phát
triển nông thôn tỉnh Bến Tre nên được ghi nhận, theo đó số lượng giá trị các
cây trồng như sau: 07 cây dừa trên 06 năm có giá trị 1.650.000 đồng/cây x 07
cây = 11.550.000 đồng, 34 cây dừa từ 01 đến dưới 04 năm giá trị 550.000
đồng/cây x 34 cây = 18.700.000 đồng; 03 cây dừa t04 đến dưới 06 năm có giá
trị là 110.000 đồng/cây x 03 cây = 330.000 đồng; 15 cây dừa mới trồng có giá trị
66.000 đồng/cây x 15 cây = 990.000 đồng; 17 cây cau trái giá trị
55.000 đồng/cây x 17 cây = 935.000 đồng; 06 cây cau chưa trái giá trị
33.000 đồng/cây x 06 cây = 198.000 đồng; 06 cây cau mới trồng giá trị là
11.000 đồng/cây x 06 cây = 66.000 đồng; 52 cây chanh từ 02 đến dưới 03 năm
giá trị 440.000 đồng/cây x 52 cây = 22.880.000 đồng; 08 cây cam từ 03
đến dưới 06 năm giá trị 495.000 đồng/cây x 08 cây = 3.960.000 đồng; 17
cây cam từ 02 đến dưới 03 năm giá trị 165.000 đồng/cây x 17 cây =
2.805.000 đồng; 20 cây quýt từ 03 đến dưới 06 năm giá trị là 495.000
đồng/cây x 20 cây = 9.900.000 đồng; 01 cây kiểng (cây mai) trồng làm cảnh
ngoài đất đường kính gốc dưới 5cm hỗ trợ chi phí bứng, di dời 33.000 đồng
01 cây kiểng (cây mai) trồng làm cảnh ngoài đất đường kính gốc trên 15cm
hỗ trợ chi phí bứng, di dời là 66.000 đồng, tổng cộng là 72.413.000 đồng.
- Đối với 07 cây dừa trên 06 năm, ông L N cho rằng 04 cây lớn
là do ông L trồng, 03 cây nhỏ hơn là do bà Ntrồng cho ông L; ông Lượm E và bà
Kiển T cho rằng sẳn trên đất. Xét thấy: Các bên đương sự thống nhất 07
cây dừa này được trồng tại vị trí trên bờ đất gần đường đi hiện tại. Q trình
bày thì trước khi tặng cho đất, hiện trạng đất đất ruộng, trồng dừa, chanh
một số cây khác trên bờ ranh, ông L trồng dừa trên đất nhưng bà không nh
trồng bao nhu cây, ông L trồng bao nhiêu y. Theo c biên bản c minh t
ông L đã quản lý, sử dụng đất từ khoảng năm 1990; hin trạng đất khoảng m
1990 trồng dừa, trong đó ông Hồn K c định ông thy dừa được trồng tại vị
trí trên bờ đất gần đường đi hiện tại vị trí khác nhưng thấy dừa trồng tại vị
trí trên bờ đất gần đường đi hiện tại không xác định thấy khi nào. Ti phn
a, đại diện theo ủy quyền của ông ợm E Kiển T ông T1 tha nhận từ
m 1997 – m 1998 thì bắt đầu trồng dừa xen vi mía, ông L đã sinh sống
12
trồng cây trên đất từ khoảng m 1990 năm 1991, từ khoảng m 2016 thì ông
ợm E và bà Kiển T cho bà N ợn đất. Do đó, n cứ c định 04 cây dừa
lớn do ông L trồng, 03 cây dừa nhỏ hơn do N trồng, N thừa nhận
trồng cho ông L n 07 cây dừa này là của ông L.
- Các cây trồng còn lại, các bên đương sự thống nhất do N trồng,
ông L N thống nhất N trồng cho ông L nên căn cứ xác định các cây
trồng còn lại này là của ông L.
Mặc ông L không yêu cầu bồi thường cây trồng trên đất nhưng ông
L yêu cầu giao trả lại ông quyền sử dụng đất đối với thửa đất số 139 lớn
hơn yêu cầu bồi thường cây trồng trên đất nên căn cứ buộc ông Lượm E
Kiển T liên đới bồi thường cho ông L giá trị các cây trồng trên đất chi phí
hỗ trợ bứng, di dời kiểng trên đất với số tiền tổng cộng là 72.413.000 đồng, ông
L phải di dời 01 cây kiểng (cây mai) trồng làm cảnh ngoài đất đường kính gốc
dưới 5cm 01 cây kiểng (cây mai) trồng làm cảnh ngoài đất đường kính gốc
trên 15cm.
Về công sức cải tạo, gìn giữ thửa đất số 139, theo các biên bản xác minh
lời trình bày của các đương sự thì từ khoảng năm 1990 đến khoảng năm
2021, ông L người trực tiếp quản lý, sử dụng đất; từ khoảng năm 2021 đến
nay, N người trực tiếp quản lý, sdụng đất; ông L thừa nhận khi ông bắt
đầu quản lý, sử dụng đất thì đất đã lên bờ. Do đó, ông L có công sức gìn giữ đất
từ khoảng năm 1990 đến khoảng năm 2021, mặc dù ông L không có yêu cầu bồi
thường công sức gìn giữ đất nhưng ông L yêu cầu giao trả lại ông quyền sử
dụng đất đối với thửa đất số 139 là lớn hơn yêu cầu bồi thường công sức gìn giữ
đất nên ông Lượm E và bà Kiển T phải liên đới bồi thường công sức gìn giữ đất
cho ông L 10% giá trị đất. Theo Biên bản định giá tài sản ngày 19/6/2025 thì
giá đất 250.000 đồng/m
2
x 1.819,7m
2
= 454.925.000 đồng, giá này bao gồm
cây trồng, hoa u trên đất, không bao gồm nhà ở, vật kiến trúc. Do tất cả các
cây trồng trên đất được xác định của ông L như đã phân tích trên nên ông
Lượm E Kiển T phải liên đới bồi thường công sức gìn giữ đất cho ông
Lượm 10% x (454.925.000 đồng - 72.413.000 đồng) = 38.251.000 đồng.
Trên thửa đất số 139 một phần đan do ông Nguyễn Thanh S xây dựng
dùng làm lối đi, các đương sự không tranh chấp nên Hội đồng xét xử ghi
nhận.
T những nhn định trên, không chấp nhận các yêu cầu khởi kiện yêu
cầu khởi kiện bổ sung của ông L về việc: u cầu hủy Hợp đồng tặng cho quyền
sử dụng đất ngày 11/8/2015 giữa bà Q và ông Lượm E, bà Kiển T đối với thửa
đất số 139; u cầu ông Lượm E, bà Kiển T Q giao trả lại cho ông quyền
sử dụng đất đối với thửa đất số 139, kiến nghđiều chỉnh giấy chứng nhận quyền
sử dụng đất đối với tha đất số 139 tông Lượm E bà Kiển T sang cho ông
đứng tên; ông Lượm E bà Kiển T phải liên đới bồi thường giá trị cây trồng
trên đất, chi phí hỗ trợ bứng, di dời kiểng trên đất công sức gìn giữ đất cho
13
ông L với số tiền tổng cộng 72.413.000 đồng + 38.251.000 đồng =
110.664.000 đồng; ông L phải di dời 01 cây kiểng (cây mai) trồng làm cảnh
ngoài đất đường kính gốc dưới 5cm 01 cây kiểng (cây mai) trồng làm cảnh
ngoài đất đường kính gốc trên 15cm.
Quan điểm của Viện kim sát nhân dân khu vực 7 nh Long phù hợp với
quan điểm ca Hội đồng t xử nên đưc chấp nhn.
Li trình y ca người bo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của ông L không
phù hợp với quan điểm của Hi đồng xét xnên không đưc chp nhn.
[5] Vchi phí thu thập chứng cứ 994.000 đồng, ông L phải nộp và đã nộp
xong.
[6] Ván p dân s thẩm:
Do không chấp nhận u cu khởi kiện của ông L về việc hủy Hợp đồng tặng
cho quyền sdụng đất ngày 11/8/2015 n ông L phải np án phí n sự sơ thẩm
không có g ngạch là 300.000 đồng.
Do không chp nhậnu cu khởi kiện,u cầu khởi kiện bổ sung của ông L
v việc yêu cầu ông Lượm E, bà Kiển T Q giao trả lại cho ông quyền sử
dụng đất đối với tha đất số 139 trên sở Hợp đồng tặng cho quyền sử dụng đất
m 1990n ông L phải nộp án p dân sự sơ thẩm không có g ngạch 300.000
đồng.
Do buộc ông m E Kiển T phải liên đới bồi thường giá trị cây
trồng trên đất, chi phí htrợ bứng, di dời kiểng trên đất công sức gìn giữ đất
cho ông L với số tiền tổng cộng là 110.664.000 đồng n ông ợm E và Kiển
T phi liên đới nộp án phí dân sự thm g ngạch 5.533.000 đồng.
Vì các ltrên,
QUYẾT ĐỊNH:
Căn cứ vào khoản 3 và khoản 9 Điều 26, đim a khoản 1 Điều 35, điểm a
khoản 1 Điều 39, Điều 147, khoản 1 Điu 227, khoản 1 Điều 228 Bộ luật Tố tụng
dân sự năm 2015;
Căn cứ vào Điều 722 và Điều 723 Bộ luật dân sự năm 2005;
Căn cứ vào các Điều 117, 119, 357, 468, 459, 500, 501, 502, 503 Bộ luật
dân sự năm 2015;
Căn cvào Điu 167, Điều 188 Luật đất đai năm 2013;
Căn cvào các Điu 26, 27 Điều 37 Luật đất đai năm 2024;
Căn cứ vào Điều 26 Điều 27 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14
ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc Hội quy định về mức thu, miễn,
giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án,
14
Tuyên xử:
1. Không chấp nhận yêu cầu khởi kiện yêu cầu khởi kiện bổ sung của
nguyên đơn ông Nguyễn Văn L về việc: yêu cu hủy Hợp đồng tặng cho quyền sử
dụng đt ký ngày 11/8/2015 giữa bà Nguyễn Thị Q ông Nguyễn Văn Lượm E,
bà Nguyễn Kiển T đối với thửa đất số 139 diện tích 1.819,7m
2
, tờ bản đồ số 12,
tọa lạc tại xã M, huyện G, tỉnh Bến Tre (nay L, tỉnh nh Long); yêu cầu
Nguyễn Thị Q, ông Nguyễn Văn Lượm E bà Nguyễn Kiển T giao trả lại cho
ông Nguyễn Văn Lượm quyền sử dụng đất đối với thửa đất số 139 trên, kiến ngh
điều chỉnh giấy chứng nhận quyền sử dụng đất đối với tha đất số 139 trên từ ông
Nguyễn Văn Lượm E bà Nguyễn Kiển T sang cho ông Nguyễn Văn L đứng
tên.
Buộc ông Nguyễn n L di dời 01 (một) cây kiểng (cây mai) trồng làm
cảnh ngoài đất đường kính gốc dưới 5cm 01 (một) cây kiểng (cây mai) trồng
làm cảnh ngoài đất đường kính gốc trên 15cm trên tha đt số 139 diện tích
1.819,7m
2
, tờ bản đsố 12, tọa lạc tại M, huyện G, tỉnh Bến Tre (nay L,
tỉnh nh Long).
Buộc ông Nguyễn Văn Lượm E và bà Nguyễn Kiển phải liên đới bồi
thường cho ông Nguyễn Văn L giá trị các cây trồng (gồm: 07 cây dừa trên 06
năm, 34 cây dừa t01 đến dưới 04 năm, 03 cây dừa t04 đến dưới 06 năm, 15
cây dừa mới trồng, 07 cây dừa trên 06 năm, 17 cây cau trái, 06 cây cau chưa
trái, 06 cây cau mới trồng, 52 cây chanh từ 02 đến dưới 03 năm, 08 cây cam từ
03 đến dưới 06 năm, 17 cây cam từ 02 đến dưới 03 năm, 20 cây quýt từ 03 đến
dưới 06 năm); chi phí hỗ trợ bứng, di dời 01 (một) cây kiểng (cây mai) trồng
làm cảnh ngoài đất đường kính gốc dưới 5cm 01 (một) cây kiểng (cây mai)
trồng làm cảnh ngoài đất đường kính gốc trên 15cm; công sức gìn giữ thửa đất
số 139 có diện tích 1.819,7m
2
, tờ bản đồ số 12, tọa lạc tại xã M, huyện G, tỉnh Bến
Tre (nay là xã L, tỉnh Vĩnh Long) với số tiền tổng cộng 110.664.000 (một trăm
mười triệu sáu trăm sáu mươi bốn nghìn) đồng. Ông Nguyễn Văn Lượm E và bà
Nguyễn Kiển T được trọn quyền sở hữu các cây trồng trên (trừ 01 (một) cây
kiểng (cây mai) trồng làm cảnh ngoài đất đường kính gốc dưới 5cm 01 (một)
cây kiểng (cây mai) trồng làm cảnh ngoài đất đường kính gốc trên 15cm).
Kể từ ngày bản án hiệu lực pháp luật (đối với các trường hợp quan
Thi hành án quyền chủ động ra quyết định thi hành án) hoặc kể từ ngày
đơn yêu cầu thi hành án (đối với các khoản tiền phải trả cho người được thi hành
án) cho đến khi thi hành án xong, bên phải thi hành án còn phải chịu khoản tiền
lãi của số tiền còn phải thi hành án theo mức lãi suất quy định tại Điều 357, Điều
468 của Bộ luật dân sự.
(Có trích lục bản đồ địa chính kèm theo).
2. Vchi phí thu thp chứng cứ 994.000 (chín trăm chín ơi bn ngn)
đồng, ông Nguyễn Văn L phải np đã nộp xong.
15
3. Ván phí n sự thẩm:
Án p dân s thẩm không giá ngạch 600.000 (sáu trăm nghìn) đồng
do ông Nguyễn Văn L phải nộp nhưng được khu tr o số tiền tạm ng án phí
mà ông đã nộp là 600.000 (sáu trăm ngn) đồng theo các Biên lai thu tm ng án
phí, l phí a án số 0007780 0007781 cùng ny 21/02/2025 ca Chi cc Thi
hành án n sự huyện Giồng Trôm, tỉnh Bến Tre (nay Phòng thi nh án n sự
khu vực 7 Vĩnh Long). Ông Nguyễn Văn L đã nộp xong án phí.
Án phí dân sự sơ thẩm giá ngạch 5.533.000 (m triệu m trăm ba
mươi ba ngn) đồng ông Nguyễn n Lượm E Nguyễn Kiển T phi liên đới
nộp.
4. Về quyền kháng cáo:
Trong thời hạn 15 (mười lăm) ngày kể từ ngày tuyên án, các đương sự
mặt tại phiên tòa quyền kháng cáo bản án này để yêu cầu Tòa án nhân dân
tỉnh Vĩnh Long xét xử phúc thẩm. Đối với các đương sự vắng mặt tại phiên tòa
được quyền kháng cáo bản án này trong thời hạn 15 (mười lăm) ngày kể từ ngày
nhận được bản án hoặc bản án được niêm yết
5. Về thi hành án:
Quyết định này được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật Thi hành án
dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự
quyền thỏa thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tnguyện thi hành án
hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các Điều 6, 7, 7a, 7b 9 Luật
Thi hành án dân sự; thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều
30 Luật thi hành án dân sự.
Nơi nhận:
- Các đương sự;
- VKSND khu vực 7 – Vĩnh Long;
- THADS tỉnh Vĩnh Long;
- TAND tỉnh Vĩnh Long;
- Lưu: VT, hồ sơ vụ án.
TM. HỘI ĐỒNG XÉT XỬ SƠ THẨM
THẨM PHÁN - CHỦ TỌA PHIÊN TÒA
Nguyễn Thị Phương Yến
Tải về
Bản án số 24/2025/DS-ST Bản án số 24/2025/DS-ST

Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để tải file. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!

Bản án số 24/2025/DS-ST Bản án số 24/2025/DS-ST

Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để tải file. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!

Bản án/ Quyết định cùng đối tượng

Bản án cùng lĩnh vực

Bản án mới nhất