Bản án số 05/2025/DS-ST ngày 31/07/2025 của Tòa án nhân dân khu vực 6 - Khánh Hòa, tỉnh Khánh Hòa về tranh chấp hợp đồng tặng cho tài sản

  • Thuộc tính
  • Nội dung
  • VB gốc
  • VB liên quan
  • Lược đồ
  • Đính chính
  • Án lệ
  • BA/QĐ cùng nội dung
  • Tải về
Tải văn bản
Báo lỗi
  • Gửi liên kết tới Email
  • Chia sẻ:
  • Chế độ xem: Sáng | Tối
  • Thay đổi cỡ chữ:
    17

Thuộc tính Bản án 05/2025/DS-ST

Tên Bản án: Bản án số 05/2025/DS-ST ngày 31/07/2025 của Tòa án nhân dân khu vực 6 - Khánh Hòa, tỉnh Khánh Hòa về tranh chấp hợp đồng tặng cho tài sản
Quan hệ pháp luật: Tranh chấp hợp đồng tặng cho tài sản
Cấp xét xử: Sơ thẩm
Tòa án xét xử: Tòa án nhân dân khu vực 6 - Khánh Hòa, tỉnh Khánh Hòa
Số hiệu: 05/2025/DS-ST
Loại văn bản: Bản án
Ngày ban hành: 31/07/2025
Lĩnh vực: Dân sự
Áp dụng án lệ:
Đã biết

Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để xem áp dụng án lệ. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!

Đính chính:
Đã biết

Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để xem đính chính. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!

Thông tin về vụ/việc: Chấp nhận một phần yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn
Tóm tắt Bản án

Nội dung tóm tắt đang được cập nhật, Quý khách vui lòng quay lại sau!

Tải văn bản

TÒA ÁN NHÂN DÂN
KHU VỰC 6 - KHÁNH HÒA
TỈNH KHÁNH HÒA
Bản án số: 05/2025/DS-ST
Ngày: 31 - 7 - 2025
V/v: “Tranh chấp chia di sản thừa
kế quyền sử dụng đất theo pháp
luật, yêu cầu huỷ hợp đồng tặng
cho quyền sử dụng đất, huỷ giấy
chứng nhận quyền sử dụng đất”
CỘNG HÒA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM
Độc lập - Tự do - Hạnh phúc
NHÂN DANH
NƢỚC CỘNG HÒA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM
TÒA ÁN NHÂN DÂN KHU VỰC 6 - KHÁNH HÒA
- Thành phần Hội đồng xét xử sơ thẩm gồm có:
Thẩm phán - Chủ tọa phiên tòa: Bà Đinh Thị Thành
Các Hội thẩm nhân dân: 1. Ông Phạm Xuân Thành;
2. Bà Trần Thị Huệ.
- Thư phiên tòa: Nguyễn Thị Quỳnh Như - Thư ký a án nhân n
khu vực 6 - Khánh Hòa.
- Đại diện Viện kiểm sát nhân dân khu vực 6 Khánh Hòa tham gia
phiên tòa: Bà Trịnh Thị Khánh Vân - Kiểm sát viên.
Vào 31 tháng 7 năm 2025, tại trụ sTòa án nhân dân khu vực 6 - Khánh
Hòa xét xử thẩm công khai vụ án thụ số: 223/2024/TLST-DS ngày
30/10/2024 vviệc Tranh chấp chia di sản thừa kế quyền sử dụng đất theo
pháp luật; yêu cầu hủy hợp đồng tặng cho quyền sử dụng đất, hủy giấy chứng
nhận quyền sử dụng đất theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số
02/2025/QĐXXST-DS ngày 09/7/2025, giữa các đương sự:
- Nguyên đơn: Bà Trần Thị T, sinh năm: 1957. Địa chỉ: Thôn G, xã T, huyện
N, tỉnh Ninh Thuận (nay là thôn G, xã X, tỉnh Khánh Hòa, có mặt).
Người đại diện theo ủy quyền của nguyên đơn: ông Phan Xuân N, sinh năm
1957. Địa chỉ: Thôn M, xã B, huyện T, tỉnh Ninh Thuận (nay là thôn M, T, tỉnh
Khánh Hòa, theo văn bản uỷ quyền ngày 15/5/2024, có mặt).
- Bị đơn: Ông Trần Phú V, sinh năm: 1971. Địa chỉ: Thôn G, xã T, huyện N,
tỉnh Ninh Thuận (nay là thôn G, xã X, tỉnh Khánh Hòa, có mặt).
Người đại diện theo ủy quyền của bị đơn: ông Trần Thanh S, sinh năm 1959.
Nơi cư trú: Khu phố A, phường P, thành phố P - T, tỉnh Ninh Thuận (nay là tdân
phố G, phường P, tỉnh Khánh Hòa, theo văn bản uỷ quyền ngày 12/11/2024,
mặt).
2
- Người có quyền lợi và nghĩa vụ liên quan:
+ Bà Trần Thị L, sinh năm: 1960 (có mặt);
+ Ông Trần Phú Â, sinh ngày 26/6/1965 (có mặt);
+ Ông Trần Phú K, sinh năm 1969 (có mặt);
+ Bà Lê Thị Kim P, sinh năm 1975 (vắng mặt);
+ Bà Trần Thị N1, sinh năm 1967 (vắng mặt);
+ Bà Trần Thị Thanh P1, sinh năm 1984 (có mặt).
Cùng trú: Thôn G, xã T, huyện N, tỉnh Ninh Thuận (nay thôn G, X,
tỉnh Khánh Hòa).
+ Trần Thị N2, sinh năm 1962. Nơi trú: ấp H, thị trấn N, huyện C,
tỉnh Bà Rịa - Vũng Tàu (nay là ấp H, xã N, Thành phố Hồ Chí Minh, có mặt);
+ Ông (bà): Trương Thị T1, sinh năm 1957; Trần Thị Lệ H, sinh năm 1979;
Trần Duy H1, sinh năm 1981; Trần Thị Ngọc H2, sinh năm 1984; Trần Duy H3
sinh năm 1987; Trần Thị Như H4 sinh năm 1989. Cùng trú: Thôn G, xã T,
huyện N, tỉnh Ninh Thuận (nay là thôn G, xã X, tỉnh Khánh Hòa).
Người đại diện theo ủy quyền của bà T1, H, ông H1, bà H2, ông H3: Bà
Trần Thị Như H4, sinh năm 1989 (theo văn bản uỷ quyền ngày 18/8/2023, có mặt).
Người đại diện theo uỷ quyền của Thị Kim P: Ông Trần Phú K, sinh
năm 1969 (theo văn bản uỷ quyền ngày 03/6/2025, có mặt);
Người đại diện theo uỷ quyền của Trần Thị N1: Ông Trần Phú Â, sinh
năm 1965 (theo văn bản uỷ quyền ngày 21/7/2025, có mặt);
+ Ủy ban nhân dân xã T, huyện N.
+ Ủy ban nhân dân huyện N, tỉnh Ninh Thuận.
Người kế thừa quyền nghĩa vtố tụng của Ủy ban nhân dân T Ủy
ban nhân dân huyện N là Chủ tịch Ủy ban nhân dân xã X, tỉnh Khánh Hòa.
Người đại diện theo uỷ quyền: Ông Nguyễn Thái V1 - PChủ tịch Ủy ban
nhân dân xã (theo văn bản uỷ quyền ngày 17/7/2025, xin vắng mặt).
NỘI DUNG VỤ ÁN:
1. Ngƣời đại diện theo uỷ quyền của nguyên đơn Trần Thị T, ông
Phan Xuân N trình bày:
Cha T cụ Trần Văn Đ (sinh năm 1925, chết năm 1990) mT
cụ Lê Thị D (sinh năm 1930, chết năm 2020). Cha mẹ bà T có 08 người con chung
gồm:
+ Trần Văn L1, sinh năm 1952, chết năm 1995. Ông L1 vợ: Trương Th
T1, sinh năm 1957 05 người con chung: Trần Thị Lệ H sinh năm 1979; Trần
3
Duy H1 sinh năm 1981; Trần Thị Ngọc H2 sinh năm 1984; Trần Duy H3 sinh năm
1987 và Trần Thị Như H4, sinh năm 1989.
+ Trần Thị T, sinh năm 1957.
+ Trần Thị L, sinh năm 1960.
+ Trần Phú Â, sinh năm 1965.
+ Trần Phú K, sinh năm 1969.
+ Trần Phú V, sinh năm 1971.
+ Trần Thị N2, sinh năm 1962.
+ Trần Phú L2, sinh năm 1967 đã chết năm 1983, không có vợ con.
Ngoài ra cha mẹ bà T không có con nuôi hay con riêng nào khác. Cha mẹ bà
T chết không để lại di chúc.
Về nguồn gốc đất tranh chấp: Thửa đất số 54, tờ bản đồ số 34b (viết tắt thửa
đất số 54) toạ lạc tại thôn G, xã T có nguồn gốc của cha mẹ bà T là cụ Trần Văn Đ,
cụ Lê Thị Diệu tạo L3 từ trước năm 1975, các con không ai có đóng góp gì. Đây là
tài sản chung của cha mẹ bà T tạo lập trong thời kỳ hôn nhân.
Đến ngày 16/02/2011, cụ D được UBND huyện N cấp giấy chứng nhận
quyền sử dụng đất số 252170 đối với thửa đất 54, diện tích 737m
2
. Ngày
17/4/2012, D làm thủ tục tặng cho toàn bộ thửa đất 54 cho ông Trần Phú K.
Ông K đã được cấp đổi giấy chứng nhận quyền sử dụng đất đối với thửa đất này.
Ngày 17/3/2021, ông K làm hợp đồng tặng cho ông Nguyễn Phú V2 01 phần diện
tích 378m
2
đất thuộc thửa đất số 54. Ông Trần Phú K đã được Sở Tài nguyên
Môi trường tỉnh N cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất số DA 869398 ngày
04/5/2021 đối với thửa đất 323, tờ bản đồ số 34b, diện tích 359m
2
(viết tắt thửa đất
số 323); ông Trần Phú V đã được Sở Tài nguyên Môi trường tỉnh N giấy chứng
nhận quyền sử dụng đất số DA 869399 ngày 04/5/2021 đối với thửa đất số 324, tờ
bản đồ số 34b, diện tích 378m
2
(viết tắt thửa đất số 324).
Việc cụ Thị Diệu T2 cho ông Trần Phú K toàn bộ thửa đất trên vào ngày
17/4/2012 mà chưa được sđồng ý của tất cả các con của cụ Đ cụ D không
đúng pháp luật. Do đó, việc ông K được cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất
thửa đất trên rồi tặng cho ông V 01 phần diện tích đất như trên cũng không đúng
quy định pháp luật.
Đối với phần đất ông Trần Phú Â đang sử dụng 93m
2
thuộc một phần đất
của thửa đất số 323 đã được cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất cho ông K: Bà
T xác nhận phần đất này cha mẹ trước giờ không cho ông  cha mẹ chỉ
cho ông  thửa đất số 53 liền kề ông  đã được cấp giấy chứng nhận quyền s
dụng đất đối với thửa đất số 53, sau đó ông  cất nhà lấn qua thửa đất của cha mẹ.
Năm 2020, ông  xây hàng rào bao quanh đất. Đến năm 2022 ông  mới tự ý xây
thêm cái nhà bằng tôn trên diện tích đất này. Khi ông  xây nhà công trình trên
đất mẹ bà có biết nhưng không có ý kiến gì.
4
Do đó, bà T yêu cầu Tòa án giải quyết các vấn đề sau:
+ Hủy hợp đồng tặng cho quyền sử dụng đất và tài sản gắn liền với đất ngày
17/4/2012 giữa cụ Lê Thị D và ông Trần Phú K.
+ Hủy giấy chứng nhận quyền sdụng đất số BK 293217 do UBND huyện
N cấp ngày 04/6/2012 cho ông Trần Phú K.
+ Hủy giấy chứng nhận quyền sử dụng đất số DA 869398 do Sở Tài nguyên
và Môi trường tỉnh N cấp ngày 04/5/2021 cho ông Trần Phú K.
+ Hủy giấy chứng nhận quyền sử dụng đất số DA 869399 do Sở Tài nguyên
và Môi trường tỉnh N cấp ngày 04/5/2021 cho ông Trần Phú V.
+ Yêu cầu chia thừa kế quyền sử dụng đất thuộc thửa đất số 54, tờ bản đồ số
34b, diện tích 737m
2
của ông Trần Văn Đ Thị Diệu C để lại theo pháp
luật.
Hiện nay T đã chỗ khác nhưng T nguyện vọng nhận kỷ phần
thừa kế bằng hiện vật là đất để cho con.
T thống nhất với biên bản định giá lại tài sản ngày 13/5/2025. Đề nghị
Tòa án căn cứ kết quả xem xét thẩm định tại chỗ ngày 18/01/2024 định giá lại
tài sản ngày 13/5/2025 trích lục bản đồ địa chính s99/VP.ĐKĐĐCNNH ngày
16/4/2024 của Văn phòng Đ1 - Chi nhánh N5 để giải quyết vụ án.
Đối với phần tài sản trên thửa đất số 323 của ông K nhà từ đường không
còn giá trị sử dụng, nên không yêu cầu Tòa án chia. Đối với tài sản trên thửa đất
ông V và ông  đang sử dụng là do ông V, ông  tự xây bà không yêu cầu Tòa án
giải quyết tài sản trên đất.
2. Ngƣời đại diện theo ủy quyền của bị đơn ông Trần Phú V, ông Trần
Thanh S trình bày:
Về quan hệ nhân tn của cha mẹ ông V cụ Trần Văn Đ cụ Thị D
thì ông V thống nhất như ý kiến của người đại diện theo uỷ quyền của bà Trần Th
T trình bày.
Ông V xác nhận cha mẹ ông V chết, không để lại di chúc.
Nguồn gốc thửa đất số 54, tờ bản đồ số 34b nguồn gốc của cụ Trần Văn
Đ, cụ Lê Thị Diệu tạo L3 trước năm 1975, các con không ai đóng góp gì.
Sau khi cụ Đ chết năm 1990, mẹ ông V là cụ D, ông V và ông K tiếp tục sử
dụng đất, năm 2003 ông V đã tự bỏ tiền xây dựng ngôi nhà cấp 4 trên đất như hiện
nay. Năm 2010, vợ chồng ông V ra riêng, lúc này chỉ cụ D và ông K sử dụng
thửa đất này. Đến năm 2011, cụ D đi đăng ký đất đai và được cấp giấy chứng nhận
quyền sử dụng đất hợp pháp, không ai tranh chấp. Năm 2012, cụ D lập hợp đồng
tặng cho con ông Trần Phú K ông K được cấp giấy chứng nhận quyền sử
dụng đất. Hợp đồng tặng cho đất giữa cụ D ông K lập ngày 17/4/2012 được
UBND xã T, huyện N chứng thực, khi đó thì các con không ai biết. Đến năm 2020,
5
vợ chồng ông V quay về sống với cụ D tại căn nông V đã xây dựng trên thửa
đất 54 để chăm sóc cụ D.
Vào ngày 17/3/2021 tại n phòng C2 vợ chồng ông Trần Phú K, Th
Kim P đã lập hợp đồng tặng cho ông V 378m
2
, tách thửa thành 324 (tách từ thửa
đất số 54). Ông V đã được Sở Tài nguyên và Môi trường tỉnh N cấp ngày
04/5/2021 cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất số DA 869399 hợp pháp. Như
vậy, đối với phần tài sản của mẹ ông V đã cho ông K ông K đã tặng cho ông V
hợp pháp nên ông là người sử dụng hợp pháp đối với thửa đất số 324. Do đó,
nguyên đơn bà T khởi kiện yêu cầu hủy hợp đồng tặng cho đất giữa bà D và ông K,
hủy giấy chứng nhận quyền sử dụng đất cấp cho ông K vào năm 2012, huỷ giấy
chứng nhận quyền sử dụng đất cấp cho ông V yêu cầu chia thừa kế di sản mẹ
ông đối với phần đất ông đang sử dụng không căn cứ. Đề nghị Tòa án không
chấp nhận yêu cầu này của bà T.
Đối với phần đất ông Trần Phú Â đang sử dụng 93m
2
thuộc một phần của
thửa đất số 323 (tách từ thửa đất số 54): Ông V xác nhận phần đất này từ trước đến
khi mẹ ông V chết, mẹ ông V có cho ông  không thì ông V không biết.
Riêng đối với phần di sản của cha ông phần diện tích đất còn lại của thửa
đất, đề nghị Toà án xem xét phân chia di sản theo quy định của pháp luật. Kỷ phần
thừa kế ông được nhận của cha ông V ông đồng ý tặng riêng cho ông K. Tuy
nhiên, trong trường hợp Toà án xác định hợp đồng tặng cho giữa ông K ông V
chỉ hiệu lực 01 phần hoặc không hiệu lực thì ông xin nhận kỷ phần thừa kế
của cha bằng hiện vật.
Ông V thống nhất với biên bản định glại tài sản ngày 13/5/2025. Đnghị
Tòa án căn cứ kết quả xem xét thẩm định tại chỗ ngày 18/01/2024 định giá lại
tài sản ngày 13/5/2025 trích lục bản đồ địa chính s99/VP.ĐKĐĐCNNH ngày
16/4/2024 của Văn phòng Đ1 Chi nhánh N5 để giải quyết vụ án.
Ông V thống nhất với lời trình bày của ông S và không bổ sung nội dung gì
thêm.
3. Những ngƣời có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan:
3.1 Ông Trần Phú K trình bày: Đối với tất cả các ý kiến của bà Trần Thị T
đã trình bày thì ông thống nhất toàn bộ.
Ông xác nhận vào ngày 17/4/2012 mẹ ông lập hợp đồng tặng cho đất ông
được chứng thực tại UBND T, tuy nhiên các chị em khác trong gia đình tôi
không ai ký. Vì đây tài sản chung của cha mẹ nên việc mẹ ông tự định đoạt toàn
bộ thì không hợp pháp. Việc mẹ ông tặng cho ông thửa đất số 54 không đúng n
vào ngày 17/3/2021 ông tặng cho lại ông V cũng không đúng.
6
Do đó, ông đề nghị Tòa án chấp nhận toàn bộ yêu cầu khởi kiện của bà Trần
Thị T. Chia thừa kế theo pháp luật đối với toàn bộ thửa đất số 54 di sản của cha
mẹ ông.
Đối với phần đất ông Trần Phú Â đang sử dụng 93m
2
thuộc một phần đất
của thửa đất số 323 (tách từ thửa đất số 54): ông xác nhận phần đất này cha mẹ ông
trước giờ không cho ông  tự ông  tự lấn sang. Khi ông  xây nhà lấn
sang phần đất này thì ông có biết nhưng do anh em nên không có ý kiến gì. Đối với
tường rào sau nhà từ đường là do ông  tự xây năm 2020.
Ông thống nhất với biên bản định giá lại tài sản ngày 13/5/2025. Đề nghị
Tòa án căn cứ kết quả xem xét thẩm định tại chỗ ngày 18/01/2024 định giá lại
tài sản ngày 13/5/2025 trích lục bản đồ địa chính s99/VP.ĐKĐĐCNNH ngày
16/4/2024 của Văn phòng Đ1 Chi nhánh N5 để giải quyết vụ án.
Ngoài diện tích đất này đang sử dụng đất ở, ông không còn đất nào
khác. Do đó, ông xin nhận kỷ phần thừa kế của cha mẹ bằng hiện vật là đất.
Tại phiên toà sơ thẩm, ông xác định năm 2021, do ông nghĩ ông được hưởng
toàn bộ thửa đất nhưng ông V cũng ng nuôi mnên ông ông V đã tự thoả
thuận phân chia thửa đất bằng việc ông tặng cho ông V diện tích 378m
2
. Ông xác
định trong trường hợp ông biết được ông chỉ được hưởng phần tài sản của mẹ thì
ông chỉ đồng ý tặng cho ông V ½ phần tài sản của mẹ.
3.2 Ông Trần Phú Â trình bày:
Về quan hệ nhân thân của cha mẹ ông cụ Trần Văn Đ cụ Lê Thị D t
ông thống nhất như ý kiến của người đại diện theo uỷ quyền của bà Trần Thị T
trình bày.
Ông xác nhận cha mẹ ông chết, không di chúc phân chia thửa đất số 54
cho các con.
Nguồn gốc thửa đất số 54 thống nhất như ý kiến trình bày của bà T.
Tuy nhiên, vào năm 1989 - 1990, cha mông cho ông thửa đất số 53 kế
bên thửa đất số 54, sau khi cha ông chết, mẹ ông tiếp tục cho ông phần diện tích
93m
2
mà ông đang sử dụng thuộc thửa đất số 54 (nay là một phần thửa đất số 323).
Việc mẹ ông cho ông chỉ bằng miệng nhưng các anh chị em của ông đều biết
không ý kiến gì. Năm 2007, ông được UBND huyện N cấp giấy chứng nhận
quyền sử dụng đất đối với thửa đất số 53. Tuy nhiên ông không biết do tại sao
ông chỉ được cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đối với diện tích 87m
2
. Ông đã
xây dựng một phần nhà và tường rào bao quanh trên phần diện tích đất này.
Do đó, ông đồng ý với yêu cầu chia thừa kế thửa đất số 54 của T. Tuy
nhiên đối với phần diện tích 93m
2
ông đang sử dụng của thửa đất số 54 mẹ ông đã
cho ông phải chừa ra cho ông, không được chia. Ông từ chối nhận kỷ phần thừa kế
của cha. Tuy nhiên, nếu Toà án vẫn xác định diện tích 93m
2
ông đang sử dụng
7
thuộc một phần thửa đất 323 di sản chia di sản theo pháp luật thì ông đồng ý
nhận kỷ phần thừa kế của cha ông bằng hiện vật.
Ông không có ý kiến gì về các biên bản định giá của Toà án.
3.3 Bà Trần Thị L trình bày:
Bà thống nhất với lời trình bày và yêu cầu khởi kiện của T.
Hiện nay đã chỗ khác nhưng nguyện vọng nhận di sản là đất để
cho con sử dụng.
thống nhất với biên bản định giá lại tài sản ngày 13/5/2025. Đề nghị Tòa
án căn cứ kết quả xem xét thẩm định tại chỗ ngày 18/01/2024 định giá lại tài
sản ngày 13/5/2025 trích lục bản đồ địa chính số 99/VP.ĐKĐĐCNNH ngày
16/4/2024 của Văn phòng Đ1 Chi nhánh N5 để giải quyết vụ án.
3.4 Bà Trần Thị N2 trình bày:
Bà thống nhất với lời trình bày và yêu cầu khởi kiện của bà T.
Hiện nay đã chỗ khác nhưng nguyện vọng nhận di sản là đất để
về già bà có thể về quê hương sinh sống.
Bà không có ý kiến gì về các biên bản định giá của Toà án.
3.5 Bà Trần Thị Nhƣ H4 trình bày:
con của ông Trần Văn L1. Vợ chồng ông L1 Trương Thị T1
05 người con chung là bà Trần Thị Lệ H, ông Trần Duy H1, bà Trần Thị Ngọc H2,
ông Trần Duy H3 và bà.
Mẹ bà, các anh chị em thống nhất toàn bộ ý kiến yêu cầu khởi
kiện của bà Trần Thị T.
Hiện nay, hgia đình mẹ tôi đã có chỗ khác nhưng bà, Trương Thị T1,
Trần Thị Lệ H; ông Trần Duy H1; Trần Thị Ngọc H2; ông Trần Duy H3 đề
nghị được nhận kỷ phần thừa kế bằng hiện vật là đất để sử dụng chung.
thống nhất với biên bản định giá lại tài sản ngày 13/5/2025. Đề nghị Tòa
án căn cứ kết quả xem xét thẩm định tại chỗ ngày 18/01/2024 định giá lại tài
sản ngày 13/5/2025 trích lục bản đồ địa chính số 99/VP.ĐKĐĐCNNH ngày
16/4/2024 của Văn phòng Đ1 Chi nhánh N5 để giải quyết vụ án.
3.6 Ngƣời đại diện theo uỷ quyền của bà Lê Thị Kim P, ông Trần Phú K
trình bày:
Bà P là vợ của ông. Bà P thống nhất với lời trình bày của ông và đề nghị Toà
án giải quyết vụ án theo quy định của pháp luật.
3.7 Bà Trần Thị Thanh P1 trình bày:
vợ của ông V. Hiện nay vchồng đang sdụng thửa đất 324
các bên đang tranh chấp. đồng ý với lời trình bày của ông V và không bổ sung
gì thêm.
8
3.8 Ngƣời đại diện theo uỷ quyền của Trần Thị N1, ông Trần Phú Â
trình bày:
N1 là vợ của ông. N1 thống nhất với lời trình bày của ông.
3.9 Ý kiến của UBND xã T:
Vào ngày 17/4/2012, UBND T đã chứng thực hợp đồng tặng cho quyền
sử dụng đất giữa bà Lê Thị D và ông Trần Phú K.
Căn cứ vào thông số 04/2006/TTLT/BTP-BTNMT ngày 13/6/2006 của
Bộ Tư pháp Bộ T4 hướng dẫn việc công chứng, chứng thực hợp đồng, văn bản
thực hiện quyền của người sử dụng đất Thông số 03/2008/TT-BTP ngày
25/8/2008 của Bộ pháp thì việc chứng thực hợp đồng tặng cho cho quyền sử
dụng đất giữa cụ Thị D ông Trần Phú K vào ngày 17/4/2012 là hoàn toàn
đúng quy định của pháp luật.
3.10 Ý kiến của UBND huyện N:
Thửa đất số 54, tờ bản đồ 34b diện tích 737 tại thôn G, T được UBND
huyện N cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất số 252170 ngày 16/02/2011
cho hcụ Thị D nguồn gốc đất tạo lập năm 1975. Ngày 19/4/2012, trong
quá trình sử dụng thửa đất số 54, bà D nộp đơn đăng chỉnh lý biến động đổi tên
chủ sử dụng đất cho ông Trần Phú K được UBND T chứng thực theo số
chứng thực 29 quyển 01/2012 TP/CC-SCT/HDGD ngày 17/4/2012. Đồng thời ông
K nộp đơn đề nghị cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất khi được nhận tặng cho
quyền sử dụng đất theo hợp đồng chứng thực nêu trên. Sau khi kiểm tra đủ điều
kiện, ngày 04/6/2012, UBND huyện N cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất số
BK 29217 cho ông Trần Phú K đối với thửa đất số 54.
Việc cấp giấy chứng nhận quyền sdụng đất cho ông Trần Phú K đúng
theo quy định tại khoản 4 Điều 49, Điều 129 Luật đất đai năm 2003; Điều 152
Nghị định số 181/2004/NĐ-CP ngày 29/10/2004 của Chỉnh phủ.
Tại phiên toà:
Các bên đương sự không thoả thuận được với nhau về việc giải quyết vụ án.
Người đại diện theo uỷ quyền của nguyên đơn giữ nguyên lời trình bày
rút yêu cầu về việc hủy giấy chứng nhận quyền sử dụng đất s BK 293217 do
UBND huyện N cấp ngày 04/6/2012 cho ông Trần Phú K; đối với các yêu cầu khởi
kiện còn lại bà T giữ nguyên.
Về chi phí xem xét thẩm định, định giá tài sản, nguyên đơn T tự nguyện
chịu.
Về tài sản trên đất tranh chấp, các bên đương sự không yêu cầu Toà án xem xét
giải quyết.
9
Quan điểm của Viện kiểm sát nhân dân khu vực 6 Khánh a phát
biểu quan điểm:
- Về tố tụng: Về việc tuân theo pháp luật tố tụng trong quá trình giải quyết
vụ án của Thẩm phán, Hội đồng xét xử, Thư phiên tòa đã thực hiện đúng theo
quy định của Bộ luật tố tụng dân sự.
Đối với việc chấp hành pháp luật của người tham gia tố tụng: nguyên đơn, bị
đơn, người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan đã thực hiện đúng quy định tại điều 70,
71, 72, 73 của Bộ luật tố tụng dân sự.
- Về nội dung: Căn cứ vào các tài liệu, chứng cứ trong hồ vụ án, đã
được thẩm tra tại phiên toà có đủ cơ sở xác định thửa đất số 54 là tài sản chung của
cụ Đ cụ D. Di sản của cụ Đ ½ diện tích thửa đất. CĐ chết không để lại di
chúc nên chấp nhận yêu cầu khởi kiện chia thừa kế theo pháp luật của nguyên đơn,
chia đều di sản của cụ Đ cho hàng thừa kế thứ nhất gồm cụ D và các con.
Đối với phần tài sản của cD, cụ đã định đoạt lúc còn sống cho ông K, ông
K đã tặng 01 phần diện tích cho ông V nên để đảm bảo tính công bằng xác định
ông K đã tặng ½ diện ch được hưởng của D cho ông V. Do đó, đnghị Hội
đồng xét xử không chấp nhận yêu cầu chia di sản thừa kế của cD.
Ông  đang sử dụng diện tích 93m
2
đất tranh chấp và cho rằng cụ D đã tặng
cho ông phần diện tích đất này nhưng không có chứng cứ về việc cụ D đã tặng cho
ông nên xác định phần diện tích đất này là di sản của cụ Đ chưa chia.
Do ông V, ông K ông  đã sử dụng diện tích đất ổn định, nhng người
thừa kế khác đã chỗ khác nên đnghị Hội đồng xét xử giao đất cho ông V,
ông K và ông  tiếp tục sử dụng họ nghĩa vụ hoàn trả lại giá trị tài sản cho
những người thừa kế khác.
Do ông K, ông V đều được quyền sử dụng đất nên đối với giấy chứng nhận
quyền sử dụng đất số DA 869398 số DA 869399 do Sở Tài nguyên Môi
trường tỉnh N cấp ngày 04/5/2021 cho ông K và ông V không cần thiết phải huỷ.
Đối với yêu cầu huỷ chứng nhận quyền sử dụng đất số BK 293217 do
UBND huyện N cấp ngày 04/6/2012 cho ông Trần Phú K, tại phiên toà nguyên đơn
đã rút yêu cầu nên đề nghị Hội đồng xét xử đình chỉ đối với yêu cầu này.
NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN:
Sau khi nghiên cứu các tài liệu trong hồ ván được thẩm tra tại phiên
tòa và căn cứ vào kết quả tranh tụng tại phiên tòa. Hội đồng xét xử nhận định:
[1] Về thủ tục tố tụng:
[1.1] Về quan hệ pháp luật tranh chấp: Căn cứ vào yêu cầu khởi kiện của
nguyên đơn Trần Thị T, Hội đồng xét xử xác định quan hệ pháp luật tranh chấp
của vụ án Tranh chấp yêu cầu huỷ hp đồng tặng cho quyền sử dụng đất;
10
yêu cầu huỷ giấy chứng nhận quyền sử dụng đất và chia di sản thừa kế là quyền sử
dụng đất theo pháp luật”.
[1.2] Về thẩm quyền giải quyết ván: Bị đơn trú tại T, huyện N (nay
X), căn cứ vào khoản 5 Điều 26, điểm a khoản 1 Điều 35, điểm a khoản 1
Điều 39 Bộ luật Tố tụng dân svụ án thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa án
nhân dân huyện Ninh Hải, tỉnh Ninh Thuận (nay là Toà án nhân dân khu vực 6 -
Khánh Hoà).
[1.3] Về việc vắng mặt của các đương sự: Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên
quan Thị Kim P, Tài Thị N3, Trương Thị T1, Trần ThLệ H, ông
Trần Duy H1, Trần Thị Ngọc H2, ông Trần Duy H3 vắng mặt nhưng đã
người đại diện theo uỷ quyền; UBND X vắng mặt nhưng đơn xin xét xử
vắng mặt. Căn cứ vào Điều 228 của Bộ luật Ttụng dân sự, Hội đồng xét xử tiến
hành xét xử vắng mặt những đương sự trên.
[1.4] Tại phiên toà, nguyên đơn rút yêu cầu huỷ giấy chứng nhận quyền sử
dụng đất số BK 293217 do UBND huyện N cấp ngày 04/6/2012 cho ông Trần Phú
K. Xét thấy việc rút yêu cầu này là tự nguyện, phù hợp pháp luật nên Hội đồng xét
xử đình chỉ đối với yêu cầu này của nguyên đơn.
[1.5] Đối với yêu cầu huỷ giấy chứng nhận quyền s dụng đất số DA
869398 số DA 869399 đều do Sở Tài nguyên Môi trường tỉnh N cấp cùng
ngày 04/5/2021 cho ông Trần Phú K ông Trần Phú V: đây các giấy chứng
nhận quyền sử dụng đất được cấp đổi trên sở thông qua các giao dịch dân sự.
Căn cứ điểm d khoản 2 Điều 106, Điều 195 của Luật Đất đai năm 2013; Điều 79
của Nghị định số 43/2014/NNĐ-CP ngày 15/5/2014 của Chính phủ hướng dẫn
tại điểm 2 mục II của Công văn số 64/TANDTC-PC ngày 03/4/2019 của Tòa án
nhân dân tối cao, Hội đồng xét xử xác định: Việc cấp giấy chứng nhận cho ông ông
K, ông V thủ tục hành chính trong giao dịch dân sự, không mang tính chất của
quyết định hành chính cá biệt. Khi giải quyết tranh chấp thì không cần phải đưa Sở
Tài nguyên Môi trường tỉnh N quan cấp giấy tham gia tố tụng với cách
người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan không cần phải tuyên hủy giấy chứng
nhận quyền sử dụng đất đã cấp. Cơ quan chuyên môn sẽ căn cứ vào quyết định bản
án để giải quyết điều chỉnh biến động hoặc cấp lại giấy chứng nhận quyền sử dụng
đất cho phù hợp.
[2] Về nội dung vụ án:
[2.1] Xét hợp đồng tặng cho quyền sử dụng đất thửa đất số 54 ngày
17/4/2012 giữa cụ Lê Thị D và ông Trần Phú K.
- Về nguồn gốc, quá trình sử dụng thửa đất số 54, tbản đồ số 34b (diện
tích đo đạc thực tế hiện nay là 736m
2
):
11
+ Nguồn gốc: Qúa trình giải quyết vụ án các đương sự đều thừa nhận nguồn
gốc thửa đất số 54 T do vợ chồng cụ Thị Diệu C1 Trần Văn Đ tạo lập trước
năm 1975. Do đó, có đủ cơ sở xác định đây là tài sản chung của cụ D và cụ Đ.
+ Qúa trình sử dụng: Sau khi cụ Đ chết, cụ D cùng với các con ông K
ông V tiếp tục sử dụng đất. Đến năm 2010, ông V cùng vợ ra ở riêng nên chỉ có cụ
D ông K sử dụng đất. Đến ngày 16/02/2011 cụ D được UBND huyện N cấp
giấy chứng nhận quyền sdụng đất 252170. Ngày 19/4/2012, cụ D nộp đơn
đăng chỉnh biến động đổi tên chủ sử dụng đất cho ông Trần Phú K theo hợp
đồng tặng cho ông K được UBND T chứng thực theo số chứng thực 29 quyển
01/2012 TP/CC-SCT/HDGD ngày 17/4/2012. Ngày 04/6/2012, UBND huyện N
cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất số BK 29217 cho ông Trần Phú K. Năm
2020, vợ chồng ông V quay về sống tại thửa đất số 54 để chăm sóc cụ D. Đến ngày
21/12/2020 cụ D chết. Ngày 17/3/2021, vợ chồng ông K đã làm thủ tục tặng cho
ông Nguyễn Phú V2 01 phần đất thuộc thửa đất số 54 diện ch 378m
2
. Ông
Trần Phú K được Sở Tài nguyên Môi trường tỉnh N cấp đổi giấy chứng nhận
quyền sử dụng đất số DA 869398 ngày 04/5/2021 đối với thửa đất 323, diện tích
359m
2
; ông Trần Phú V được Sở Tài nguyên Môi trường tỉnh N giấy chứng
nhận quyền sử dụng đất số DA 869399 ngày 04/5/2021 đối với thửa đất s324,
diện tích 378m
2
.
Ông Trần Phú Â cũng đang sử dụng diện tích 93m
2
thuộc thửa đất số 323
của ông K (tách ra từ thửa đất số 54): ông  cho rằng phần diện tích này trước đây
mẹ ông đã tặng cho ông, tuy nhiên những người thừa kế cụ Đ, cụ D không thừa
nhận ông  không đưa ra được chứng cứ nào về việc được tặng cho đất nên
sở xác định quá trình sdụng thửa đất số 53 liền kề ông  đã sử dụng lấn sang
thửa đất số 54 của cụ D và cụ Đ.
- Do vậy, n cứ xác định toàn bộ thửa đất 54, diện tích theo đo đạc hiện
nay 736m
2
tài sản chung của cĐ cụ D. Phần tài sản của cụ Đ cụ D là ½
diện tích thửa đất số 54 tương ứng với diện tích 368m
2
. Cụ D chết sau cụ Đ nên
được hưởng thêm 01 kỷ phần thừa kế của cĐ.
Tuy nhiên, sau khi cụ Đ chết, vào năm 2012 cụ D đã định đoạt toàn bộ thửa
đất số 54 bằng việc tặng cho ông K, bao gồm cả phần tài sản của cụ Đ không
đúng quy định của pháp luật.
Do đó, hợp đồng tặng cho ngày 17/4/2012 của cụ D cho ông K chỉ hiệu
lực đối với phần diện tích của cụ D 368 m
2
, phần tài sản của cụ D được hưởng của
cụ Đ và vô hiệu đối với phần diện tích còn lại của cụ Đ.
[2.2] Xét yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn về việc chia di sản thừa kế
thửa đất số 54 của cụ Trần Trần n Đ cụ Thị D theo quy định của
12
pháp luật.
Như đã phân tích mục [2.1] thì phần tài sản cụ D đã được cụ D định đoạt
khi còn sống (tặng cho ông K). Đối với phần tài sản của Cụ Được khi sống chưa
được định đoạt cho ai, cụ Đ chết không để lại di chúc. Do đó, Hội đồng xét xử
chấp nhận một phần yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn về việc chia thừa kế theo
pháp luật đối với phần tài sản của cụ Đ.
Đối với biên bản thỏa thuận gia đình ngày 04/9/2017 (BL175) do thiếu
người thừa kế thuộc hàng thừa kế thứ nhất của cụ Đ nên việc tự phân chia tài sản là
không hợp pháp.
[2.3] Về thời hiệu thừa kế đối với phần di sản của cụ Đ:
Do không đương sự nào yêu cầu áp dụng thời hiệu thừa kế nên Hội đồng
xét xử không xem xét vấn đề thời hiệu thừa kế phân chia di sản thừa kế của cụ
Đ theo quy định của pháp luật.
[2.4] Về hàng thừa kế theo pháp luật của cụ Đ:
- Qúa trình giải quyết vụ án, các đương sự đều thừa nhận: vợ chồng cụ Trần
Văn Đ cụ Lê Thị D có 08 người con chung: Trần Văn L1 (chết năm 1995), Trần
Thị T, Trần Thị L, Trần Phú Â, Trần Phú K, Trần Phú V, Trần Thị N2, Trần Phú
L2 (chết năm 1983, không vợ con). Ngoài ra cụ Đ cụ D không có con nuôi,
con riêng nào khác.
- Các bên đương sự cam kết không giấu tên, địa chỉ của những người thừa kế
nào khác trong vụ án.
Do đó, hàng thừa kế thứ nhất của cĐ được xác định là: cụ Thị D, ông
Trần Văn L1 (chết năm 1995), bà Trần Thị T, Trần Thị L, ông Trần Phú Â, ông
Trần Phú K, ông Trần Phú V, Trần Thị N2. Do ông L1 chết sau cụ Đ nên vợ
các con của ông L1 được hưởng thừa kế chuyển tiếp.
[2.5] Phân chia di sản thừa kế theo pháp luật của cụ Trần Văn Đ.
- Di sản của cụ Đ tương ứng ½ diện tích thửa đất số 54 368m
2
được chia
đều cho hàng thừa kế thứ nhất của cụ Đ (08 kỷ phần) gồm cụ D và 07 người con là
L1, T, L, Â, K, V, N2. Mỗi kỷ phần tương ứng: 368m
2
: 8 = 46m
2
.
- Đối với phần tài sản của cD.
Phần tài sản của cụ D gồm ½ diện tích thửa đất số 54 368 m
2
phần tài
sản của cụ D được hưởng của cụ Đ46 m
2
(tổng 414m
2
).
Khi còn sống cụ D đã định đoạt toàn bộ phần diện tích này (tặng cho) cho
ông Trần Phú K. Đến năm 2021, vợ chồng ông K đã lập hợp đồng tặng cho ông V
phần diện tích 378m
2
(thửa đất 324). Thủ tục việc tặng cho này được thực hiện
theo quy định của pháp luật. Ông V đã được cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng
đất đối với diện tích đất này và hiện nay ông V đang sử dụng đất.
13
Tại phiên toà, ông K xác định năm 2021 vợ chồng ông đồng ý tặng phần
diện tích này cho ông V là do ông V không đồng ý việc bà D tặng cho toàn bộ thửa
đất này cho ông K trong khi ông V cũng có công chăm sóc mẹ. Tại thời điểm tặng
cho, ông nghĩ ông được hưởng toàn bộ thửa đất số 54 nên ông và ông V đã tự thỏa
thuận phân chia thửa đất số 54 bằng việc ông K lập hợp đồng tặng 378m
2
cho ông
V vào ngày 17/3/2021. Ông K xác định nếu ông chỉ được hưởng phần diện tích đất
của mẹ 414m
2
thì ông chỉ đồng ý tặng cho ông V ½ diện tích tương ứng 207m
2
.
Do đó, để đảm bảo lẽ công bằng giữa quyền lợi của ông K và ông V, Hội đồng xét
xử xác định trong phần diện tích ông K đã tặng cho ông V ½ diện tích đất
phần tài sản của cụ D đã tặng cho ông K và phần diện tích còn lại của cụ Đ,
trong phần diện tích ông K đang sử dụng gồm ½ diện tích đất phần tài sản
của cụ D đã tặng cho ông K và phần diện tích còn lại là của cụ Đ.
Như vậy đối với phần tài sản của cD: ông K được hưởng toàn bộ 414 m
2
nhưng ông K đã tặng cho ông V ½ diện tích này nên ông K được quyền sử dụng
207m
2
; ông V được quyền sử dụng 207m
2
.
- Ông Trần Phú K, ông Trần Phú V ông Trần Phú Â là những người thừa
kế đang trực tiếp quản lý, sử dụng diện tích tranh chấp, cụ thể ông V đang sử dụng
388m
2
ã trừ 1m
2
lấn đất giao thông); ông K đang sử dụng 255m
2
ông  đang
sử dụng 93m
2
.
- Mặc những người thừa kế bà T, L, N2 vợ con ông L1 đều
muốn nhận kỷ phần thừa kế của cụ Đ bằng hiện vật là đất. Tuy nhiên, Hội đồng xét
xử xét thấy những người thừa kế này đã chỗ khác kỷ phần họ được hưởng
cũng như phần diện tích n lại ông K, ông  đang sử dụng (ngoài phần diện
tích các ông được hưởng) cũng không đảm bảo diện tích tách thửa theo quy định
của pháp luật; Phần diện ch đất còn lại ngoài phần diện tích ông V được hưởng
ông V đã sử dụng ổn định; ông Â, ông K và ông V đã xây hàng rào bao quanh đất.
Do đó, ông V, ông K ông  sẽ được giao đất để sử dụng; bà T, L, N2
vợ con ông L1 sẽ nhận kỷ phần thừa kế bằng giá trị.
- Tại biên bản định giá ngày 13/5/2025 của Hội đồng định giá xác định giá
trị đất tranh chấp theo thị trường là 2.000.000đ/m
2
.
- Ông V ông K được giao phần tài sản của cụ D nhận kỷ phần thừa kế
của cụ Đ bằng hiện vật; ông  được kỷ phần thừa kế bằng hiện vật phần diện
tích vượt quá phần tài sản được hưởng thì họ được quyền sử dụng nhưng nghĩa
vụ hoàn lại giá trị kỷ phần bằng tiền cho những người thừa kế khác bà T, L,
N4 và vợ con ông L1, cụ thể như sau:
+ Ông K được hưởng phần tài sản diện tích 253m
2
(gồm 207m
2
của cụ D
kỷ phần thừa kế 46m
2
của cụ Đ), ông K được quyền sử dụng phần diện ch
255m
2
. Như vậy, phần diện tích ông K phải có nghĩa vụ hoàn trả cho những người
thừa kế khác là: 02 m
2
x 2.000.000đ/m
2
= 4.000.000đ.
14
+ Ông V được hưởng phần tài sản có diện tích 253m
2
(gồm 207m
2
của cụ D
ông K đã tặng cho ông V kỷ phần thừa kế 46m
2
của cụ Đ), ông V được
quyền sử dụng phần diện tích 388m
2
. Như vậy, phần diện tích ông V phải
nghĩa vụ hoàn trả cho những người thừa kế khác là: 135 m
2
x 2.000.000đ/m
2
=
270.000.000đ.
+ Ông  được hưởng kỷ phần thừa kế của cụ Đ 46m
2
, ông  được quyền
sử dụng phần diện tích 93m
2
. Như vậy, phần diện tích ông  phải nghĩa vụ
hoàn trả cho những người thừa kế khác là: 47 m
2
x 2.000.000đ/m
2
= 94.000.000đ.
+ T, L, N2 ông L1, mỗi người được ởng giá trị kỷ phần thừa
kế của cụ Đ là 46,0625m
2
x 2.000.000đ = 92.125.000đ.
+ Ông V có nghĩa vụ thanh toán giá trị di sản cho: bà T là 92.000.000đ; bà L
là 92.000.000đ; bà N2 là 86.000.000đ.
+ Ông K nghĩa vụ thanh toán gtrị di sản cho N2 4.000.000đ; ông
 có nghĩa vụ thanh toán giá trị di sản cho bà N2 là 2.000.000đ.
+ Ông  nghĩa vthanh toán giá trị di sản cho những người thừa kế của
ông L1 gồm bà T1, bà H, ông H1, bà H2, ông H3, bà H4 là 92.000.000đ.
- Đối với các tài sản gắn liền với đất trên diện tích đất tranh chấp do ông K,
ông V và ông  đang quản lý, sdụng, các đương sự không yêu cầu Toà án giải
quyết nên Hội đồng xét xử không xem xét.
- Đối với phần diện tích 3m
2
ông K đang sử dụng lấn sang thửa đất số 53 đã
được cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất cho ông  nhưng ông  không u
cầu Toà án giải quyết trong vụ án này nên Hội đồng xét xử không xem xét.
[2.6] Đối với yêu cầu của nguyên đơn về việc huỷ giấy chứng nhận quyền sử
dụng đất số DA 869398 sDA 869399 đều do Sở Tài nguyên Môi trường
tỉnh N cấp cùng ngày 04/5/2021 cho ông Trần Phú K và ông Trần Phú V.
Như đã nhận định tại mục [1.5] thì c giấy chứng nhận quyền sử dụng đất
này được cấp theo thủ tục hành chính trong giao dịch dân sự, không mang tính
quyết định hành chính biệt nên không cần thiết phải huỷ, ông K ông V đều
được quyền sử dụng 01 phần diện tích đất tranh chấp. Do đó, ông K ông V
nghĩa vụ giao lại giấy chứng nhận quyền sử dụng đất số DA 869398 số DA
869399 đều do Sở Tài nguyên Môi trường tỉnh N cấp cùng ngày 04/5/2021cho
cơ quan nhà nước có thẩm quyền để ông K, ông V và ông  đi làm thủ tục chỉnh lý
biến động hoặc đăng cấp lại giấy chứng nhận quyền sử dụng đất theo đúng quy
định của pháp luật đất đai.
[3] Về chi phí xem xét thẩm định, đo đạc và định giá:
Chi phí xem xét thẩm định, đo đạc định giá tài sản hết tổng số tiền
8.493.600đ (tám triệu bốn trăm chín mươi ba nghìn sáu trăm đồng). Tại phiên toà,
15
nguyên đơn bà T tự nguyện chịu chi phí này và đã nộp đủ.
[4] Về án phí: T, bà L, ông Â, N2 T1 người cao tuổi yêu
cầu được miễn án phí nên được miễn án phí dân sự thẩm theo quy định tại
khoản 1 Điều 12 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016.
Những người còn lại được nhận kỷ phần thừa kế của cụ Đ phải chịu án phí
theo quy định của pháp luật, cụ thể:
Ông V ông K, mỗi người phải chịu 4.600.000đ án pdân sự sơ thẩm
(cách tính: (46m
2
x 2.000.000đ/m
2
) x 5%)).
Bà H, ông H1, bà H2, ông H3, bà H4 liên đới chịu 3.833.000đ (làm tròn) án
phí dân sự sơ thẩm (cách tính: (92.000.000đ - 15.333.333đ (phần được miễn án phí
của bà T1) x5%)).
Vì các lẽ trên;
QUYẾT ĐỊNH:
Căn cứ vào các Điều 26, 35, 39, 147, 217, 228, 271 Điều 273 Bộ luật tố
tụng dân sự năm 2015;
Điều 135 Bộ luật dân sự năm 2005;
Các Điều 149, 609, 611, 612, 649; 650 và Điều 651 Bộ luật dân sự 2015.
Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường
vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu nộp, quản và sdụng án phí
và lệ phí Tòa án.
Tuyên xử:
1. Đình chỉ đối với yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn bà Trần Thị T về việc
huỷ giấy chứng nhận quyền sử dụng đất số BK 293217 do UBND huyện N, tỉnh
Ninh Thuận cấp ngày 04/6/2012 cho ông Trần Phú K.
2. Chấp nhận một phần yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn bà Trần Thị T.
- Chia di sản thừa kế 368m
2
thuộc một phần thửa đất số 54, tờ bản đồ số
34b, toạ lạc tại thôn G, xã X, tỉnh Khánh Hòa của cụ Trần Văn Đ theo pháp luật.
- Tuyên bố hợp tặng cho quyền sử dụng đất tài sản gắn liền với đất ngày
17/4/2012 giữa cụ Lê Thị D và ông Trần Phú K bị vô hiệu 01 phần.
- Không chấp nhận yêu cầu chia di sản thừa kế của cụ Thị D thuộc một
phần thửa đất số 54, tờ bản đồ số 34b toạ lạc tại thôn G, xã X, tỉnh Khánh Hòa.
- Ông Trần Phú V được quyền sử dụng tổng diện tích 388m
2
(gồm 353m
2
đất
ở nông thôn, 35m
2
đất nông nghiệp khác) được xác định bởi các điểm (1, 2, 3, 4, 5,
6, 7, 9, 10, 11,12, 13, 14, 15, 16, 1) thuộc một phần thửa đất số 324, tbản đồ số
34b toạ lạc tại thôn G, T, huyện N, tỉnh Ninh Thuận (nay là thôn G, X, tỉnh
16
Khánh Hòa) theo Trích lục bản đđịa chính ngày 16/4/2024 của Văn phòng Đ1 -
Chi nhánh N5.
- Ông Trần Phú K được quyền sử dụng tổng diện tích 255m
2
(đất nông
thôn) được xác định bởi các điểm (11, 12, 13, 14, 15, 30, 21, 29, 28, 27, 26, 18, 17,
10, 11) thuộc một phần thửa đất số 356, tờ bản đồ số 34b toạ lạc tại thôn G, T,
huyện N, tỉnh Ninh Thuận (nay thôn G, X, tỉnh Khánh Hòa) theo Trích lục
bản đồ địa chính ngày 16/4/2024 của Văn phòng Đ1 - Chi nhánh N5.
- Ông Trần Phú Â được quyền sử dụng tổng diện tích 93m
2
(gồm 80m
2
đất ở
nông thôn, 13m
2
đất nông nghiệp khác) được xác định bởi các điểm (16, 15, 25,
24, 16) thuộc một phần thửa đất số 355, tờ bản đồ số 34b toạ lạc tại thôn G, T,
huyện N, tỉnh Ninh Thuận (nay thôn G, X, tỉnh Khánh Hòa) theo Trích lục
bản đồ địa chính ngày 16/4/2024 của Văn phòng Đ1 - Chi nhánh N5.
- Ông Trần Phú V có nghĩa vụ thanh toán giá trị di sản cho: T là
92.000.000đ (chín mươi hai triệu đồng); L 92.000.000đ (chín mươi hai triệu
đồng) và bà N2 là 86.000.000đ (tám mươi sáu triệu đồng).
- Ông Trần Phú K nghĩa vụ thanh toán giá trị di sản cho N2
4.000.000đ (bốn triệu đồng).
- Ông Trần Phú Â nghĩa vụ thanh toán giá trị di sản cho N2
2.000.000đ (hai triệu đồng).
- Ông Trần Phú Â nghĩa vụ thanh toán giá trị di sản cho những người
thừa kế của ông Trần Văn L1 là Trương Thị T1, bà Trần Thị Lệ H, ông Trần
Duy H1, bà Trần Thị Ngọc H2, ông Trần Duy H3, Trần Thị N H4
92.000.000đ (chín mươi hai triệu đồng).
Ông Trần Phú V nghĩa vụ nộp lại bản chính giấy chứng nhận quyền sử
dụng đất số DA 869399 do Sở Tài nguyên và Môi trường tỉnh N cấp ngày
04/5/2021; ông Trần Phú K nghĩa vụ nộp lại bản chính giấy chứng nhận quyền
sử dụng đất số DA 869398 do Sở Tài nguyên Môi trường tỉnh N cấp ngày
04/5/2021 cho quan nhà nước thẩm quyền để các bên đương sự có quyền sử
dụng đất đăng ký, chỉnh lý biến động đối với diện tích được nhận.
Ông Trần PV, ông Trần Phú K và ông Trần Phú Â quyền nghĩa vụ
liên hệ với quan nhà nước thẩm quyền để chỉnh biến động, đăng cấp
giấy chứng nhận quyền sử dụng diện tích đất được nhận theo quy định của pháp
luật đất đai.
3. Về chi phí thẩm định, đo đạc và định giá tài sản:
17
Chi phí xem xét thẩm định, đo đạc định giá tài sản hết tổng số tiền
8.493.600đ (tám triệu bốn trăm chín mươi ba nghìn sáu trăm đồng). Nguyên đơn
Trần Thị T tự nguyện chịu chi phí này và đã nộp đủ.
4. Về án phí:
- Trần Thị T, Trần Thị L, ông Trần Phú Â, Trần Thị N2
Trương Thị T1 được miễn án phí dân sự sơ thẩm.
- Ông Trần Phú V ông Trần Phú K, mỗi người phải chịu 4.600.000đ (bốn
triệu sáu trăm nghìn đồng) án phí dân sự sơ thẩm.
- Bà Trần Thị Lệ H, ông Trần Duy H1, Trần Thị Ngọc H2, ông Trần Duy
H3, Trần Thị Như H4 phải liên đới chịu 3.833.000đ (ba triệu tám trăm ba mươi
ba nghìn đồng) án phí dân sự sơ thẩm.
Kể từ ngày quyết định có hiệu lực pháp luật (đối với các trường hợp cơ quan
thi hành án quyền chủ động ra quyết định thi hành án) hoặc kể từ ngày đơn
yêu cầu thi hành án của người được thi hành án (đối với các khoản tiền phải trả cho
người được thi hành án) cho đến khi thi hành án xong, bên phải thi hành án còn
phải chịu khoản tiền lãi của số tiền còn phải thi hành án theo mức lãi suất quy định
tại Điều 468 Bộ luật Dân sự tương ứng với thời gian chưa thi hành án.
Trường hợp bản án, quyết định được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật
thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi nh án dân
sự quyền thỏa thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành
án hoặc bcưỡng chế thi hành án theo quy định tại các Điều 6, 7, 7a 9 Luật thi
hành án dân sự; thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30
Luật thi hành án dân sự
Án xử công khai sơ thẩm, các đương sự mặt được quyền kháng cáo trong
thời hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án, các đương sự vắng mặt được quyền kháng
cáo trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày bản án được tống đạt hợp lệ./.
(Kèm theo Trích lục bản đồ địa chính ngày 16/4/2024 của Văn phòng Đ1 -
Chi nhánh N5 (nay là Văn phòng Đ2 Chi nhánh N5)).
Nơi nhận:
- TAND tỉnh Khánh Hòa;
- VKSND KV 6-Khánh Hòa;
- Phòng THADSKV 6-Khánh Hòa;
- Các đương sự;
- Lưu (hồ sơ, án văn).
TM. HỘI ĐỒNG XÉT XỬ SƠ THẨM
THẨM PHÁN-CHỦ TỌA PHIÊN TÒA
(Đã ký)
Đinh Thị Thành
Tải về
Bản án số 05/2025/DS-ST Bản án số 05/2025/DS-ST

Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để tải file. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!

Bản án số 05/2025/DS-ST Bản án số 05/2025/DS-ST

Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để tải file. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!

Bản án/ Quyết định cùng đối tượng

Bản án cùng lĩnh vực

Bản án mới nhất