Bản án số 657/DS-PT ngày 17/09/2025 của TAND tỉnh Tây Ninh về tranh chấp hợp đồng tặng cho tài sản
- Thuộc tính
- Nội dung
- VB gốc
- VB liên quan
- Lược đồ
- Đính chính
- Án lệ
- BA/QĐ cùng nội dung
- Tải về
Tải văn bản
-
Bản án số 657/DS-PT
Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để tải file. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!
-
Bản án số 657/DS-PT
Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để tải file. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!
Báo lỗi
Thuộc tính Bản án 657/DS-PT
| Tên Bản án: | Bản án số 657/DS-PT ngày 17/09/2025 của TAND tỉnh Tây Ninh về tranh chấp hợp đồng tặng cho tài sản |
|---|---|
| Quan hệ pháp luật: | Tranh chấp hợp đồng tặng cho tài sản |
| Cấp xét xử: | Phúc thẩm |
| Tòa án xét xử: | TAND tỉnh Tây Ninh |
| Số hiệu: | 657/DS-PT |
| Loại văn bản: | Bản án |
| Ngày ban hành: | 17/09/2025 |
| Lĩnh vực: | Dân sự |
| Áp dụng án lệ: |
Đã biết
Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để xem áp dụng án lệ. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây! |
| Đính chính: |
Đã biết
Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để xem đính chính. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây! |
| Thông tin về vụ/việc: | rần Thị Mới "Tranh chấp hợp đồng tặng cho quyền sử dụng đất" Nguyễn Quang Th, Dương Thị Th |
Tóm tắt Bản án
Nội dung tóm tắt đang được cập nhật, Quý khách vui lòng quay lại sau!
Tải văn bản

TÒA ÁN NHÂN DÂN
TỈNH TÂY NINH
¯¯¯¯¯¯¯¯¯
Bản án số: 657/2025/DS-PT
Ngày: 17-9-2025
V/v Tranh chấp hợp đồng tặng
cho quyền sử dụng đất, hủy giấy
chứng nhận quyền sử dụng đất;
hợp đồng chuyển nhượng quyền
sử dụng đất; hợp đồng ủy quyền
quyền sử dụng đất và công nhận
quyền sử dụng đất.
CỘNG HÒA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM
Độc lập - Tự do - Hạnh phúc
NHÂN DANH
NƯỚC CỘNG HÒA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM
TÒA ÁN NHÂN DÂN TỈNH TÂY NINH
- Thành phần Hội đồng xét xử phúc thẩm gồm có:
Thẩm phán – Chủ tọa phiên tòa:Ông Trần Trọng Nhân
Các Thẩm phán:Bà Phùng Thị Cẩm Hồng
Ông Nguyễn Văn Nam.
- Thư ký phiên tòa: Bà Ngô Hồng Thúy – Thẩm tra viên Tòa án nhân dân
tỉnh Tây Ninh.
- Đại diện Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Tây Ninh tham gia phiên tòa: Bà
Trần Thị Thùy Dung - Kiểm sát viên.
Trong các ngày 15 và ngày 17 tháng 9 năm 2025, tại trụ sở Tòa án nhân dân
tỉnh Tây Ninh xét xử phúc thẩm công khai vụ án thụ lý số 222/2025/TLPT-DS ngày
16 tháng 6 năm 2025 về việc “Tranh chấp hợp đồng tặng cho quyền sử dụng đất,
hủy giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng
đất, hợp đồng ủy quyền quyền sử dụng đất và công nhận quyền sử dụng đất” .
Do Bản án dân sự sơ thẩm số 38/2025/DS-ST ngày 07 tháng 3 năm 2025 của
Tòa án nhân dân huyện Đức Hòa, tỉnh Long An nay là Tòa án nhân dân khu vực 3 -
Tây Ninh,oaòaHoa2 bị kháng cáo.
Theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử phúc thẩm số 328/2025/QĐ-PT ngày
07 tháng 7 năm 2025, giữa các đương sự:
- Nguyên đơn: Bà Trần Thị M, sinh năm 1941, CCCD số 079141004908; địa
chỉ: Số I khu A, xã H, tỉnh Tây Ninh; địa chỉ cũ: số I khu A, thị trấn H, huyện Đ,
tỉnh Long An, có mặt.
Người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp: Luật sư Nguyễn Quang K – Luật
sư thuộc Đoàn Luật sư tỉnh Đ, có mặt.
2
Người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp: Luật sư Ngô Văn Đ – Luật sư thuộc
Đoàn Luật sư tỉnh Đ, có mặt.
Người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp: Luật sư Hoàng Cao S – Luật sư
thuộc Đoàn Luật sư Thành phố H, có mặt.
- Bị đơn:
1. Bà Dương Thị T, sinh năm 1973; địa chỉ: ấp S, xã H, tỉnh Tây Ninh; địa
chỉ cũ: ấp S, thị trấn H, huyện Đ, tỉnh Long An, vắng mặt.
2. Ông Nguyễn Quang T1, sinh năm 1964; địa chỉ: ấp S, xã H, tỉnh Tây Ninh;
địa chỉ cũ: ấp S, thị trấn H, huyện Đ, tỉnh Long An, vắng mặt
- Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan:
1. Bà Nguyễn Thị Thanh T2, sinh năm 1967, CCCD số 079167038256; địa
chỉ: Số I khu A, xã H, tỉnh Tây Ninh; địa chỉ cũ: Số I khu A, thị trấn H, huyện Đ,
tỉnh Long An, có mặt.
2. Ông Nguyễn Quang L, sinh năm 1973; địa chỉ: Số I khu A, xã H, tỉnh Tây
Ninh; địa chỉ cũ: Số I khu A, thị trấn H, huyện Đ, tỉnh Long An.
Người đại diện theo pháp luật: bà Trần Thị M, sinh năm 1941; địa chỉ: Số I
khu A, xã H, tỉnh Tây Ninh; địa chỉ cũ: Số I khu A, thị trấn H, huyện Đ, tỉnh Long
An, có mặt.
3. Ông Lê Thanh H, sinh năm 1978; địa chỉ: Số A, đường T, phường T,
Thành phố Hồ Chí Minh; địa chỉ cũ: Số A, đường T, Phường A, quận T, Thành phố
Hồ Chí Minh.
Người đại diện theo ủy quyền của ông H: ông Trần Như V, sinh năm 1991;
địa chỉ: số A, đường T, phường T, Thành phố Hồ Chí Minh; địa chỉ cũ: số113 đường
T, Phường A, quận T, Thành phố Hồ Chí Minh.
4. Bà Lê Thị Diệu Q, sinh năm 1983; địa chỉ: Số A, đường T, phường T,
Thành phố Hồ Chí Minh; địa chỉ cũ: số A, đường T, Phường A, quận T, Thành phố
Hồ Chí Minh, vắng mặt.
5. Văn phòng C; địa chỉ: ấp G, xã H, tỉnh Tây Ninh; địa chỉ cũ: ấp G, thị trấn
H, huyện Đ, tỉnh Long An, có đơn xin vắng.
6. Ủy ban nhân dân xã T, huyện Đ, tỉnh Long An (đã sáp nhập). Đơn vị kế
thừa: Ủy ban nhân dân xã H, tỉnh Tây Ninh, vắng mặt.
7. Ủy ban nhân dân huyện Đ, tỉnh Long An (đã kết thúc hoạt động). Đơn vị
kế thừa: Chủ tịch Ủy ban nhân dân xã H, tỉnh Tây Ninh, vắng mặt.
7. Sở Tài nguyên và Môi trường tỉnh L, nay là Sở Nông Nghiệp và Môi
trường tỉnh T, có đơn xin vắng.
- Người kháng cáo: Nguyên đơn bà Trần Thị M; người có quyền lợi, nghĩa
vụ liên quan ông Lê Thanh H.
NỘI DUNG VỤ ÁN:
3
Theo đơn khởi kiện và trong quá trình giải quyết vụ án cũng như tại phiên
tòa, nguyên đơn bà Trần Thị M và người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của bà
M trình bày:
Bà Trần Thị M và ông Nguyễn Bá Đ1 là vợ chồng, có 03 người con chung
gồm ông Nguyễn Quang T1, bà Nguyễn Thị Thanh T2 và ông Nguyễn Quang L.
Ông L bị bệnh bại liệt từ nhỏ và do bà M là người giám hộ, theo Quyết định tuyên
bố một người bị mất năng lực hành vi dân sự số 08/2023/QDDST-DS ngày
12/9/2023 của Tòa án nhân dân huyện Đức Hòa, tỉnh Long An.
Bà M và ông Đ1 tạo lập tài sản chung gồm các thửa đất: thửa đất số 142,
diện tích 3.173m
2
, đất vườn; thửa đất số 160, diện tích 346m
2
đất nghĩa địa; thửa đất
số 161, diện tích 438m
2
đất lúa màu; thửa đất số 162, diện tích 1.933m
2
đất lúa màu;
thửa đất số 163, diện tích 592m
2
, đất thổ và trên đất có căn nhà cấp 4 tường gạch,
mái tôn (nhà chưa được công nhận quyền sở hữu); thửa số 164, diện tích 1.586m
2
,
đất lúa màu và thửa đất số 203, diện tích 1.478m
2
, đất lúa màu. Các thửa đất trên
thuộc tờ bản đồ số 19, đất tọa lạc ấp C, xã T, huyện Đ, tỉnh Long An theo Giấy chứng
nhận quyền sử dụng đất do Ủy ban nhân dân huyện Đ, tỉnh Long An cấp cho ông
Đ1 ngày 01/7/1997.
Năm 2008, bà M và ông Đ1 cùng các con có thống nhất chia đất cho các con
như sau: Tặng cho ông T1 diện tích 5.243m
2
gồm đất thổ, vườn tạp và lúa. Tặng cho
ông L diện tích 3.957m
2
đất lúa. Tuy nhiên, do L bị bệnh từ nhỏ, cần có người chăm
sóc nên bà M, ông Đ1, bà T2 và ông T1 thống nhất để cho ông T1 đứng tên giấy
chứng nhận quyền sử dụng toàn bộ phần diện tích 9.200m
2
(bao gồm phần diện tích
5.243m
2
cho ông T1 và phần diện tích 3.957m
2
cho ông L) và giao cho ông Thanh
quản L1, sử dụng đất với điều kiện ông T1 có trách nhiệm chăm sóc, nuôi dưỡng
ông L vì ông T1 ở chung nhà với bà M, ông Đ1 và ông L.
Năm 2013, ông T1 và vợ là bà Dương Thị T xin ra ở riêng và không chăm
sóc, nuôi dưỡng ông L nữa. Do đó, ngày 13/01/2014, bà M, ông Đ1 tổ chức họp gia
đình và lập Biên bản họp gia đình với nội dung: bà M, ông Đ1 đồng ý cho vợ chồng
ông T1 ra ở riêng, vợ chồng ông T1 có trách nhiệm giao trả lại cho ông Đ1, bà M
phần diện tích 3.957m
2
đã thỏa thuận cho ông L trước đây để ông Đ1, bà M có điều
kiện chăm sóc, nuôi dưỡng ông L. Thời hạn trả lại đất là ngày 31/12/2014. Ông T1
và bà T đồng ý giao trả lại phần đất trên cho bà M và ông Đ1 ngày 31/12/2014.
Tuy nhiên, ông T1 và bà T không thực hiện đúng cam kết theo Biên bản họp
gia đình ngày 13/01/2014. Đến năm 2021, ông T1 tự ý làm hợp đồng chuyển nhượng
các thửa đất số 142, 161, 162, 163, 164, 203 cho bà T và đến năm 2022, bà T đã
chuyển nhượng các thửa đất số 142, 163, 164 cho ông Lê Thanh H. Năm 2019, ông
Đ1 chết. Nay, bà M khởi kiện yêu cầu Toà án xem xét, giải quyết:
1. Yêu cầu vô hiệu một phần Hợp đồng tặng cho Quyền sử dụng đất giữa
ông Nguyễn Bá Đ1 với ông Nguyễn Quang T1 (tự H1) được chủ tịch UBND xã T
chứng thực ngày 06/11/2008 đối với phần đất thuộc thửa đất số 163 và một phần
thửa đất số 142 có diện tích 1345,5m
2
, tại khu A1 theo Mảnh trích đo địa chính của
Công ty TNHH Đ2, ngày 25/11/2024 và thửa đất số 164 tờ bản đồ số 19, với diện
tích 1.586m
2
loại đất: LUA, đất tọa lạc tại ấp C, xã T, huyện Đ, tỉnh Long An.
4
2. Hủy giấy chứng nhận QSD đất do UBND huyện Đ cấp cho ông Nguyễn
Quang T1 đối với phần đất thuộc thửa đất số 163 và một phần thửa đất số 142 có
diện tích 1345,5m
2
, tại khu A1 theo Mảnh trích đo địa chính của Công ty TNHH Đ2,
ngày 25/11/2024 và thửa đất số 164 tờ bản đồ số 19, với diện tích 1.586m
2
loại đất:
LUA, đất cùng tọa lạc tại ấp C, xã T, huyện Đ, tỉnh Long An.
3. Vô hiệu một phần Hợp đồng chuyển nhượng QSD đất giữa ông Nguyễn
Quang T1 với bà Dương Thị T được Văn phòng C công chứng ngày 17/05/2021 đối
với các thửa đất sau: thửa 163 và một phần thửa 142 có diện tích 1.345,5m
2
, tại khu
A1 theo Mảnh trích đo địa chính của Công ty TNHH Đ2, ngày 25/11/2024 và thửa
số 164, tờ bản đồ số 19, với diện tích 1.586m
2
loại đất: LUA, đất cùng tọa lạc tại ấp
C, xã T, huyện Đ, tỉnh Long An.
4. Hủy giấy chứng nhận QSD đất do Sở TNMT tỉnh L cấp cho bà Dương Thị
T đối với phần đất thuộc thửa đất số 163 và một phần thửa đất số 142 có diện tích
1.345,5m
2
, tại khu A1 theo Mảnh trích đo địa chính của Công ty TNHH Đ2, ngày
25/11/2024 và thửa 164, tờ bản đồ số 19, diện tích 1.586m
2
, đất cùng tọa lạc tại ấp
C, xã T, huyện Đ, tỉnh Long An.
5. Vô hiệu một phần Hợp đồng chuyển nhượng QSD đất giữa bà Dương Thị
T với ông Lê Thanh H đối với phần đất thuộc thửa 163 và một phần thửa 142 có
diện tích 1.345,5m
2
, tại khu A1 theo Mảnh trích đo địa chính của Công ty TNHH
Đ2, ngày 25/11/2024.
6. Vô hiệu Hợp đồng ủy quyền QSD đất giữa bà Dương Thị T với ông Lê
Thanh H được tại Văn phòng C công chứng ngày 16/12/2022 đối với thửa đất số
164, tờ bản đồ số 19, với diện tích 1.586m
2
, đất tọa lạc tại ấp C, xã T, huyện Đ, tỉnh
Long An.
7. Yêu cầu Tòa án công nhận phần đất thuộc thửa đất số 163 và một phần
thửa đất số 142 có diện tích 1.345,5m
2
tại khu A1 theo Mảnh trích đo địa chính của
Công ty TNHH Đ2, ngày 25/11/2024 thuộc sở hữu hợp pháp của bà Trần Thị M, bà
M được quyền trực tiếp quản lý và sử dụng các thửa trên.
8. Yêu cầu Tòa án công nhận phần đất thuộc thửa đất số 164, diện tích
1.586m
2
cùng thuộc tờ bản đồ số 19, đất cùng tọa lạc tại: ấp C, xã T, huyện Đ, tỉnh
Long An thuộc quyền sử dụng của ông Nguyễn Quang L, bà Trần Thị M trực tiếp
quản lý và sử dụng các thửa đất của ông L vì là người giám hộ cho ông L.
Đối với yêu cầu vô hiệu các hợp đồng tặng cho, hợp đồng chuyển nhượng
QSDĐ liên quan đến các thửa 160, 161, 162, tờ bản đồ số 19, đã được tách ra thành
vụ án khác, nên bà M không yêu cầu trong vụ án này.
Bị đơn bà Dương Thị T trình bày: Bà và ông T1 là vợ chồng có đăng ký kết
hôn năm 1994, đến ngày 13/01/2021 thì vợ chồng ly hôn.
Ngày 17/5/2021, ông T1 có chuyển nhượng cho bà các thửa đất số 142, 161,
162, 163, 164, 203, TBĐ số 19, toạ lạc ấp C, xã T, huyện Đ, tỉnh Long An. Nguồn
gốc các thửa đất này của ông Đ1, bà M tặng cho ông T1 vào năm 2008. Thời điểm
cho đất, bà và ông T1 là người trực tiếp quản lý, sử dụng các thửa đất trên. Khi cho
đất, ông Đ1, bà M có nói bằng lời nói là ông T1 có trách nhiệm nuôi cha mẹ và ông
L. Ông Đ1, bà M có nói cho ông L một phần đất nhưng không nói cụ thể cho thửa
5
đất nào và nếu cho ông L thửa 164 thì phần đất còn lại bà và ông T1 không có lối đi
vào. Tháng 12/2022, bà chuyển nhượng cho ông H các thửa đất số 142, 163, 164 và
tài sản trên đất (gồm nhà, cây cối, tường rào) với giá là 14.900.000.000 đồng, trong
đó thửa 142, 163 làm hợp đồng chuyển nhượng, thửa 164 làm hợp đồng ủy quyền.
Bà đã nhận đủ số tiền 14.900.000.000 đồng để chuyển nhượng 03 thửa đất trên, đã
bàn giao nhà đất cho ông H. Bà không có tranh chấp gì về việc chuyển nhượng 03
thửa đất trên cho ông H. Bà không đồng ý với toàn bộ yêu cầu khởi kiện của Bà M.
Bị đơn ông Nguyễn Quang T1 trình bày: Năm 2008, ông được ông Đ1 và bà
M tặng cho các thửa đất số 142, 161, 162, 163, 164, 203, tờ bản đồ số 19, toạ lạc ấp
C, xã T, huyện Đ, tỉnh Long An. Do công việc làm ăn khó khăn, ông bị vướng nợ
xấu ngân hàng nên ông đã làm thủ tục ly hôn với bà T và sau đó chuyển nhượng
sang tên các thửa đất trên cho bà T.
Do thiếu vốn nên ông T1 có vay của hai người bạn làm ăn chung là ông H
và ông K1, trong đó vay của ông H số tiền 14.900.000.000 đồng. Nay Bà M khởi
kiện tuyên vô hiệu hợp đồng tặng cho, hợp đồng chuyển nhượng, hợp đồng uỷ quyền
trên, ông xin bà M cho thời gian để giải quyết công việc làm ăn và chuộc lại đất. Sau
đó, ông sẽ sang tên lại các thửa đất trên cho bà M. Nếu không có tiền để chuộc lại
đất thì ông đồng ý giao toàn bộ phần đất trên cho ông H, vấn đề của bà M thì nội bộ
gia đình sẽ giải quyết với nhau.
Người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan bà Nguyễn Thị Thanh T2 trình bày:
Bà là con ruột của bà M và ông Đ1, là chị em ruột của ông T1 và ông L. Bà đồng ý
với yêu cầu khởi kiện của bà M và không có ý kiến gì khác.
Người đại diện theo ủy quyền của người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan
ông Lê Thanh H, ông Trần Như V trình bày: Ông H có biết bà T, cuối năm 2022, bà
T có liên hệ với ông H và muốn bán cho ông H 03 thửa đất số 142, 163, 164, tờ bản
đồ số 19, tọa lạc tại xã T, huyện Đ, tỉnh Long An và toàn bộ tài sản trên đất. Sau
nhiều lần đến xem đất, tìm hiểu thì bà T có đăng thông tin bán đất công khai lên
mạng xã hội, sau khi xem xét giấy tờ, hồ sơ pháp lý rõ ràng, không có ai tranh chấp
hiện trạng nhà đất có hàng rào, cổng khóa không có người ở vì bà T đã có nhà ở nơi
khác nên ông H đồng ý mua lại.
Ngày 15/12/2022, ông H và bà T thống nhất việc chuyển nhượng như sau:
bà T chuyển nhượng cho ông H thửa đất số 142, 163, 164, tờ bản đồ số 19, tọa lạc
tại xã T, huyện Đ, tỉnh Long An và toàn bộ tài sản trên đất (gồm nhà, cây cối và
tường rào) với giá chuyển nhượng là 14.900.000.000 đồng. Ông H đã trả đủ tiền cho
bà T, bà T đã bàn giao đất, tài sản trên đất và toàn bộ giấy tờ bản chính cho ông H.
Hai bên có lập Biên bản bàn giao đất, cùng ngày ông H giao đủ 14,9 tỷ cho bà T, để
bà T giải chấp các sổ đất đã vay trong Ngân hàng và đến ngày 16/12/2022 các bên
ra văn phòng công chứng ký hợp đồng chuyển nhượng. Sau khi nhận nhà, đất, phía
ông H đã được bàn giao chìa khóa và có quản lý một thời gian, tuy nhiên sau đó do
công việc làm ăn và có nhà ở Thành phố nên ông H khóa trái cửa, thỉnh thoảng mới
về thăm nhà, sau đó thì bà M quay lại nhà ở cho đến nay.
Lý do ông H ký hợp đồng ủy quyền đối với thửa 164 là do thời điểm này,
ông H chưa được sử dụng đất lúa, sau đó khi ông H được xác nhận có trực tiếp sử
6
dụng đất nông nghiệp, ông H đi làm thủ tục sang tên thì không được do bà M đã
tranh chấp.
Ông H là người thứ ba ngay tình nhận chuyển nhượng hợp pháp nhà đất trên
của bà T. Khi nhận chuyển nhượng, ông H có xuống xem đất thì không có ông T1
hay bà M sinh sống trên đất, chỉ có nhà đất trống, khóa cửa. Ông H cũng tìm hiểu
kỹ thì nhà đất trên không bị ai tranh chấp hay khiếu nại. Ông H nhận chuyển nhượng
trực tiếp từ bà T, không nhận chuyển nhượng đất của bà M hay ông T1, sự việc tranh
chấp nếu có giữa bà M và ông T1 thì đó là vấn đề nội bộ của gia đình bà M, ông H
hoàn toàn không thể biết được. Do đó, ông H không đồng ý với yêu cầu khởi kiện
của bà M. Nay ông H đã đủ điều kiện sử dụng đất nông nghiệp nên ông H có yêu
cầu độc lập như sau:
1. Công nhận hiệu lực hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất giữa bà
Dương Thị T với ông Lê Thanh H đối với thửa đất số 142, 163, tổng diện tích
3.765m
2
, tờ bản đồ số 19, tọa lạc ấp C, xã T, huyện Đ, tỉnh Long An, được Văn
phòng C công chứng ngày 16/12/2022.
2. Công nhận Biên bản bàn giao đất ngày 15/12/2022 giữa bà Dương Thị T
với ông Lê Thanh H đối với thửa đất số 142, 163, 164, tổng diện tích 5.351m
2
, TBĐ
số 19, tọa lạc ấp C, xã T, huyện Đ, tỉnh Long An và toàn bộ tài sản trên đất (gồm
nhà, cây cối và tường rào) có hiệu lực pháp luật.
3. Ông Lê Thanh H được quyền liên hệ cơ quan nhà nước có thẩm quyền để
đăng ký, kê khai và xin cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, quyền sở hữu nhà
ở và tài sản khác gắn liền với đất hoặc được cập nhật biến động sang tên Giấy chứng
nhận đối với thửa đất số 142, 163, 164, tổng diện tích 5.351m
2
, TBĐ số 19, tọa lạc
ấp C, xã T, huyện Đ, tỉnh Long An và tài sản gắn liền với đất theo quy định pháp
luật.
4. Buộc bà Trần Thị M và những người sinh sống trên thửa đất số 142, 163,
164, tổng diện tích 5.351m
2
, TBĐ số 19, tọa lạc ấp C, xã T, huyện Đ, tỉnh Long An
có nghĩa vụ giao trả lại cho ông Lê Thanh H thửa đất số 142, 163, 164, tổng diện
tích 5.351m
2
, TBĐ số 19, tọa lạc ấp C, xã T, huyện Đ, tỉnh Long An và tài sản gắn
liền với đất.
Trường hợp Tòa án tuyên các hợp đồng trên bị vô hiệu, ông H yêu cầu Toà
án giải quyết hậu quả của hợp đồng vô hiệu theo quy định pháp luật.
Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan Văn phòng C trình bày: Ngày
17/05/2021, Văn phòng C có tiếp nhận yêu cầu công chứng hợp đồng chuyển nhượng
quyền sử dụng đất giữa ông Nguyễn Quang T1 và bà Dương Thị T đối với quyền sử
dụng đất tại thửa đất số 164, 162, 161, 203, 163, 142 tờ bản đồ số 19, địa chỉ thửa
đất: ấp C, xã T, huyện Đ, tỉnh Long An theo Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất số
AO 105041, AO 105042, AO 105044 do UBND huyện Đ cấp ngày 18/12/2008 cho
ông Nguyễn Quang T1. Theo hồ sơ lưu trữ tại Văn phòng, các bên đã cung cấp các
giấy tờ như sau: Chứng minh nhân dân của ông Nguyễn Quang T1 và bà Dương Thị
T; Quyết định ly hôn theo quyết định công nhận thuận tình ly hôn và sự thỏa thuận
của các đương sự số 31/2021/QĐST-HNGĐ của Tòa án nhân dân huyện Đức Hòa
7
ngày 13/01/2021; Sổ hộ khẩu; Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất tại các thửa đất
nêu trên và Giấy xác nhận cá nhân trực tiếp sản xuất nông nghiệp.
Sau khi xem xét các giấy tờ và các bên không yêu cầu xác minh, Công chứng
viên Văn phòng C đã giải thích rõ nội dung hợp đồng cho các bên nghe. Các bên
cam kết đã hiểu rõ và đồng ý ký tên vào hợp đồng. Do đó Công chứng viên đã chứng
nhận Hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất tại các thửa đất nêu trên từ ông
Nguyễn Quang T1 sang cho bà Dương Thị T.
2. Ngày 16/12/2022, Văn phòng C có tiếp nhận yêu cầu công chứng hợp
đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất giữa bà Dương Thị T và ông Lê Thanh H
đối với quyền sử dụng đất tại thửa đất số 142, 163 tờ bản đồ số 19, địa chỉ thửa đất
ấp C, xã T, huyện Đ, tỉnh Long An theo Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất số DC
449948, DC 449947 do Sở Tài Nguyên và Môi Trường tỉnh L cấp ngày 09/06/2021
cho bà Dương Thị T.
Theo hồ sơ lưu trữ tại Văn phòng, các bên đã cung cấp các giấy tờ như sau:
Chứng minh nhân dân, căn cước công dân của bà Dương Thị T và ông Lê Thanh H;
Giấy xác nhận tình trạng hôn nhân; Quyết định ly hôn theo quyết định công nhận
thuận tình ly hôn và sự thỏa thuận của các đương sự số 31/2021/QĐST-HNGĐ của
Tòa án nhân dân huyện Đức Hòa ngày 13/01/2021 và giấy chứng nhận quyền sử
dụng đất tại thửa đất nêu trên.
Sau khi xem xét các giấy tờ và các bên không yêu cầu xác minh, Công chứng
viên Văn phòng C đã giải thích rõ nội dung hợp đồng cho các bên nghe. Các bên
cam kết đã hiểu rõ và đồng ý ký tên vào hợp đồng. Do đó Công chứng viên đã chứng
nhận Hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất tại các thửa đất nêu trên từ bà
Dương Thị T sang cho ông Lê Thanh H.
3. Ngày 16/12/2022, Văn phòng C có tiếp nhận yêu cầu công chứng hợp
đồng ủy quyền quyền sử dụng đất giữa bà Dương Thị T và ông Lê Thanh H đối với
quyền sử dụng đất tại thửa đất số 164, tờ bản đồ số 19, địa chỉ thửa đất ấp C, xã T,
huyện Đ, tỉnh Long An theo Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất số DC 449943 do
Sở Tài Nguyên và Môi trường tỉnh L cấp như sau: ngày 09/06/2021 cấp cho bà T.
Theo hồ sơ lưu trữ tại Văn phòng, các bên đã cung cấp các giấy tờ: Căn cước
công dân của bà Dương Thị T và ông Lê Thanh H; Giấy xác nhận tình trạng hôn
nhân; Quyết định công nhận thuận tình ly hôn và giấy chứng nhận quyên sử dụng
đất tại thửa đất nêu trên.
Sau khi xem xét các giấy tờ và các bên không yêu cầu xác minh, Công chứng
viên văn phòng C đã giải thích rõ nội dung hợp đồng cho các bên nghe. Các bên cam
kết đã hiểu rõ và đồng ý ký tên vào hợp đồng. Do đó Công chứng viên Văn phòng
C đã chứng nhận Hợp đồng ủy quyền quyền sử dụng đất tại thửa đất nêu trên giữa
bà Dương Thị T và ông Lê Thanh H.
Văn phòng C1 đã thực hiện việc công chứng Hợp đồng nêu trên đúng trình
tự thủ tục theo quy định pháp luật. Văn phòng kính đề nghị Tòa án nhân dân huyện
Đức Hòa, tỉnh Long An xem xét, giải quyết vụ án trên theo đúng quy định của pháp
luật. Cũng bằng Văn bản này, Văn phòng C đề nghị quý Tòa khi giải quyết vụ án
8
cho chúng tôi được vắng mặt trong tất cả các buổi làm việc, hòa giải, xét xử của Tòa
án.
Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan Sở Tài nguyên và Môi trường tỉnh L
(nay là Sở Nông Nghiệp và Môi Trường tỉnh L), tại văn bản số 342/STNMT-
VPĐKĐĐ ngày 14/01/2025, có ý kiến:
Ngày 01/7/1997, ông (bà) Nguyễn Bá Đ1 được UBND huyện Đ cấp Giấy
chứng nhận quyền sử dụng đất số phát hành K 590632 (số vào sổ: 1114 QSDĐ/0707-
LA), thửa số 142, diện tích 3.173m
2
, loại đất: BHK; thửa số 160, diện tích 346m
2
,
loại đất: NTD; thửa số 161, diện tích 438m
2
, loại đất: LUC; thửa số 162, diện tích
1933m
2
, loại đất: LUC; thửa số 163, diện tích 592m
2
, loại đất: ONT; thửa số 164,
diện tích 1.586m
2
, loại đất: LUC; thửa số 202, diện tích 953m
2
, loại đất: LUC; thửa
số 203, diện tích 1.478m
2
, loại đất: LUC; thửa số 209, diện tích 340m
2
, loại đất:
LUC; thửa số 210, diện tích 1.650m
2
, loại đất: LUC cùng tờ bản đồ số 19, đất tọa
lạc tại ấp C, xã T, huyện Đ, tỉnh Long An. Ngày 06/11/2008, ông Nguyễn Bá Đ1 lập
Hợp đồng tặng cho quyền sử dụng đất thửa số 142, 160, 161, 162, 163, 164, 203 nêu
trên cho ông Nguyễn Quang T1 được UBND xã T chứng thực số 700, quyển số
04/2008TP/CC-SCT/HĐGD và được UBND huyện Đ cấp Giấy chứng nhận quyền
sử dụng đất số phát hành AO 105044 (số vào sổ: H03990), thửa số 142; số phát hành
AO 105043 (số vào sổ: H 03989), thửa số 160; số phát hành AO 105042 (số vào sổ:
H 03988), thửa số 163; số phát hành AO 105041 (số vào sổ: H 03987), có 4 thửa:
thửa số 164, 162, 161, 203 cùng cấp ngày 18/12/2008 cho ông Nguyễn Quang T1
(Đính kèm hồ sơ).
Ngày 17/5/2021, ông Nguyễn Quang T1 lập Hợp đồng chuyển nhượng quyền
sử dụng đất thửa số 164, 162, 161, 203, 163, 142 nêu trên cho bà Dương Thị T được
Văn phòng C, quyển số 05/2021TP/CC-SCC/HĐGD và được Sở T ký cấp Giấy
chứng nhận quyền sử dụng đất, quyền sở hữu nhà ở và tài sản khác gắn liền với đất
số phát hành DC 449943 (số vào sổ: CS 06933), thửa số 164; số phát hành DC
449944 (số vào sổ: CS 06935), thửa số 162; số phát hành DC 449945 (số vào sổ: CS
06932), thửa số 161; số phát hành DC 449946 (số vào sổ: CS 06934), thửa số 203;
số phát hành DC 449947 (số vào sổ: CS 06937), thửa số 163; số phát hành DC
449948 (số vào số: CS 06936), thửa số 142 cùng cấp ngày 09/6/2021 cho bà Dương
Thị T (Đính kèm hồ sơ).
Việc Sở Tài nguyên và Mội trường cấp Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất
số phát hành DC 449948 (số vào sổ: CS 06936), thửa số 142; số phát hành DC
449947 (số vào sổ: CS 06937), thửa số 163; số phát hành DC 449943 (số vào sổ: CS
06933), thửa số 164; số phát hành DC 449944 (số vào sổ: CS 06935), thửa số 162;
số phát hành DC 449945 (số vào sổ: CS 06932), thửa số 161; số phát hành DC
449946 (số vào sổ: CS 06934), thửa số 203, cùng tờ bản đồ số 19, cùng cấp ngày
09/6/2021 cho bà Dương Thị T, đất tọa lạc tại Á, xã T, huyện Đ, tỉnh Long An là
đúng thẩm quyền, đúng trình tự thủ tục theo quy định.
Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan Ủy ban nhân dân xã T, huyện Đ, tỉnh
Long An tại Công văn số 173/UBND ngày 14/02/2025, có ý kiến:
9
Ngày 06/11/2008 UBND xã T, huyện Đ, tỉnh Long An có chứng thực hợp
đồng tặng cho QSDĐ giữa ông Nguyễn Bá Đ1 và ông Nguyễn Quang T1 số 700,
quyển số 01/2008 TP/CC-SCT/HĐGD. Đối với việc này UBND xã đã được thực
hiện chứng thực đúng trình tự thủ tục theo quy định pháp luật (có bản sao đính kèm).
UBND xã T, huyện Đ, tỉnh Long An kính đề nghị tòa án nhân dân huyện Đức Hòa,
tỉnh Long An xem xét, giải quyết vụ án trên theo đúng qui định của pháp luật. Cũng
bằng văn bản này UBND xã T đề nghị quý Tòa khi giải quyết vụ án cho được vắng
mặt trong tất cá các buổi làm việc, hòa giải xét xử của Tòa.
Tại bản án dân sự sơ thẩm số 38/2025/DS-ST ngày 07 tháng 3 năm 2025 của
Tòa án nhân dân huyện Đức Hòa, tỉnh Long An, nay là Tòa án nhân dân khu vực 3
– Tây Ninh, đã xử:
1. Chấp nhận một phần yêu cầu khởi kiện của bà Trần Thị M về việc “Tranh
chấp hợp đồng tặng cho quyền sử dụng đất, hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng
đất, công nhận quyền sử dụng đất” với ông Nguyễn Quang T1, bà Dương Thị T, cụ
thể:
1.1. T3 vô hiệu một phần Hợp đồng tặng cho quyền sử dụng đất số 700,
quyển số 01/2008 TP/CC-SCT/HĐGD ngày 06/11/2008 tại UBND xã T, huyện Đ
giữa ông Nguyễn Bá Đ1 và ông Nguyễn Quang T1 đối với thửa đất 164 diện tích
1.586m
2
, TBĐ số 19, tọa lạc ấp C, xã T, huyện Đ, tỉnh Long An.
1.2. T3 vô hiệu một phần Hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất số
6782, quyển số 05/2021 TP/CC-SCC/HĐGD ngày 17/5/2021 tại Văn phòng C giữa
ông Nguyễn Quang T1 với bà Dương Thị T đối với thửa đất số 164, diện tích
1.586m
2
, TBĐ số 19, tọa lạc ấp C, xã T, huyện Đ, tỉnh Long An.
1.3. Về hậu quả hợp đồng vô hiệu: Bà Trần Thị M có quyền khởi kiện yêu
cầu ông Nguyễn Quang T1 và bà Dương Thị T liên đới hoàn trả giá trị quyền sử
dụng đất đối với thửa đất số 164, diện tích 1.586m
2
, TBĐ số 19, tọa lạc ấp C, xã T,
huyện Đ, tỉnh Long An cho bà M bằng vụ án khác.
1.4. Không chấp nhận yêu cầu vô hiệu một phần Hợp đồng tặng cho QSD
đất giữa ông Nguyễn Bá Đ1 với ông Nguyễn Quang T1 (tự H1) theo Hợp đồng số
700, quyển số 01/2008/TP/CC-SCT/HĐGD ngày 06/11/2008 được chủ tịch UBND
xã T đối với phần đất thuộc thửa 163 và một phần thửa 142 có diện tích 1.345,5m
2
tại khu A1 theo Mảnh trích đo địa chính của Công ty TNHH Đ2, ngày 25/11/2024,
đất cùng tọa lạc tại ấp C, xã T, huyện Đ, tỉnh Long An.
1.5. Không chấp nhận yêu cầu vô hiệu Hợp đồng chuyển nhượng QSD đất
giữa ông Nguyễn Quang T1 với bà Dương Thị T theo Hợp đồng số 05/2021TP/CC-
SCT/HĐGD ngày 17/05/2021 tại Văn phòng C đối với các thửa đất sau: thửa 163 và
một phần thửa 142 có diện tích 1345,5m
2
tại khu A1 theo Mảnh trích đo địa chính
của Công ty TNHH Đ2, ngày 25/11/2024, đất cùng tọa lạc tại ấp C, xã T, huyện Đ,
tỉnh Long An.
1.6. Không chấp nhận yêu cầu khởi kiện của bà Trần Thị M về việc tuyên vô
hiệu Hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất số 18070, quyển số
12/2022TP/CC-SCC/HĐGD ngày 16/12/2022 tại Văn phòng C giữa bà Dương Thị
10
T với ông Lê Thanh H đối với thửa đất số 142, 163, tổng diện tích 3.765m
2
, TBĐ
số 19, tọa lạc ấp C, xã T, huyện Đ, tỉnh Long An.
1.7. Không chấp nhận yêu cầu khởi kiện của bà Trần Thị M về việc tuyên vô
hiệu Hợp đồng ủy quyền số, quyển số ngày 16/12/2022 tại Văn phòng C giữa bà
Dương Thị T với ông Lê Thanh H được công chứng đối với thửa đất số 164, diện
tích 1.586m
2
, TBĐ số 19, tọa lạc ấp C, xã T, huyện Đ, tỉnh Long An.
1.8. Không chấp nhận yêu cầu khởi kiện của bà M về việc yêu cầu công phần
đất thuộc thửa 163 và một phần thửa 142 có diện tích 1.345,5m
2
tại khu A1 theo
Mảnh trích đo địa chính của Công ty TNHH Đ2, ngày 25/11/2024 thuộc sử dụng của
bà M.
1.9. Không chấp nhận yêu cầu khởi kiện của bà Trần Thị M về việc Hủy giấy
chứng nhận QSD đất do UBND huyện Đ cấp cho ông Nguyễn Quang T1 đối với
phần đất thuộc thửa 163 và một phần thửa 142 có diện tích 1345,5m
2
tại khu A1 theo
Mảnh trích đo địa chính của Công ty TNHH Đ2, ngày 25/11/2024 và thửa 164 tờ
bản đồ số 19, với diện tích 1.586m
2
loại đất: LUA, đất cùng tọa lạc tại ấp C, xã T,
huyện Đ, tỉnh Long An và giấy chứng nhận QSD đất do Sở TNMT tỉnh L cấp cho
bà Dương Thị T đối với phần đất thuộc thửa 163 và một phần thửa 142 có diện tích
1.345,5m
2
tại khu A1 theo Mảnh trích đo địa chính của Công ty TNHH Đ2, ngày
25/11/2024 và thửa 164, tờ bản đồ số 19, diện tích 1.586m
2
, đất cùng tọa lạc tại ấp
C, xã T, huyện Đ, tỉnh Long An.
2. Chấp nhận yêu cầu độc lập của ông Lê Thanh H, cụ thể:
2.1. Công nhận Hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất số 18070,
quyển số 12/2022TP/CC-SCC/HĐGD ngày 16/12/2022 tại Văn phòng C giữa bà
Dương Thị T với ông Lê Thanh H đối với thửa đất số 142, 163, tổng diện tích
3.765m
2
, TBĐ số 19, tọa lạc ấp C, xã T, huyện Đ, tỉnh Long An có hiệu lực pháp
luật.
2.2. Công nhận hiệu lực của Hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất
(thể hiện qua hợp đồng ủy quyền ngày 16/12/2022 và Biên bản bàn giao đất ngày
15/12/2022) giữa bà Dương Thị T với ông Lê Thành H2 đối với thửa 164, diện tích
1.586m
2
, tờ bản đồ số 19, tọa lạc ấp C, xã T, huyện Đ, tỉnh Long An .
2.3. Ông Lê Thanh H được quyền liên hệ cơ quan nhà nước có thẩm quyền
để đăng ký, kê khai và xin cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, quyền sở hữu
nhà ở và tài sản khác gắn liền với đất hoặc được cập nhật biến động sang tên Giấy
chứng nhận đối với thửa đất số 142, 163, 164, tổng diện tích 5.351m
2
, TBĐ số 19,
tọa lạc ấp C, xã T, huyện Đ, tỉnh Long An và tài sản gắn liền với đất theo quy định
pháp luật.
Vị trí, diện tích tứ cận được thể hiện theo Mảnh trích đo bản đồ địa chính số
144-2024 do Công ty TNHH Đ2 lập ngày 10/4/2024 được Chi nhánh Văn phòng
đăng ký đất đai tại huyện Đ, tỉnh Long An phê duyệt ngày 23/4/2024.
Cơ quan cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất căn cứ vào bản án, quyết
định của Tòa án để giải quyết điều chỉnh biến động hoặc cấp lại giấy chứng nhận
quyền sử dụng đất phù hợp với kết quả giải quyết của Tòa án.
11
2.4. Buộc bà Trần Thị M và những người sinh sống trên thửa đất số 142, 163,
164, tổng diện tích 5.351m
2
, TBĐ số 19, tọa lạc ấp C, xã T, huyện Đ, tỉnh Long An
có nghĩa vụ giao trả lại cho ông Lê Thanh H thửa đất số 142, 163, 164, tổng diện
tích 5.351m
2
, TBĐ số 19, tọa lạc ấp C, xã T, huyện Đ, tỉnh Long An và tài sản gắn
liền với đất.
3. Về chi phí tố tụng: Tổng số tiền chi phí tố tụng là 77.000.000đ (bà M đã
nộp và chi xong), buộc ông Nguyễn Quang T1 và bà Dương Thị T liên đới trả lại
cho bà Trần Thị M số tiền 42.000.000đồng.
4. Về án phí dân sự sơ thẩm: Bà Trần Thị M được miễn án phí theo quy định.
Ông Lê Thanh H không phải chịu án phí, hoàn trả cho ông H số tiền tạm ứng
án phí đã nộp là 1.200.000 đồng theo các Biên lai thu tiền tạm ứng án phí số 0000399,
ngày 09/5/2024; 0005719 ngày 25/9/2024; 0005216 ngày 23/7/2024; 0004008 ngày
09/12/2024 mà ông H đã nộp tại Chi cục Thi hành án dân sự huyện Đức Hòa, tỉnh
Long An.
Buộc ông Nguyễn Quang T1 phải nộp 300.000đồng án phí dân sự sơ thẩm.
Bà Dương Thị T phải nộp 600.000 đồng án phí dân sự sơ thẩm.
Buộc ông Nguyễn Quang T1 và bà Dương Thị T phải liên đới nộp 300.000
đồng án phí dân sự sơ thẩm.
Ngoài ra, án sơ thẩm còn tuyên về quyền kháng cáo, hướng dẫn thi hành án.
Ngày 10/3/2025, nguyên đơn bà Trần Thị M kháng cáo bản án sơ thẩm yêu
cầu Tòa án cấp phúc thẩm giải quyết hủy bản án sơ thẩm.
Ngày 10/3/2025, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan ông Lê Thanh H
kháng cáo bản án sơ thẩm yêu cầu Tòa án cấp phúc giải quyết không chấp nhận toàn
bộ yêu cầu khởi kiện của Bà M.
Tại phiên tòa phúc thẩm, nguyên đơn bà Trần Thị M vẫn giữ nguyên yêu cầu
khởi kiện và yêu cầu kháng cáo, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan ông Lê
Thanh H vẫn giữ nguyên yêu cầu kháng cáo, các đương sự không thỏa thuận được
với nhau về việc giải quyết vụ án, tại phần tranh luận:
Người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của bà M, luật sư Hoàng Cao S
trình bày: Tòa án cấp sơ thẩm chưa thu thập các tài liệu liên quan đến việc khai thuế
của ông Nguyễn Quang T1, bà Dương Thị T và ông Lê Thành H2 để làm rõ hành vi
trốn thuế, bởi vì theo hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất giữa Dương Thị
T và Lê Thành H2 thể hiện giá chuyển nhượng là 500.000.000 đồng nhưng quá trình
tố tụng các bên khai giá thực tế chuyển nhượng là 14.900.000.000 đồng nên hành vi
này đã cấu thành tội trốn thuế. Ngoài ra, ông Nguyễn Quang T1, bà Dương Thị T
thừa nhận ký biên bản và đứng tên giùm Nguyễn Thanh L2 các thửa đất số 161, 162
và thửa đất 164 nhưng sau khi đứng tên Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất rồi
chiếm đoạt nên hành vi này đã cấu thành tội lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản.
Riêng hợp đồng ủy quyền ngày 16/12/2022 giữa bà Dương Thị T và ông Lê Thành
H2 đối với thửa đất số 164 là giả tạo nhằm che giấu một giao dịch khác đó là mua
bán đất bất hợp pháp nên bị vô hiệu theo Điều 124 Bộ luật Dân sự. Việc công nhận
hợp đồng ủy quyền là hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất là không đảm
12
bảo quy định tại Điều 167 Luật Đất đai. Bên cạnh đó, theo trình bày của bà M thì từ
trước đến giờ bà vẫn sinh sống trên phần đất tranh chấp, chỉ đôi khi bà M đưa con
trai Nguyễn Thanh L2 đi chữa trị mới qua nhà con gái ở nên việc các bên trình bày
đã giao đất là không có cơ sở. Từ những phân tích, đề nghị Hội đồng xét xử hủy án
sơ thẩm để thu thập đầy đủ tài liệu chứng cứ và chuyển hồ sơ qua cơ quan cảnh sát
điều tra xem xét khởi tố tội lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản và tội trốn thuế.
Người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của bà M, luật sư Ngô Văn Đ trình
bày: Xuất phát từ việc tặng cho đất và giao cho ông T1 đứng tên toàn bộ các thửa
đất. Biên bản họp gia đình năm 2014 thể hiện bà T biết việc ông T1 đứng tên giùm
ông L2. Việc ông T1 và bà T ly hôn giả để ông T1 chuyển nhượng đất cho bà T, sau
đó bà T chuyển nhượng lại cho ông H2 làm ảnh hưởng đến quyền lợi của người thứ
ba. Mặt khác, bản án sơ thẩm không áp dụng luật chuyên ngành đối với thửa đất số
164 nên chưa xem xét hết các chứng cứ. Thống nhất, đề nghị Hội đồng xét xử hủy
án sơ thẩm để thu thập đầy đủ tài liệu chứng cứ và chuyển hồ sơ qua cơ quan cảnh
sát điều tra xem xét khởi tố tội lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản và tội trốn
thuế.
Người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của bà M, luật sư Nguyễn Quang K
trình bày: Theo biên bản lấy lời khai ngày 15/5/2023 của ông Nguyễn Quang T1, bà
Dương Thị T thừa nhận việc ký hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất cho
ông K1, ông H2 là chỉ để làm tin cho việc vay tiền chứ không hề ra sổ đứng tên trên
giấy đất. Do đó, thống nhất đề nghị Hội đồng xét xử hủy án sơ thẩm để thu thập đầy
đủ tài liệu chứng cứ và chuyển hồ sơ qua cơ quan cảnh sát điều tra xem xét khởi tố
tội lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản, và tội trốn thuế.
Nguyên đơn bà Trần Thị M và người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan bà
Nguyễn Thị Thanh T2 trình bày: thống nhất với lời trình bày của người bảo vệ quyền
và lợi ích hợp pháp của Bà M, không có ý kiến bổ sung.
Người đại diện theo ủy quyền của người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan
ông Lê Thành H2, ông Trần Như V trình bày: trước khi thỏa thuận nhận chuyển
nhượng đất từ bà Dương Thị T thì ông H2 có đến xem đất thấy đất hợp pháp thể hiện
việc bà T thế chấp vay vốn ngân hàng. Ngoài ra, khi ra Văn phòng công chứng thì
Phòng công chứng xác định các thửa đất đủ điều kiện chuyển nhượng nên ông H2
mới nhận chuyển nhượng. Riêng đối với yêu cầu kháng cáo của ông H2, thì ông yêu
cầu được rút lại vì theo bản án sơ thẩm thì quyền lợi của ông H2 đã đảm bảo.
- Đại diện Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Tây Ninh phát biểu quan điểm giải
quyết vụ án:
Về tố tụng: Kháng cáo của nguyên đơn bà Trần Thị M, người có quyền lợi,
nghĩa vụ liên quan ông Lê Thanh H thực hiện đúng quy định của pháp luật nên được
xem xét theo trình tự phúc thẩm. Thẩm phán, Hội đồng xét xử, Thư ký phiên tòa đã
tuân thủ đúng những quy định của Bộ luật tố tụng dân sự, những người tham gia tố
tụng đã chấp hành đúng pháp luật.
Về nội dung vụ án: Về việc phía nguyên đơn cho rằng ông T1 có hành vi lạm
dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản và bà T, ông H có hành vi trốn thuế: căn cứ quy
định tại Điều 175 BLHS 2015 (sửa đổi 2017) thì hành vi của ông T1 chưa đủ yếu tố
13
cấu thành tội lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản; về việc nguyên đơn cho rằng
ông H, bà T có hành vi trốn thuế thì đương sự chưa cung cấp tài liệu chứng cứ chứng
minh hành vi trốn thuế của bà T và ông H nên không đủ căn cứ cấu thành tội trốn
thuế để xem xét.
Tại phiên tòa ngày 15/9/2025, ông Lê Thanh H rút đơn kháng cáo, việc rút
đơn kháng cáo của ông H là tự nguyện nên đề nghị Hội đồng xét xử căn cứ Điều 289
BLTTDS, đình chỉ xét xử yêu cầu kháng cáo của ông H.
Qua xem xét hồ sơ vụ án và yêu cầu kháng cáo của bà Trần Thị M, nhận
thấy:
Ngày 01/7/1997, ông Nguyễn Bá Đ1 được UBND huyện Đ cấp Giấy chứng
nhận quyền sử dụng đất, trong đó có các thửa đất số 142, 163, 164, TBĐ số 19, tọa
lạc xã T, huyện Đ, tỉnh Long An.
Ngày 06/11/2008, ông Đ1 tặng cho ông Nguyễn Quang T1 các thửa đất số
142, 160, 161, 162, 163, 164 theo Hợp đồng tặng cho quyền sử dụng đất ngày
06/11/2008 tại UBND xã T, huyện Đ.
Ngày 18/12/2008, ông T1 được Ủy ban nhân dân huyện Đ cấp GCNQSD
đất.
Bà M xác định, năm 2008 gia đình bà gồm chồng bà là ông Nguyễn Bá Đ1,
bà M và các con là Nguyễn Quang T1 (H1), Nguyễn Thị Thanh T2 thống nhất chia
đất cho ông T1 diện tích đất 5.243m² và cho ông Nguyễn Quang L diện tích đất
3.957m². Nhưng do ông L bị bệnh nên giao cho ông T1 đứng tên giấy tờ đất, quản
lý, sử dụng để chăm sóc, nuôi dưỡng ông L vì ông T1 ở cùng gia đình vợ chồng bà.
Bà M cung cấp chứng cứ là Biên bản họp gia đình ngày 13/01/2014 có nội
dung: “Trước đây năm 2008 cha mẹ có cho T1 (H1) 5.243m² đất thổ và vườn tạp –
lúa và giao đứng tên bảo hộ cho em trai tên Nguyễn Quang L (gọi T4) số đất lúa là
3.957m² tất cả có sổ đỏ (QSDĐ) tháng 12/2008 do huyện Đ cấp. Nhưng nay xin ăn
riêng thì trả lại số đất giao trước đây là 3.957m² để cha mẹ có điều kiện chăm sóc
đứa con bại liệt, kỳ hạn chót 31/3/14 phải giao trả sổ đỏ (QSDĐ) nếu đến 31/3/14
chưa giao trả sẽ nhờ chính quyền can thiệp”. Tại phần ý kiến ông T1 có ý kiến: “về
phần đất của L (T5), H1 có trách nhiệm giao trả quyền sử dụng đất để má đứng tên,
thời gian giao trả đất 30/12/2014”. Bà T là vợ ông T1 có ý kiến “đồng ý như ý kiến
của T1 (H1)”.
Như vậy, có căn cứ xác định ông T1 đứng tên giùm cho ông L đối với diện
tích 3.957m², bà M xác định phần diện tích này bao gồm các thửa 161, 162, 164 và
phần diện tích 5.243m
2
tặng cho ông T1 là các thửa 203, 163, 142.
Trong vụ án này bà M tranh chấp các thửa đất 163, 142, 164. Đối với hai
thửa đất 163, 142 bà M cho rằng bà chỉ cho ông T1 một phần của hai thửa đất này
vì lúc đó ông T1 sống cùng vợ chồng bà nên vợ chồng bà giao cho ông T1 đứng dùm
luôn. Tuy nhiên, tại Biên bản họp gia đình ngày 13/01/2014 bà M xác nhận “năm
2008 cha mẹ có cho T1 (H1) 5.243m² đất thổ và vườn tạp – lúa”, và có đòi lại phần
đất lúa đã cho ông T1 đứng tên giùm, hoàn toàn không yêu cầu ông T1 phải trả lại
phần đất hay nhà nào liên quan đến 5.243m² đất thổ và vườn tạp – lúa đã cho ông
T1 trước đó, thửa 142 là thửa đất loại đất trồng cây lâu năm, thửa đất 163 là loại đất
14
thổ, ông T1 cũng xác định năm “2008 năm ba tôi là ông Nguyễn Bá Đ1 đã tặng cho
tôi tất cả các thửa đất, trong đó có các thửa 161, 162, 164 là tôi đứng tên dùm ông
L”. Từ những căn cứ trên có cơ sở xác định bà M và ông Đ1 đã thống nhất tặng cho
ông T1 các thửa đất 142, 163 từ năm 2008. Đến thời điểm 2014, mặc dù gia đình có
mâu thuẫn, ông T1 và bà T có ăn riêng nhưng ông Đ1 và bà M vẫn không yêu cầu
ông T1 phải trả phần đất thổ và vườn tạp, chỉ yêu cầu trả lại phần đất lúa của ông T1
đứng tên giùm. Ngày 17/5/2021, ông T1 chuyển nhượng 03 thửa đất số 142, 163,
164 cho bà T. Ngày 16/12/2022, bà T chuyển nhượng cả 03 thửa 142, 163, 164 và
tài sản trên đất với giá chuyển nhượng là 14.900.000.000 đồng cho ông Lê Thanh
H, ông H đã trả đủ tiền cho bà T, bà T cũng đã bàn giao đất, tài sản trên đất và bản
chính giấy tờ đất cho ông H theo Biên bản bàn giao đất ngày 15/12/2022.
Theo Mảnh trích đo địa chính của Công ty TNHH Đ2 ngày 25/11/2024 thì
tại khu A1 có căn nhà và các công trình phụ khác, bà M cho rằng căn nhà do bà và
ông Đ1 xây dựng, sau đó có sửa chữa và hiện trạng như hiện nay, bà M xác định về
phần giá trị căn nhà và các tài sản tại Khu A1 bà không có tranh chấp với ông T1
trong vụ án này, nếu có tranh chấp sẽ được giải quyết bằng vụ án khác nên không
xem xét.
Bà M cho rằng bà sinh sống tại căn nhà trên đất từ xưa đến nay và không biết
việc ông T1, bà T đã chuyển nhượng toàn bộ nhà đất cho ông H. Tuy nhiên, bà M,
bà T2 thừa nhận về việc bà M và ông L không thường xuyên sinh sống trên thửa đất
số 142, 163, 164 mà có thời gian dọn ra thị trấn H sinh sống và chữa bệnh cùng con
gái là bà T2, lời trình bày này phù hợp với xác nhận của Cộng tác viên dân số quản
lý địa bàn ấp C, xã T, huyện Đ tại biên bản lấy lời khai ngày 08/11/2024, tại thời
điểm lấy lời khai thì phần nhà đất trên không có ai sinh sống. Biên bản xem xét thẩm
định tại chỗ thể hiện trạng nhà cùng các tài sản trên đất có dấu hiệu xuống cấp, mái
tôn đổ xuống, thể hiện không có người thường xuyên sinh sống. Ông H cũng xác
định trước khi nhận chuyển nhượng ông có đến xem đất và không gặp bà M trong
nhà, đồng thời có việc bà T đã giao chìa khóa nhà cho ông, sau đó thì phía bà T2 có
quay lại và thay ổ khóa.
Từ những căn cứ trên, Tòa sơ thẩm không chấp nhận các yêu cầu của bà M
về việc vô hiệu hợp đồng tặng cho quyền sử dụng đất giữa ông Đ1 với ông T1, hủy
giấy chứng nhận QSD đất do UBND huyện Đ cấp cho ông Nguyễn Quang T1, vô
hiệu một phần Hợp đồng chuyển nhượng QSD đất giữa ông Nguyễn Quang T1 với
bà Dương Thị T, hủy giấy chứng nhận QSD đất do Sở TNMT tỉnh L cấp cho bà
Dương Thị T, vô hiệu một phần Hợp đồng chuyển nhượng QSD đất giữa bà Dương
Thị T với ông Lê Thanh H và yêu cầu công nhận đối với phần đất thuộc thửa 163 và
một phần thửa 142 có diện tích 1.345,5m
2
tại khu A1 thuộc sở hữu hợp pháp của bà
Trần Thị M, bà M được quyền trực tiếp quản lý và sử dụng các thửa trên là có cơ sở,
không có căn cứ chấp nhận kháng cáo của bà M.
Đối với thửa đất 164: bà M xác định do ông T1 đứng tên giùm ông L là thửa
164, ông T1 cũng thừa nhận có việc đứng tên dùm này nên có căn cứ chấp nhận yêu
cầu khởi kiện của bà M về việc vô hiệu một phần hợp đồng tặng cho của ông Nguyễn
Bá Đ1 cho ông Nguyễn Quang T1 đối với thửa 164.
15
Tại biên bản họp gia đình ngày 13/01/2014 về việc giao trả các thửa đất cho
bà M, bà T biết việc ông T1 có đứng tên giùm ông L phần đất có diện tích 3.957m²
đất lúa và có ý kiến “đồng ý như ý kiến của T1 (H1)” nhưng đến ngày 17/05/2021
khi ông T1 đã chuyển nhượng toàn bộ các thửa đất ông T1 đứng tên trong đó có thửa
164 của ông L là thửa đất lúa cho bà T đứng tên nên Tòa sơ thẩm tuyên Hợp đồng
chuyển nhượng quyền sử dụng đất giữa ông T1 cho bà T đối với thửa đất 164 bị vô
hiệu theo quy định tại Điều 124 Bộ luật Dân sự là có căn cứ.
Sau đó, bà T chuyển nhượng cả 03 thửa 142, 163, 164 và tài sản trên đất với
giá chuyển nhượng là 14.900.000.000 đồng cho ông Lê Thanh H, ông H đã trả đủ
tiền cho bà T, bà T cũng đã bàn giao đất, tài sản trên đất và bản chính giấy tờ đất cho
ông H theo Biên bản bàn giao đất ngày 15/12/2022. Ông H đã cùng với bà T đến
Ngân hàng TMCP Q1 trả tiền để giải chấp ngày 16/12/2022 và hai bên đã công
chứng hợp đồng ủy quyền cùng ngày tại Văn phòng C, các bản chính GCNQSD đất
hiện ông H đang giữ.
Ông H cho rằng ông không ký HĐCN QSD đất đối với thửa 164 như hai
thửa đất trên mà ký hợp đồng ủy quyền với bà T là do ông không đủ điều kiện nhận
chuyển nhượng đất lúa. Ông H và bà T đều thừa nhận tuy hình thức là hợp đồng ủy
quyền nhưng đây là hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất thể hiện qua Biên
bản bàn giao nhà đất ngày 15/12/2022 bà T thống nhất đã chuyển nhượng và bàn
giao các thửa đất và tài sản trên đất cho ông H, ông H cũng đã có thời gian quản lý
các thửa đất nêu trên.
Hơn nữa, tại thời điểm ông H nhận chuyển nhượng QSDĐ các thửa 142, 163,
164 từ bà T thì không có ai tranh chấp, bà M cũng xác nhận việc ông T1 đứng tên
giùm ông L thửa đất 164, tờ bản đồ số 19 và việc gia đình có yêu cầu ông T1 trả lại
đất nhiều lần nhưng chỉ có gia đình biết, bà có biết việc ông T1 và T thế chấp các
thửa đất trong Ngân hàng nhiều năm nay, có thời điểm có nhiều người đến xem đất
nhưng bà tin tưởng ông T1 nên không tranh chấp với ông T1, từ năm 2014 cho đến
thời điểm bà M khởi kiện thì bà không có yêu cầu cơ quan chức năng can thiệp giải
quyết. Như vậy, việc tranh chấp giữa gia đình bà M với ông T1 đối với thửa 164
theo biên bản họp gia đình năm 2014 thì ông H không thể biết được. Hiện trạng các
thửa 164, 142, 163 có vị trí liền kề nhau và không có ranh giới, thửa 164 là thửa tiếp
giáp đường đi công cộng và là lối đi vào hai thửa 142, 163 nên việc ông H nhận
chuyển nhượng toàn bộ 03 thửa đất trên và các tài sản trên đất từ bà T là chủ sử dụng
đất hợp pháp tại thời điểm đó là có cơ sở, hơn nữa ông H cũng đã giao tiền và được
bàn giao đất xong, bà M quay lại quản lý nhà.
Như vậy, có căn cứ để xác định, giao dịch chuyển nhượng giữa bà T và ông
H đối với các thửa đất 164 đảm bảo trình tự, thủ tục của pháp luật đất đai, ông H
được xác định là người thứ ba ngay tình, giao dịch chuyển nhượng đáp ứng quy định
tại Điều 129, 133 Bộ luật Dân sự năm 2015 và ông H cũng đã đủ điều kiện để nhận
chuyển nhượng đất nông nghiệp nên Tòa sơ thẩm chấp nhận yêu cầu độc lập của
ông H là có căn cứ, kháng cáo của bà M không có cơ sở chấp nhận.
Về hậu quả hợp đồng vô hiệu: bà M đã được Tòa án giải thích và xác định
không yêu cầu giải quyết hậu quả, do đó, nguyên đơn có quyền khởi kiện đối với bị
đơn bằng vụ án khác về bồi thường giá trị quyền sử dụng đất tại thửa 164.
16
Từ những phân tích trên, đề nghị Hội đồng xét xử đình chỉ xét xử phúc thẩm
đối với yêu cầu kháng cáo của ông Lê Thanh H. Không chấp nhận yêu cầu kháng
cáo của bà Trần Thị M. Căn cứ căn cứ khoản 1 Điều 308 Bộ luật Tố tụng dân sự,
giữ y bản án sơ thẩm.
NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN:
[1] Về tố tụng: Kháng cáo của nguyên đơn bà Trần Thị M, người có quyền
lợi, nghĩa vụ liên quan ông Lê Thanh H thực hiện đúng quy định của pháp luật nên
được xem xét theo trình tự phúc thẩm.
Những người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan trong vụ án có đơn xin vắng
tại phiên tòa hoặc đã được triệu tập hợp lệ đến lần thứ hai nhưng vắng mặt, căn cứ
Điều 296 Bộ luật Tố tụng dân sự Tòa án tiến hành xét xử vắng mặt các đương sự.
[2] Tại phiên tòa xét xử vụ kiện, các bên đương sự thống nhất với kết quả đo
đạc theo Mảnh trích đo địa chính số 144-2024 do Công ty TNHH Đ2 đo vẽ, được
Chi nhánh Văn phòng đăng ký đất đai tại huyện Đ, tỉnh Long An duyệt cùng ngày
23/4/2024 và thống nhất với kết quả thẩm định giá theo Chứng thư thẩm định giá số
020/2024/329-HD/TĐG LA-BĐS ngày 23/7/2024 của Công ty Cổ phần T7. Các bên
đương sự không yêu cầu đo đạc và thẩm định giá lại nên Tòa án căn cứ theo Mảnh
trích đo địa chính và Chứng thư thẩm định giá nêu trên để làm căn cứ giải quyết vụ
án.
[3] Xét thấy, tại phiên tòa phúc thẩm, đại diện theo ủy quyền của người có
quyền lợi, nghĩa vụ liên quan ông Lê Thanh H, là ông Trần Như V có ý kiến rút lại
toàn bộ kháng cáo của ông Lê Thanh H. Căn cứ Điều 289 Bộ luật Tố tụng dân sự
Hội đồng xét xử quyết định đình chỉ xét xử phần kháng cáo của người có quyền lợi,
nghĩa vụ liên quan ông Lê Thanh H.
[4] Xét kháng cáo của nguyên đơn bà Trần Thị M:
[4.1] Xét, phần đất vị trí A1 diện tích 2.629,3m
2
và vị trí A2 diện tích
1.345,5m
2
thuộc thửa 142, phần đất vị trí B diện tích 592m
2
thuộc thửa 163 và phần
đất vị trí C diện tích 1.568m
2
thuộc thửa 164, tất cả cùng thuộc tờ bản đồ số 19, đất
cùng tọa lạc tại ấp C, xã T, huyện Đ, tỉnh Long An cũ. Ông Nguyễn Bá Đ1 được Ủy
ban nhân dân huyện Đ cấp Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất ngày 01/7/1997.
Ngày 06/1/2008, ông Đ1 ký hợp đồng tặng cho ông Nguyễn Quang T1 các
thửa đất số 142 diện tích 3.173m
2
loại đất lúa, thửa đất số 160 diện tích 346m
2
loại
đất NĐ, thửa đất số 161 diện tích 438m
2
loại đất LM, thửa đất số 162 diện tích
1.933m
2
loại đất LM, thửa đất số 163 diện tích 592m
2
loại đất T, thửa đất số 164
diện tích 1.586m
2
loại đất LM và thửa đất số 203 diện tích 1.478m
2
loại đất LM, tất
cả cùng thuộc tờ bản đồ số 19, đất cùng tọa lạc tại ấp C, xã T, huyện Đ, tỉnh Long
An cũ. Ngày 18/12/2008, ông T1 được Ủy ban nhân dân huyện Đ, tỉnh Long An cấp
giấy chứng nhận quyền sử dụng đất.
Ngày 17/5/2021, ông T1 ký hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất cho
bà Dương Thị T đối với các thửa đất số 142 diện tích 3.173m
2
loại đất lúa, thửa đất
số 161 diện tích 438m
2
loại đất LM, thửa đất số 162 diện tích 1.933m
2
loại đất LM,
thửa đất số 163 diện tích 592m
2
loại đất T, thửa đất số 164 diện tích 1.586m
2
loại đất
17
LM và thửa đất số 203 diện tích 1.478m
2
loại đất LM, tất cả cùng thuộc tờ bản đồ số
19, đất cùng tọa lạc tại ấp C, xã T, huyện Đ, tỉnh Long An cũ. Ngày 09/6/2021, bà
T được Ủy ban nhân dân huyện Đ, tỉnh Long An cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng
đất.
Ngày 28/12/2022, bà T ký hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất cho
ông Lê Văn K1 thửa đất số 161 diện tích 438m
2
loại đất LM và thửa đất số 203 diện
tích 1.478m
2
loại đất LM, tất cả cùng thuộc tờ bản đồ số 19, đất cùng tọa lạc tại ấp
C, xã T, huyện Đ, tỉnh Long An cũ. Ông K1 được chỉnh lý sang tên ngày 08/5/2023.
Ngày 16/12/2022, bà T ký hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất cho
ông Lê Thanh H đối với các thửa đất số 142 diện tích 3.173m
2
loại đất lúa, thửa đất
số 163 diện tích 592m
2
loại đất T và hợp đồng ủy quyền quyền sử dụng đất đối với
thửa đất số 164 diện tích 1.586m
2
loại đất LM, tất cả cùng thuộc tờ bản đồ số 19, đất
cùng tọa lạc tại ấp C, xã T, huyện Đ, tỉnh Long An cũ.
[4.2] Xét, Biên bản họp gia đình đề ngày 13/01/2014 thể hiện nội dung:
“Trước đây năm 2008 cha mẹ có cho T1 (H1) 5.243m
2
đất thổ và vườn tạp – lúa và
giao đứng tên bảo hộ cho em trai tên Nguyễn Quang L (gọi T4) số đất lúa là 3.957m
2
tất cả có sổ đỏ (QSDĐ) tháng 12/2008 do huyện Đ cấp. Nhưng nay xin ăn riêng thì
trả lại số đất giao trước đây là 3.957m
2
để cha mẹ có điều kiện chăm sóc đứa con
bại liệt, kỳ hạn chót 31/3/14 phải giao trả sổ đỏ (QSDĐ) nếu đến 31/3/14 chưa giao
trả sẽ nhờ chính quyền can thiệp”. Tại phần ý kiến ông T1 có ý kiến: “về phần đất
của L (T6), H1 có trách nhiệm giao trả quyền sử dụng đất để má đứng tên, thời gian
giao trả đất 30/12/2014”. Bà T là vợ ông T1 có ý kiến “đồng ý như ý kiến của T1
(H1)”. Căn cứ Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất đề ngày 01/7/1997 của Ủy ban
nhân dân huyện Đ, tỉnh Long An cũ cấp cho ông Nguyễn Bá Đ1 thì có cơ sở xác
định ông Nguyễn Quang T1 được tặng cho đối với các thửa đất số 142 diện tích
3.173m
2
loại đất Vườn, thửa đất số 163 diện tích 592m
2
loại đất Thổ và thửa đất số
203 diện tích 1.478m
2
loại đất LM với tổng diện tích là 3.173m
2
+ 592m
2
+ 1.478m
2
= 5.243m
2
và
ông Nguyễn Thanh L2 được tặng cho các thửa đất số 161 diện tích
438m
2
loại đất lúa, thửa đất số 162 diện tích 1.933m
2
loại đất lúa và thửa đất số 164
diện tích 1.586m
2
loại đất lúa với tổng diện tích là 438m
2
+ 1.933m
2
+ 1.586m
2
=
3.957m
2
,
tất cả cùng thuộc tờ bản đồ số 19, đất cùng tọa lạc tại ấp C, xã T, huyện Đ,
tỉnh Long An cũ và ông Đ1 giao cho ông Nguyễn Quang T1 đứng tên hộ phần đất
của ông Nguyễn Thanh L2.
[4.3] Xét, hợp đồng tặng cho quyền sử dụng đất đề ngày 06/11/2008 giữa
ông Nguyễn Bá Đ1 với Nguyễn Quang T1 đối với phần đất vị trí A1 diện tích
2.629,3m
2
thuộc thửa 142 và phần đất vị trí B diện tích 592m
2
thuộc thửa 163, tất cả
cùng thuộc tờ bản đồ số 19, đất cùng tọa lạc tại ấp C, xã T, huyện Đ, tỉnh Long An
cũ. Như phân tích tại mục [4.2], có căn cứ xác định ông Đ1 đã tặng cho cho ông
Nguyễn Quang T1 các thửa đất số 142, thửa đất số 163 và thửa đất 203 với tổng diện
tích đất là 5.243m
2
, tất cả cùng thuộc tờ bản đồ số 19, đất cùng tọa lạc tại ấp C, xã
T, huyện Đ, tỉnh Long An cũ. Mặt khác, tại biên bản họp gia đình đề ngày 13/01/2014
bà Trần Thị M có ý kiến “Chấp nhận ý kiến của T1 (H1), đứa nào nuôi Má và T6 thì
hưởng phần đất của má và cúng giỗ M1 và T6” và không có ý kiến gì về việc ông
Đ1 cho Nguyễn Quang T1 các thửa đất số 142, 163, 203 và thống nhất ký tên. Thấy
18
rằng, tại phiên tòa bà M trình bày vợ chồng bà chỉ cho ông T1 một phần các thửa đất
số 142 và thửa đất số 163 nhưng không cung cấp được tài liệu chứng cứ, chứng minh
nên việc Tòa án cấp sơ thẩm giải quyết không chấp nhận yêu cầu của bà M về việc
vô hiệu hợp đồng tặng cho quyền sử dụng đất đề ngày 06/11/2008 giữa ông Nguyễn
Bá Đ1 với Nguyễn Quang T1 đối với phần đất vị trí A1 diện tích 1.345,5m
2
thuộc
thửa 142 và phần đất vị trí B diện tích 592m
2
thuộc thửa đất số 163, tất cả cùng thuộc
tờ bản đồ số 19, đất cùng tọa lạc tại ấp C, xã T, huyện Đ, tỉnh Long An (cũ) là có
căn cứ.
[4.4] Xét hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất đề ngày 17/5/2021
giữa ông Nguyễn Quang T1 với bà Dương Thị T và hợp đồng chuyển nhượng quyền
sử dụng đất đề ngày 16/12/2022 giữa bà Dương Thị T với ông Lê Thanh H đối với
phần đất vị trí A1 diện tích 1.345,5m
2
thuộc thửa 142 và phần đất vị trí B diện tích
592m
2
thuộc thửa đất số 163, tất cả cùng thuộc tờ bản đồ số 19, đất cùng tọa lạc tại
ấp C, xã T, huyện Đ, tỉnh Long An cũ. Như phân tích tại mục [4.3], do có căn cứ xác
định ông Đ1 và bà M đã tặng cho ông T1 các thửa đất: thửa đất số 142, thửa đất số
163 và thửa đất 203 với tổng diện tích đất là 5.243m
2
, tất cả cùng thuộc tờ bản đồ số
19, đất cùng tọa lạc tại ấp C, xã T, huyện Đ, tỉnh Long An cũ và đến ngày
18/12/2008, ông T1 được cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất hợp pháp nên việc
Tòa án cấp sơ thẩm giải quyết không chấp nhận yêu cầu của bà M về việc vô hiệu
hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất giữa ông Nguyễn Quang T1 với bà
Dương Thị T ngày 17/5/2021 và hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất đề
ngày 16/12/2022 giữa bà Dương Thị T với ông Lê Thanh H đối với phần đất vị trí
A1 diện tích 1.345,5m
2
thuộc thửa 142 và phần đất vị trí B diện tích 592m
2
thuộc
thửa 163, tất cả cùng thuộc tờ bản đồ số 19, đất cùng tọa lạc tại ấp C, xã T, huyện
Đ, tỉnh Long An (cũ) là có căn cứ.
[4.5] Xét, hợp đồng tặng cho quyền sử dụng đất đề ngày 06/11/2008 giữa
ông Nguyễn Bá Đ1 với Nguyễn Quang T1 đối với thửa đất số 164 diện tích 1.568m
2
,
thuộc tờ bản đồ số 19, đất tọa lạc tại ấp C, xã T, huyện Đ, tỉnh Long An cũ. Như
phân tích tại mục [4.2], có căn cứ xác định thửa đất số 164 diện tích 1.568m
2
, tờ bản
đồ số 19, đất tọa lạc tại ấp C, xã T, huyện Đ, tỉnh Long An cũ đã được ông Đ1 tặng
cho ông L2 và nhờ ông T1 đứng tên giùm. Do đó, việc Tòa án cấp sơ thẩm giải quyết
xác định hợp đồng tặng cho quyền sử dụng đất đề ngày 06/11/2008 giữa ông Nguyễn
Bá Đ1 với Nguyễn Quang T1 đối với thửa đất số 164 diện tích 1.568m
2
, tất cả cùng
thuộc tờ bản đồ số 19, đất cùng tọa lạc tại ấp C, xã T, huyện Đ, tỉnh Long An cũ bị
vô hiệu là có căn cứ.
Về hậu quả của việc giải quyết hợp đồng vô hiệu: Quá trình tố tụng tại phiên
tòa sơ thẩm, đại diện theo pháp luật của ông Nguyễn Thanh L2 là bà Trần Thị M
không yêu cầu Tòa án giải quyết hậu quả của hợp đồng vô hiệu. Do đó, Hội đồng
xét xử xét không xem xét giải quyết hậu quả của hợp đồng vô hiệu, trường hợp các
bên có tranh chấp sẽ khởi kiện bằng một vụ kiện khác.
[4.6] Xét, hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất ngày 17/5/2021 giữa
ông Nguyễn Quang T1 với bà Dương Thị T đối với thửa đất số 164 diện tích
1.568m
2
, tất cả cùng thuộc tờ bản đồ số 19, đất cùng tọa lạc tại ấp C, xã T, huyện Đ,
tỉnh Long An cũ. Như phân tích tại mục [4.5], có căn cứ xác định thửa đất số 164
19
diện tích 1.568m
2
, tờ bản đồ số 19, đất tọa lạc tại ấp C, xã T, huyện Đ, tỉnh Long An
cũ đã được ông Đ1 tặng cho ông L2 và nhờ ông T1 đứng tên giùm. Mặt khác, tại
Biên bản họp gia đình đề ngày 13/01/2014 bà T cũng có ý kiến thống nhất ý kiến
của ông T1 (H1) và thống nhất ký tên nên việc Tòa án cấp sơ thẩm giải quyết xác
định hợp đồng chuyển chuyển nhượng quyền sử dụng đất ngày 17/5/2021 giữa ông
Nguyễn Quang T1 với bà Dương Thị T đối với thửa đất số 164 diện tích 1.568m
2
,
tất cả cùng thuộc tờ bản đồ số 19, đất cùng tọa lạc tại ấp C, xã T, huyện Đ, tỉnh Long
An cũ bị vô hiệu là có căn cứ.
Về hậu quả của việc giải quyết hợp đồng vô hiệu: Quá trình tố tụng tại phiên
tòa sơ thẩm, ông Nguyễn Quang T1 và bà Dương Thị T không yêu cầu Tòa án giải
quyết hậu quả của hợp đồng vô hiệu. Do đó, Hội đồng xét xử xét không xem xét giải
quyết hậu quả của hợp đồng vô hiệu, trường hợp các bên có tranh chấp sẽ khởi kiện
bằng một vụ kiện khác.
[4.7] Xét, hợp đồng ủy quyền sử dụng đất ngày 16/12/2022 giữa bà Dương
Thị T với ông Lê Thanh H đối với thửa đất số 164 diện tích 1.568m
2
, tất cả cùng
thuộc tờ bản đồ số 19, đất cùng tọa lạc tại ấp C, xã T, huyện Đ, tỉnh Long An cũ.
Thấy rằng, ngày 16/12/2022 bà T và ông H đã thỏa thuận chuyển nhượng quyền sử
dụng đất đối với hai thửa đất số 142 và thửa đất số 163. Hơn nữa, mặc dù hình thức
thể hiện là hợp đồng ủy quyền nhưng trong quá trình tố tụng bà Dương Thị T và ông
Lê Thanh H cùng xác định là giao dịch liên quan đến thửa đất số 164 ngày
16/12/2022 là hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất, hai bên trình bày thống
nhất xác định đã thanh toán tiền và giao đất xong thể hiện tại Biên bản bàn giao nhà
đất ngày 15/12/2022. Khoản 2 Điều 129 Bộ luật Dân sự quy định “Giao dịch dân sự
đã được xác lập bằng văn bản nhưng vi phạm quy định bắt buộc về công chứng,
chứng thực mà một bên hoặc các bên đã thực hiện ít nhất hai phần ba nghĩa vụ trong
giao dịch thì theo yêu cầu của một bên hoặc các bên, Tòa án ra quyết định công
nhận hiệu lực của giao dịch đó. Trong trường hợp này, các bên không phải thực
hiện việc công chứng, chứng thực”. Mặt khác, xét thấy ông H đã nhận chuyển
nhượng hợp pháp hai thửa đất 142, thửa đất 163 và từ hai thửa đất này muốn đi ra
đường giao thông công cộng phải đi qua thửa đất số 164. Do đó, việc Tòa án cấp sơ
thẩm giải quyết công nhận hiệu lực hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất
giữa bà T với ông H đối với thửa 164, tờ bản đồ số 19, được thể hiện qua Hợp đồng
ủy quyền ngày 16/12/2022 và Biên bản bàn giao đất ngày 15/12/202 là có căn cứ,
phù hợp với điều kiện thực tế sử dụng đất.
[4.8] Xét, đối với yêu cầu Hủy giấy chứng nhận quyền sử dụng đất do Ủy
ban nhân huyện Đ cấp cho ông Nguyễn Quang T1 và bà Dương Thị T đối với thửa
đất số 163 diện tích 592m
2
; thửa đất số 164 diện tích 1586m
2
và thửa đất số 142 đối
với phần đất có diện tích 1345,5m
2
tại khu A1 theo Mảnh trích đo địa chính của
Công ty TNHH Đ2, ngày 25/11/2024. Thấy rằng, theo Điều 195 của Luật Đất đai thì
trình tự, thủ tục cấp giấy chứng nhận hoặc xác nhận nội dung biến động do chuyển
quyền sử dụng đất do Chính phủ quy định. Điều 79 của Nghị định số 43/2014/NĐ-
CP15/5/2014 của Chính phủ quy định việc đăng ký biến động, cấp lại giấy chứng
nhận quyền sử dụng đất do chuyển quyền dựa trên cơ sở hồ sơ hợp đồng, Văn phòng
đăng ký đất đai có trách nhiệm kiểm tra hồ sơ, nếu đủ điều kiện thực hiện các quyền
20
theo quy định thì xác nhận nội dung biến động vào Giấy chứng nhận đã cấp hoặc lập
hồ sơ trình cơ quan có thẩm quyền cấp Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất. Như
vậy, theo quy định của Luật Đất đai và Nghị định số 43/2014/NĐ-CP15/5/2014 của
Chính phủ thì việc cấp lại Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất hoặc xác nhận nội
dung biến động trong trường hợp thực hiện hợp đồng (các trường hợp quy định tại
khoản 3 Điều 105 của Luật Đất đai) là thủ tục hành chính trong giao dịch dân sự,
không mang tính chất của quyết định hành chính cá biệt; cơ quan, tổ chức có thẩm
quyền sẽ thực hiện việc đăng ký biến động, cấp lại giấy chứng nhận quyền sử dụng
đất trên cơ sở kết quả giao dịch có hiệu lực. Do vậy, trường hợp Tòa án tuyên hợp
đồng chuyển quyền sử dụng đất vô hiệu thì Văn phòng đăng ký đất đai, cơ quan Tài
nguyên và Môi trường căn cứ vào bản án, quyết định của Tòa án để giải quyết phù
hợp với quy định của Luật Đất đai mà không cần phải hủy giấy chứng nhận quyền
sử dụng đất, do đó cần sửa bản án sơ thẩm đã tuyên về nội dung này.
[5] Đối với yêu cầu chuyển hồ sơ đến Cơ quan cảnh sát điều tra để xem xét
hành vi lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản của Nguyễn Quang T1, Dương Thị T
và hành vi trốn thuế của Dương Thị T, Lê Thanh H của những người bảo vệ quyền
và lợi ích hợp pháp của nguyên đơn bà M. Thấy rằng, căn cứ các tài liệu chứng cứ
có trong hồ sơ vụ án xét thấy hành vi của Nguyễn Quang T1, Dương Thị T và Lê
Thanh H chưa đủ yếu yếu tố cấu thành tội lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản và
trốn thuế. Mặt khác, những người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của nguyên đơn
bà M chưa cung cấp được tài liệu, chứng cứ chứng minh hành vi của Nguyễn Quang
T1, Dương Thị T đủ yếu tố cấu thành tội lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản và
hành vi của Dương Thị T, Lê Thanh H đủ yếu tố cấu thành tội trốn thuế. Do đó,
trường hợp có đủ tài liệu, chứng cứ căn cứ xác định hành vi của Nguyễn Quang T1,
Dương Thị T có đủ yếu tố cấu thành tội lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản và
hành vi của Dương Thị T, Lê Thanh H có đủ yếu tố cấu thành tội trốn thuế thì được
quyền làm đơn yêu cầu cơ quan cảnh sát điều tra có thẩm quyền khởi tố vụ án và xử
lý theo quy định của pháp luật hình sự.
[6] Từ những phân tích và nhận định trên, Hội đồng xét xử xét không có căn
cứ chấp nhận nhận yêu cầu kháng cáo của nguyên đơn bà Trần Thị M. Quan điểm
phát biểu của vị đại diện Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Tây Ninh là có căn cứ nên
được chấp nhận.
[7] Về án phí dân sự phúc thẩm: Miễn nộp án phí dân sự phúc thẩm cho bà
Trần Thị M. Ông Lê Thanh H phải chịu án phí dân sự phúc thẩm theo quy định.
[8] Các quyết định khác của bản án sơ thẩm không có kháng cáo, kháng nghị
có hiệu lực pháp luật thi hành kể từ ngày hết thời hạn kháng cáo, kháng nghị.
Vì các lẽ trên;
QUYẾT ĐỊNH:
Căn cứ Điều 289, khoản 2 Điều 308 và Điều 309 của Bộ luật Tố tụng dân
sự;
Không chấp nhận kháng cáo của nguyên đơn bà Trần Thị M;
21
Đình chỉ xét xử đối với yêu cầu kháng cáo của người có quyền lợi, nghĩa vụ
liên quan ông Lê Thanh H.
Sửa một phần Bản án dân sự sơ thẩm số 38/2025/DS-ST ngày 07 tháng 03
năm 2025 của Tòa án nhân dân huyện Đức Hòa, tỉnh Long An nay là Tòa án khu
vực 3 – Tây Ninh.
Căn cứ Điều 26, điểm a khoản 1 Điều 35, điểm c khoản 1 Điều 39, Điều 147,
Điều 157, Điều 165, Điều 227, Điều 228, Điều 244 và Điều 483 Bộ luật Tố tụng dân
sự; Căn cứ các Điều 117, 124, 129, 131, 288, 430 Bộ luật Dân sự; căn cứ Nghị quyết
số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 quy định về mức thu, miễn, giảm, thu,
nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án, xử:
1. Chấp nhận một phần yêu cầu khởi kiện của bà Trần Thị M về việc “Tranh
chấp hợp đồng tặng cho quyền sử dụng đất, hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng
đất” với ông Nguyễn Quang T1, bà Dương Thị T, cụ thể:
- Tuyên vô hiệu Hợp đồng tặng cho quyền sử dụng đất ngày 06/11/2008 giữa
cụ Nguyễn Bá Đ1 với ông Nguyễn Quang T1 đối với thửa đất số 164 diện tích
1.586m
2
, tờ bản đồ số 19, tọa lạc ấp C, xã T, huyện Đ, tỉnh Long An được Ủy ban
nhân dân xã T, huyện Đ, tỉnh Long An chứng thực ngày 06/11/2008.
Bà Trần Thị M có quyền khởi kiện yêu cầu ông Nguyễn Quang T1 và bà
Dương Thị T liên đới hoàn trả giá trị quyền sử dụng đất đối với thửa đất số 164, diện
tích 1.586m
2
, TBĐ số 19, tọa lạc ấp C, xã T, huyện Đ, tỉnh Long An cho bà M bằng
vụ án khác nếu có tranh chấp.
- Tuyên vô hiệu Hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất ngày 17/5/2021
giữa ông Nguyễn Quang T1 với bà Dương Thị T đối với thửa đất số 164, diện tích
1.586m
2
, tờ bản đồ số 19, tọa lạc ấp C, xã T, huyện Đ, tỉnh Long An được Văn phòng
C công chứng ngày 17/5/2021.
Các bên đương sự được quyền khởi kiện yêu cầu giải quyết hậu quả của hợp
đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất vô hiệu đối với thửa đất số 164, diện tích
1.586m
2
, tờ bản đồ số 19, tọa lạc ấp C, xã T, huyện Đ, tỉnh Long An, bằng một vụ
án khác nếu có tranh chấp.
2. Không chấp nhận yêu cầu khởi kiện của bà Trần Thị M “Tranh chấp hợp
đồng tặng cho quyền sử dụng đất, hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất, hợp
đồng ủy quyền quyền sử dụng đất và công nhận quyền sử dụng đất” với ông Nguyễn
Quang T1, bà Dương Thị T, cụ thể:
- Tuyên vô hiệu Hợp đồng tặng cho quyền sử dụng đất ngày 06/11/2008 giữa
cụ Nguyễn Bá Đ1 với ông Nguyễn Quang T1 đối với phần đất thuộc thửa 163 và
một phần thửa 142 có diện tích 1.345,5m
2
tại khu A1 theo Mảnh trích đo địa chính
của Công ty TNHH Đ2, ngày 25/11/2024, đất cùng tọa lạc tại ấp C, xã T, huyện Đ,
tỉnh Long An.
- Tuyên vô hiệu Hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất ngày 17/5/2021
giữa ông Nguyễn Quang T1 với bà Dương Thị T đối với phần đất thuộc thửa 163 và
một phần thửa 142 có diện tích 1.345,5m
2
tại khu A1 theo Mảnh trích đo địa chính
22
của Công ty TNHH Đ2, ngày 25/11/2024, đất cùng tọa lạc tại ấp C, xã T, huyện Đ,
tỉnh Long An.
- Tuyên vô hiệu Hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất ngày
16/12/2022 giữa bà Dương Thị T với ông Lê Thành H2 đối với phần đất thuộc thửa
163 và một phần thửa 142 có diện tích 1.345,5m
2
tại khu A1 theo Mảnh trích đo địa
chính của Công ty TNHH Đ2, ngày 25/11/2024, đất cùng tọa lạc tại ấp C, xã T,
huyện Đ, tỉnh Long An.
- Tuyên vô hiệu Hợp đồng ủy quyền quyền sử dụng đất ngày 16/12/2022
giữa bà Dương Thị T với ông Lê Thanh H được công chứng đối với thửa đất số 164,
diện tích 1.586m
2
, TBĐ số 19, tọa lạc ấp C, xã T, huyện Đ, tỉnh Long An được Văn
phòng C công chứng ngày 16/12/2022.
- Không chấp nhận yêu cầu khởi kiện của bà M về việc yêu cầu công nhận
phần đất thuộc thửa 163 và một phần thửa 142 có diện tích 1.345,5m
2
tại khu A1
theo Mảnh trích đo địa chính của Công ty TNHH Đ2, ngày 25/11/2024 thuộc quyền
sử dụng của của bà M.
3. Chấp nhận yêu cầu độc lập của ông Lê Thanh H, cụ thể:
- Công nhận hiệu lực Hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất ngày
16/12/2022 giữa bà Dương Thị T với ông Lê Thanh H đối với thửa đất số 142, 163,
tổng diện tích 3.765m
2
, tờ bản đồ số 19, tọa lạc ấp C, xã T, huyện Đ, tỉnh Long An
được Văn phòng C công chứng ngày 16/12/2022.
- Công nhận hiệu lực của Hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất (thể
hiện qua hợp đồng ủy quyền ngày 16/12/2022 và Biên bản bàn giao đất ngày
15/12/2022) giữa bà Dương Thị T với ông Lê Thành H2 đối với thửa 164, diện tích
1.586m
2
, tờ bản đồ số 19, tọa lạc ấp C, xã T, huyện Đ, tỉnh Long An .
Ông Lê Thanh H được quyền liên hệ cơ quan nhà nước có thẩm quyền để
đăng ký, kê khai và xin cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, quyền sở hữu nhà
ở và tài sản khác gắn liền với đất hoặc được cập nhật biến động sang tên Giấy chứng
nhận đối với thửa đất số 142, 163, 164, tổng diện tích 5.351m
2
, tờ bản đồ số 19, tọa
lạc ấp C, xã T, huyện Đ, tỉnh Long An và tài sản gắn liền với đất theo quy định pháp
luật.
Vị trí, diện tích tứ cận được thể hiện theo Mảnh trích đo bản đồ địa chính số
144-2024 do Công ty TNHH Đ2 lập ngày 10/4/2024 được Chi nhánh Văn phòng
đăng ký đất đai tại huyện Đ, tỉnh Long An phê duyệt ngày 23/4/2024.
Cơ quan cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất căn cứ vào bản án, quyết
định của Tòa án để giải quyết điều chỉnh biến động hoặc cấp lại giấy chứng nhận
quyền sử dụng đất phù hợp với kết quả giải quyết của Tòa án.
4. Buộc bà Trần Thị M và những người sinh sống trên thửa đất số 142, 163,
164, tổng diện tích 5.351m
2
, tờ bản đồ số 19, tọa lạc ấp C, xã T, huyện Đ, tỉnh Long
An có nghĩa vụ giao trả lại cho ông Lê Thanh H thửa đất số 142, 163, 164, tổng diện
tích 5.351m
2
, tờ bản đồ số 19, tọa lạc ấp C, xã T, huyện Đ, tỉnh Long An và tài sản
gắn liền với đất.
23
5. Về chi phí tố tụng: Tổng số tiền chi phí tố tụng số tiền 77.000.000 đồng,
bà M đã nộp tạm ứng và chi phí xong, buộc ông Nguyễn Quang T1 và bà Dương Thị
T liên đới trả lại số tiền 42.000.000 đồng để thanh toán cho bà Trần Thị M.
Kể từ ngày bản án có hiệu lực pháp luật và có đơn yêu cầu thi hành án của
người được thi hành án cho đến khi thi hành án xong tất cả các khoản tiền, hàng
tháng bên phải thi hành án còn phải chịu khoản tiền lãi của số tiền còn phải thi hành
án theo mức lãi suất quy định tại khoản 2 Điều 468 của Bộ luật Dân sự năm 2015
6. Về án phí dân sự sơ thẩm: Bà Trần Thị M được miễn án phí theo quy định.
Ông Lê Thanh H không phải chịu án phí, hoàn trả cho ông H số tiền tạm ứng
án phí đã nộp là 1.200.000 đồng theo các Biên lai thu tiền tạm ứng án phí số 0000399
ngày 09/5/2024; số 0005719 ngày 25/9/2024; số 0005216 ngày 23/7/2024 và số
0004008 ngày 09/12/2024 mà ông H đã nộp tại Chi cục Thi hành án dân sự huyện
Đức Hòa, tỉnh Long An nay là Thi hành án dân sự khu vực 3, Thi hành án dân sự
tỉnh Tây Ninh.
Buộc ông Nguyễn Quang T1 phải nộp 300.000 đồng án phí dân sự sơ thẩm.
Bà Dương Thị T phải nộp 600.000 đồng án phí dân sự sơ thẩm.
Buộc ông Nguyễn Quang T1 và bà Dương Thị T phải liên đới nộp 300.000
đồng án phí dân sự sơ thẩm.
7. Về án phí dân sự phúc thẩm: Miễn nộp án phí dân sự phúc thẩm cho bà
Trần Thị M.
Ông Lê Thanh H phải chịu 300.000 đồng án phí dân sự phúc thẩm nhưng
được khấu trừ 300.000 đồng tiền tạm ứng án phí đã nộp theo Biên lai thu tiền số
0006642 ngày 14/4/2025 của Chi cục Thi hành án dân sự huyện Đức Hòa, tỉnh Long
An nay là Thi hành án dân sự khu vực 3, Thi hành án dân sự tỉnh Tây Ninh. Ông H
đã nộp đủ án phí dân sự phúc thẩm.
8. Về hiệu lực của bản án: Bản án phúc thẩm có hiệu lực pháp luật kể từ ngày
tuyên án.
9. Về hướng dẫn thi hành án: Trường hợp bản án, quyết định được thi hành
theo qui định tại Điều 2 Luật Thi hành án dân sự thì người được thi hành án, người
phải thi hành án dân sự có quyền thoả thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án,
tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo qui định tại các Điều 6, 7,
7a và 9 Luật Thi hành án dân sự; thời hiệu thi hành án được thực hiện theo qui định
tại Điều 30 Luật Thi hành án dân sự.
Nơi nhận:
- TAND tối cao;
- VKSND tỉnh Tây Ninh;
- TAND khu vực 3 – Tây Ninh;
- Thi hành án Dân sự tỉnh Tây Ninh;
- Các đương sự;
- Lưu hồ sơ, án văn.
TM. HỘI ĐỒNG XÉT XỬ PHÚC THẨM
THẨM PHÁN - CHỦ TỌA PHIÊN TÒA
Trần Trọng Nhân
24
Tải về
Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để tải file. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!
Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để tải file. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!
Bản án/ Quyết định cùng đối tượng
1
Ban hành: 11/11/2025
Cấp xét xử: Phúc thẩm
2
Bản án số 97/2025/DS-ST ngày 30/09/2025 của TAND TP. Cần Thơ về tranh chấp hợp đồng tặng cho tài sản
Ban hành: 30/09/2025
Cấp xét xử: Phúc thẩm
3
Ban hành: 26/09/2025
Cấp xét xử: Phúc thẩm
4
Ban hành: 18/09/2025
Cấp xét xử: Phúc thẩm
5
Ban hành: 03/09/2025
Cấp xét xử: Phúc thẩm
6
Ban hành: 26/08/2025
Cấp xét xử: Phúc thẩm
7
Ban hành: 26/08/2025
Cấp xét xử: Phúc thẩm
8
Ban hành: 22/08/2025
Cấp xét xử: Phúc thẩm
9
Ban hành: 18/08/2025
Cấp xét xử: Phúc thẩm
10
Ban hành: 14/08/2025
Cấp xét xử: Phúc thẩm
11
Ban hành: 14/08/2025
Cấp xét xử: Phúc thẩm
12
Ban hành: 11/08/2025
Cấp xét xử: Phúc thẩm
13
Ban hành: 04/08/2025
Cấp xét xử: Phúc thẩm
14
Ban hành: 31/07/2025
Cấp xét xử: Phúc thẩm
15
Bản án số 36/2025/DS-PT ngày 31/07/2025 của TAND tỉnh Cà Mau về tranh chấp hợp đồng tặng cho tài sản
Ban hành: 31/07/2025
Cấp xét xử: Phúc thẩm
16
Ban hành: 18/07/2025
Cấp xét xử: Phúc thẩm
17
Ban hành: 17/07/2025
Cấp xét xử: Phúc thẩm
18
Ban hành: 16/07/2025
Cấp xét xử: Phúc thẩm
19
Ban hành: 15/07/2025
Cấp xét xử: Phúc thẩm