Bản án số 657/DS-PT ngày 17/09/2025 của TAND tỉnh Tây Ninh về tranh chấp hợp đồng tặng cho tài sản

  • Thuộc tính
  • Nội dung
  • VB gốc
  • VB liên quan
  • Lược đồ
  • Đính chính
  • Án lệ
  • BA/QĐ cùng nội dung
  • Tải về
Tải văn bản
Báo lỗi
  • Gửi liên kết tới Email
  • Chia sẻ:
  • Chế độ xem: Sáng | Tối
  • Thay đổi cỡ chữ:
    17

Thuộc tính Bản án 657/DS-PT

Tên Bản án: Bản án số 657/DS-PT ngày 17/09/2025 của TAND tỉnh Tây Ninh về tranh chấp hợp đồng tặng cho tài sản
Quan hệ pháp luật: Tranh chấp hợp đồng tặng cho tài sản
Cấp xét xử: Phúc thẩm
Tòa án xét xử: TAND tỉnh Tây Ninh
Số hiệu: 657/DS-PT
Loại văn bản: Bản án
Ngày ban hành: 17/09/2025
Lĩnh vực: Dân sự
Áp dụng án lệ:
Đã biết

Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để xem áp dụng án lệ. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!

Đính chính:
Đã biết

Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để xem đính chính. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!

Thông tin về vụ/việc: rần Thị Mới "Tranh chấp hợp đồng tặng cho quyền sử dụng đất" Nguyễn Quang Th, Dương Thị Th
Tóm tắt Bản án

Nội dung tóm tắt đang được cập nhật, Quý khách vui lòng quay lại sau!

Tải văn bản

TÒA ÁN NHÂN DÂN
TỈNH TÂY NINH
¯¯¯¯¯¯¯¯¯
Bản án số: 657/2025/DS-PT
Ngày: 17-9-2025
V/v Tranh chấp hợp đồng tặng
cho quyền sử dụng đất, hủy giấy
chứng nhận quyền sử dụng đất;
hợp đồng chuyển nhượng quyền
sử dụng đất; hợp đồng ủy quyền
quyền sử dụng đất và công nhận
quyền sử dụng đất.
CỘNG HÒA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM
Độc lập - Tự do - Hạnh phúc
NHÂN DANH
NƯỚC CỘNG HÒA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM
TÒA ÁN NHÂN DÂN TỈNH TÂY NINH
- Thành phần Hội đồng xét xử phúc thẩm gồm có:
Thẩm phán – Chủ tọa phiên tòa:Ông Trần Trọng Nhân
Các Thẩm phán:Bà Phùng Thị Cẩm Hồng
Ông Nguyễn Văn Nam.
- Thư ký phiên tòa: Ngô Hồng Thúy Thẩm tra viên Tòa án nhân dân
tỉnh Tây Ninh.
- Đại diện Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Tây Ninh tham gia phiên tòa:
Trần Thị Thùy Dung - Kiểm sát viên.
Trong các ngày 15 và ngày 17 tháng 9 năm 2025, tại trụ sở Tòa án nhân dân
tỉnh Tây Ninh xét xphúc thẩm công khai vụ án thụ lý số 222/2025/TLPT-DS ngày
16 tháng 6 năm 2025 về việc “Tranh chấp hợp đồng tặng cho quyền sử dụng đất,
hủy giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng
đất, hợp đồng ủy quyền quyền sử dụng đất và công nhận quyền sử dụng đất” .
Do Bản án dân sự thẩm số 38/2025/DS-ST ngày 07 tháng 3 năm 2025 của
Tòa án nhân dân huyện Đức Hòa, tỉnh Long An nay là Tòa án nhân dân khu vực 3 -
Tây Ninh,oaòaHoa2 bị kháng cáo.
Theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử phúc thẩm số 328/2025/QĐ-PT ngày
07 tháng 7 năm 2025, giữa các đương sự:
- Nguyên đơn: Trần Thị M, sinh năm 1941, CCCD số 079141004908; địa
ch: Số I khu A, H, tỉnh Tây Ninh; địa chỉ cũ: số I khu A, thị trấn H, huyện Đ,
tỉnh Long An, có mặt.
Người bảo vệ quyền lợi ích hợp pháp: Luật Nguyễn Quang K Luật
sư thuộc Đoàn Luật sư tỉnh Đ, có mặt.
2
Người bảo vệ quyền lợi ích hợp pháp: Luật sư NVăn Đ Luật thuộc
Đoàn Luật sư tỉnh Đ, có mặt.
Người bảo vệ quyền lợi ích hợp pháp: Luật Hoàng Cao S Luật
thuộc Đoàn Luật sư Thành phố H, có mặt.
- Bị đơn:
1. Dương Thị T, sinh năm 1973; địa chỉ: ấp S, H, tỉnh Tây Ninh; địa
chỉ cũ: ấp S, thị trấn H, huyện Đ, tỉnh Long An, vắng mặt.
2. Ông Nguyễn Quang T1, sinh năm 1964; địa chỉ: ấp S, H, tỉnh Tây Ninh;
địa chỉ cũ: ấp S, thị trấn H, huyện Đ, tỉnh Long An, vắng mặt
- Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan:
1. Nguyễn Thị Thanh T2, sinh năm 1967, CCCD số 079167038256; đa
ch: Số I khu A, H, tỉnh Tây Ninh; địa chcũ: Số I khu A, thị trấn H, huyện Đ,
tỉnh Long An, có mặt.
2. Ông Nguyễn Quang L, sinh năm 1973; địa ch: Số I khu A, H, tỉnh Tây
Ninh; địa chỉ cũ: Số I khu A, thị trấn H, huyện Đ, tỉnh Long An.
Người đại diện theo pháp luật: bà Trần Thị M, sinh năm 1941; địa ch: Số I
khu A, xã H, tỉnh Tây Ninh; địa chỉ cũ: Số I khu A, thị trấn H, huyện Đ, tỉnh Long
An, có mặt.
3. Ông Thanh H, sinh năm 1978; địa chỉ: Số A, đường T, phường T,
Thành phố Hồ Chí Minh; địa chỉ cũ: Số A, đường T, Phường A, quận T, Thành phố
Hồ Chí Minh.
Người đại diện theo ủy quyền của ông H: ông Trần Như V, sinh năm 1991;
địa chỉ: số A, đường T, phường T, Thành phố Hồ Chí Minh; địa chỉ cũ: số113 đường
T, Phường A, quận T, Thành phố Hồ Chí Minh.
4. Thị Diệu Q, sinh năm 1983; địa chỉ: Số A, đường T, phường T,
Thành phố Hồ Chí Minh; địa chỉ cũ: số A, đường T, Phường A, quận T, Thành phố
Hồ Chí Minh, vắng mặt.
5. Văn phòng C; địa chỉ: ấp G, H, tỉnh Tây Ninh; địa chỉ cũ: ấp G, thị trấn
H, huyện Đ, tỉnh Long An, có đơn xin vắng.
6. Ủy ban nhân dân T, huyện Đ, tỉnh Long An (đã sáp nhập). Đơn vị kế
thừa: Ủy ban nhân dân xã H, tỉnh Tây Ninh, vắng mặt.
7. Ủy ban nhân dân huyện Đ, tỉnh Long An (đã kết thúc hoạt động). Đơn vị
kế thừa: Chủ tịch Ủy ban nhân dân xã H, tỉnh Tây Ninh, vắng mặt.
7. Sở Tài nguyên Môi trường tỉnh L, nay Sở Nông Nghiệp và Môi
trường tỉnh T, có đơn xin vắng.
- Người kháng cáo: Nguyên đơn Trần Thị M; người quyền lợi, nghĩa
vụ liên quan ông Lê Thanh H.
NỘI DUNG VỤ ÁN:
3
Theo đơn khởi kiện trong quá trình giải quyết vụ án cũng như tại phiên
tòa, nguyên đơn Trần Thị M và người bảo vệ quyền lợi ích hợp pháp của
M trình bày:
Trần Thị M và ông Nguyễn Đ1 là vợ chồng, 03 người con chung
gồm ông Nguyễn Quang T1, Nguyễn Thị Thanh T2 ông Nguyễn Quang L.
Ông L bị bệnh bại liệt từ nhỏ do M người giám hộ, theo Quyết định tuyên
bố một người bị mất năng lực hành vi dân sự số 08/2023/QDDST-DS ngày
12/9/2023 của Tòa án nhân dân huyện Đức Hòa, tỉnh Long An.
M ông Đ1 tạo lập tài sản chung gồm các thửa đất: thửa đất số 142,
diện tích 3.173m
2
, đất vườn; thửa đất số 160, diện tích 346m
2
đất nghĩa địa; thửa đất
số 161, diện tích 438m
2
đất lúa màu; thửa đất số 162, diện tích 1.933m
2
đất lúa màu;
thửa đất số 163, diện tích 592m
2
, đất thổ trên đất căn nhà cấp 4 tường gạch,
mái tôn (nhà chưa được công nhận quyền sở hữu); thửa số 164, diện tích 1.586m
2
,
đất lúa màu và thửa đất số 203, diện tích 1.478m
2
, đất lúa màu. Các thửa đất trên
thuộc tờ bản đsố 19, đất tọa lạc ấp C, T, huyện Đ, tỉnh Long An theo Giấy chứng
nhận quyền sử dụng đất do Ủy ban nhân dân huyện Đ, tỉnh Long An cấp cho ông
Đ1 ngày 01/7/1997.
Năm 2008, bà M và ông Đ1 cùng các con có thống nhất chia đất cho các con
như sau: Tặng cho ông T1 diện tích 5.243m
2
gồm đất thổ, vườn tạp và lúa. Tặng cho
ông L diện tích 3.957m
2
đất lúa. Tuy nhiên, do L bbệnh từ nhỏ, cần có người chăm
sóc nên M, ông Đ1, T2 và ông T1 thống nhất đcho ông T1 đứng tên giấy
chứng nhận quyền sử dụng toàn bộ phần diện tích 9.200m
2
(bao gồm phần diện tích
5.243m
2
cho ông T1 phần diện tích 3.957m
2
cho ông L) giao cho ông Thanh
quản L1, sdụng đất với điều kiện ông T1 trách nhiệm chăm sóc, nuôi dưỡng
ông L vì ông T1 ở chung nhà với bà M, ông Đ1 và ông L.
Năm 2013, ông T1 vợ Dương Thị T xin ra riêng không chăm
sóc, nuôi dưỡng ông L nữa. Do đó, ngày 13/01/2014, bà M, ông Đ1 tổ chức họp gia
đình và lập Biên bản họp gia đình với nội dung: bà M, ông Đ1 đồng ý cho vợ chồng
ông T1 ra riêng, vợ chồng ông T1 trách nhiệm giao trả lại cho ông Đ1, M
phần diện tích 3.957m
2
đã thỏa thuận cho ông L trước đây để ông Đ1, bà M có điều
kiện chăm sóc, nuôi dưỡng ông L. Thời hạn trả lại đất là ngày 31/12/2014. Ông T1
và bà T đồng ý giao trả lại phần đất trên cho bà M và ông Đ1 ngày 31/12/2014.
Tuy nhiên, ông T1bà T không thực hiện đúng cam kết theo Biên bản họp
gia đình ngày 13/01/2014. Đến năm 2021, ông T1 tý làm hợp đồng chuyển nhượng
các thửa đất s142, 161, 162, 163, 164, 203 cho T đến năm 2022, T đã
chuyển nhượng các thửa đất số 142, 163, 164 cho ông Lê Thanh H. Năm 2019, ông
Đ1 chết. Nay, bà M khởi kiện yêu cầu Toà án xem xét, giải quyết:
1. Yêu cầu hiệu một phần Hợp đồng tặng cho Quyền sử dụng đất giữa
ông Nguyễn Đ1 với ông Nguyễn Quang T1 (tự H1) được chủ tịch UBND xã T
chứng thực ngày 06/11/2008 đối với phần đất thuộc thửa đất số 163 một phần
thửa đất số 142 có diện tích 1345,5m
2
, tại khu A1 theo Mảnh trích đo địa chính của
Công ty TNHH Đ2, ngày 25/11/2024 thửa đất số 164 tờ bản đồ số 19, với diện
tích 1.586m
2
loại đất: LUA, đất tọa lạc tại ấp C, xã T, huyện Đ, tỉnh Long An.
4
2. Hủy giấy chứng nhận QSD đất do UBND huyện Đ cấp cho ông Nguyễn
Quang T1 đối với phần đất thuộc thửa đất số 163 một phần thửa đất số 142
diện tích 1345,5m
2
, tại khu A1 theo Mảnh trích đo địa chính của Công ty TNHH Đ2,
ngày 25/11/2024 và thửa đất số 164 tờ bản đồ số 19, với diện tích 1.586m
2
loại đất:
LUA, đất cùng tọa lạc tại ấp C, xã T, huyện Đ, tỉnh Long An.
3. hiệu một phần Hợp đồng chuyển nhượng QSD đất giữa ông Nguyễn
Quang T1 với bà Dương Thị T được Văn phòng C công chứng ngày 17/05/2021 đối
với các thửa đất sau: thửa 163 và một phần thửa 142 có diện tích 1.345,5m
2
, tại khu
A1 theo Mảnh trích đo địa chính của Công ty TNHH Đ2, ngày 25/11/2024 và thửa
số 164, tờ bản đồ số 19, với diện tích 1.586m
2
loại đất: LUA, đất cùng tọa lạc tại ấp
C, xã T, huyện Đ, tỉnh Long An.
4. Hủy giấy chứng nhận QSD đất do Sở TNMT tỉnh L cấp cho Dương Thị
T đối với phần đất thuộc thửa đất số 163 một phần thửa đất số 142 diện tích
1.345,5m
2
, tại khu A1 theo Mảnh trích đo địa chính của Công ty TNHH Đ2, ngày
25/11/2024 và thửa 164, tbản đồ số 19, diện tích 1.586m
2
, đất cùng tọa lạc tại ấp
C, xã T, huyện Đ, tỉnh Long An.
5. Vô hiệu một phần Hợp đồng chuyển nhượng QSD đất giữa bà Dương Thị
T với ông Thanh H đối với phần đất thuộc thửa 163 một phần thửa 142
diện tích 1.345,5m
2
, tại khu A1 theo Mảnh trích đo địa chính của Công ty TNHH
Đ2, ngày 25/11/2024.
6. hiệu Hợp đồng ủy quyền QSD đất giữa Dương Thị T với ông
Thanh H được tại Văn phòng C công chứng ngày 16/12/2022 đối với thửa đất số
164, tờ bản đồ số 19, với diện tích 1.586m
2
, đất tọa lạc tại ấp C, xã T, huyện Đ, tỉnh
Long An.
7. Yêu cầu Tòa án công nhận phần đất thuộc thửa đất số 163 một phần
thửa đất số 142 có diện tích 1.345,5m
2
tại khu A1 theo Mảnh trích đo địa chính của
Công ty TNHH Đ2, ngày 25/11/2024 thuộc sở hữu hợp pháp của bà Trần Thị M,
M được quyền trực tiếp quản lý và sử dụng các thửa trên.
8. Yêu cầu Tòa án công nhận phần đất thuộc thửa đất s164, diện tích
1.586m
2
cùng thuộc tờ bản đồ số 19, đất cùng tọa lạc tại: ấp C, xã T, huyện Đ, tỉnh
Long An thuộc quyền sử dụng của ông Nguyễn Quang L, Trần Thị M trực tiếp
quản lý và sử dụng các thửa đất của ông L vì là người giám hộ cho ông L.
Đối với yêu cầu hiệu các hợp đồng tặng cho, hợp đồng chuyển nhượng
QSDĐ liên quan đến các thửa 160, 161, 162, tờ bản đồ số 19, đã được tách ra thành
vụ án khác, nên bà M không yêu cầu trong vụ án này.
Bị đơn bà Dương Thị T trình bày: Bà và ông T1 là vợ chồng có đăng ký kết
hôn năm 1994, đến ngày 13/01/2021 thì vợ chồng ly hôn.
Ngày 17/5/2021, ông T1 có chuyển nhượng cho bà các thửa đất số 142, 161,
162, 163, 164, 203, TBĐ số 19, toạ lạc ấp C, T, huyện Đ, tỉnh Long An. Nguồn
gốc các thửa đất này của ông Đ1, M tặng cho ông T1 vào năm 2008. Thời điểm
cho đất, bà và ông T1 là người trực tiếp quản lý, sử dụng các thửa đất trên. Khi cho
đất, ông Đ1, bà M có nói bằng lời nói là ông T1 có trách nhiệm nuôi cha mẹ và ông
L. Ông Đ1, M nói cho ông L một phần đất nhưng không nói cụ thể cho thửa
5
đất nào và nếu cho ông L thửa 164 thì phần đất còn lại bà và ông T1 không có lối đi
vào. Tháng 12/2022, bà chuyển nhượng cho ông H các thửa đất số 142, 163, 164
tài sản trên đất (gồm nhà, cây cối, tường rào) với giá là 14.900.000.000 đồng, trong
đó thửa 142, 163 làm hợp đồng chuyển nhượng, thửa 164 làm hợp đồng ủy quyền.
đã nhận đủ stiền 14.900.000.000 đồng để chuyển nhượng 03 thửa đất trên, đã
bàn giao nhà đất cho ông H. không tranh chấp về việc chuyển nhượng 03
thửa đất trên cho ông H. Bà không đồng ý với toàn bộ yêu cầu khởi kiện của Bà M.
Bị đơn ông Nguyễn Quang T1 trình bày: Năm 2008, ông được ông Đ1
M tặng cho các thửa đất số 142, 161, 162, 163, 164, 203, tờ bản đồ số 19, toạ lạc ấp
C, xã T, huyện Đ, tỉnh Long An. Do công việc làm ăn khó khăn, ông bị vướng nợ
xấu ngân hàng nên ông đã làm thủ tục ly hôn với T sau đó chuyển nhượng
sang tên các thửa đất trên cho bà T.
Do thiếu vốn nên ông T1 vay của hai người bạn làm ăn chung ông H
ông K1, trong đó vay của ông H số tiền 14.900.000.000 đồng. Nay M khởi
kiện tuyên hiệu hợp đồng tặng cho, hợp đồng chuyển nhượng, hợp đồng uỷ quyền
trên, ông xin bà M cho thời gian đgiải quyết công việc làm ăn chuộc lại đất. Sau
đó, ông sẽ sang tên lại các thửa đất trên cho M. Nếu không tiền để chuộc lại
đất thì ông đồng ý giao toàn bộ phần đất trên cho ông H, vấn đề ca bà M thì nội bộ
gia đình sẽ giải quyết với nhau.
Người quyền lợi nghĩa vụ liên quan Nguyễn Thị Thanh T2 trình bày:
Bà là con ruột của bà M và ông Đ1, là chị em ruột của ông T1 và ông L. Bà đồng ý
với yêu cầu khởi kiện của bà M và không có ý kiến gì khác.
Người đại diện theo ủy quyền của người quyền lợi, nghĩa vụ liên quan
ông Lê Thanh H, ông Trần Như V trình bày: Ông H có biết T, cuối năm 2022,
T có liên hệ với ông H và muốn bán cho ông H 03 thửa đất số 142, 163, 164, tờ bản
đồ số 19, tọa lạc tại T, huyện Đ, tỉnh Long An toàn bộ tài sản trên đất. Sau
nhiều lần đến xem đất, tìm hiểu thì T đăng thông tin bán đất công khai lên
mạng xã hội, sau khi xem xét giấy tờ, hồ sơ pháp lý rõ ràng, không có ai tranh chấp
hiện trạng nhà đất có hàng rào, cổng khóa không có người ở vì bà T đã có nhà ở nơi
khác nên ông H đồng ý mua lại.
Ngày 15/12/2022, ông H T thống nhất việc chuyển nhượng như sau:
T chuyển nhượng cho ông H thửa đất số 142, 163, 164, tbản đồ số 19, tọa lạc
tại T, huyện Đ, tỉnh Long An toàn btài sản trên đất (gồm nhà, cây cối
tường rào) với giá chuyển nhượng 14.900.000.000 đồng. Ông H đã trả đủ tiền cho
bà T, T đã bàn giao đất, tài sản trên đất và toàn bộ giấy tờ bản chính cho ông H.
Hai bên có lập Biên bản bàn giao đất, cùng ngày ông H giao đủ 14,9 tỷ cho bà T, để
T giải chấp các sổ đất đã vay trong Ngân hàng đến ngày 16/12/2022 các bên
ra văn phòng công chứng ký hợp đồng chuyển nhượng. Sau khi nhận nhà, đất, phía
ông H đã được bàn giao chìa khóa và có quản lý một thời gian, tuy nhiên sau đó do
công việc làm ăn và có nhà ở Thành phố nên ông H khóa trái cửa, thỉnh thoảng mới
về thăm nhà, sau đó thì bà M quay lại nhà ở cho đến nay.
do ông H hợp đồng ủy quyền đối với thửa 164 do thời điểm này,
ông H chưa được sử dụng đất lúa, sau đó khi ông H được xác nhận trực tiếp sử
6
dụng đất nông nghiệp, ông H đi làm thủ tục sang tên thì không được do M đã
tranh chấp.
Ông H người thứ ba ngay tình nhận chuyển nhượng hợp pháp nhà đất trên
của T. Khi nhận chuyển nhượng, ông H xuống xem đất thì không ông T1
hay M sinh sống trên đất, chỉ nhà đất trống, khóa cửa. Ông H cũng tìm hiểu
kỹ thì nhà đất trên không bị ai tranh chấp hay khiếu nại. Ông H nhận chuyển nhượng
trực tiếp từ T, không nhận chuyển nhượng đất của M hay ông T1, sự việc tranh
chấp nếu có giữa bà M và ông T1 thì đó là vấn đề nội bộ của gia đình bà M, ông H
hoàn toàn không thể biết được. Do đó, ông H không đồng ý với yêu cầu khởi kiện
của M. Nay ông H đã đủ điều kiện sdụng đất nông nghiệp nên ông H yêu
cầu độc lập như sau:
1. Công nhận hiệu lực hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất giữa bà
Dương Thị T với ông Thanh H đối với thửa đất số 142, 163, tổng diện tích
3.765m
2
, tbản đồ số 19, tọa lạc ấp C, T, huyện Đ, tỉnh Long An, được Văn
phòng C công chứng ngày 16/12/2022.
2. Công nhận Biên bản bàn giao đất ngày 15/12/2022 giữa bà Dương Thị T
với ông Lê Thanh H đối với thửa đất số 142, 163, 164, tổng diện tích 5.351m
2
, TBĐ
số 19, tọa lạc ấp C, T, huyện Đ, tỉnh Long An toàn bộ tài sản trên đất (gồm
nhà, cây cối và tường rào) có hiệu lực pháp luật.
3. Ông Lê Thanh H được quyền liên hệ cơ quan nhà nước có thẩm quyền đ
đăng ký, khai và xin cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, quyền sở hữu nhà
tài sản khác gắn liền với đất hoặc được cập nhật biến động sang tên Giấy chứng
nhận đối với thửa đất số 142, 163, 164, tổng diện tích 5.351m
2
, TBĐ số 19, tọa lạc
ấp C, T, huyện Đ, tỉnh Long An tài sản gắn liền với đất theo quy định pháp
luật.
4. Buộc bà Trần Thị M và những người sinh sống trên thửa đất số 142, 163,
164, tổng diện tích 5.351m
2
, TBĐ số 19, tọa lạc ấp C, xã T, huyện Đ, tỉnh Long An
nghĩa vụ giao trả lại cho ông Thanh H thửa đất số 142, 163, 164, tổng diện
tích 5.351m
2
, TBĐ số 19, tọa lạc ấp C, xã T, huyện Đ, tỉnh Long An và tài sản gắn
liền với đất.
Trường hợp Tòa án tuyên các hợp đồng trên bị vô hiệu, ông H yêu cầu Toà
án giải quyết hậu quả của hợp đồng vô hiệu theo quy định pháp luật.
Người quyền lợi, nghĩa vụ liên quan Văn phòng C trình bày: Ngày
17/05/2021, n phòng C tiếp nhận yêu cầu công chứng hợp đồng chuyển nhượng
quyền sử dụng đất giữa ông Nguyễn Quang T1Dương Thị T đối với quyền sử
dụng đất tại thửa đất số 164, 162, 161, 203, 163, 142 tờ bản đồ số 19, địa chỉ thửa
đất: ấp C, xã T, huyện Đ, tỉnh Long An theo Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất số
AO 105041, AO 105042, AO 105044 do UBND huyện Đ cấp ngày 18/12/2008 cho
ông Nguyễn Quang T1. Theo hồ sơ lưu trữ tại Văn phòng, các bên đã cung cấp các
giấy tờ như sau: Chứng minh nhân dân của ông Nguyễn Quang T1 Dương Thị
T; Quyết định ly hôn theo quyết định công nhận thuận tình ly hôn và sự thỏa thuận
của các đương sự số 31/2021/QĐST-HNGĐ của Tòa án nhân dân huyện Đức Hòa
7
ngày 13/01/2021; Sổ hộ khẩu; Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất tại các thửa đất
nêu trên và Giấy xác nhận cá nhân trực tiếp sản xuất nông nghiệp.
Sau khi xem xét các giấy tờ và các bên không yêu cầu xác minh, Công chứng
viên Văn phòng C đã giải thích nội dung hợp đồng cho các bên nghe. Các bên
cam kết đã hiểu đồng ý tên vào hợp đồng. Do đó Công chứng viên đã chứng
nhận Hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất tại các thửa đất nêu trên từ ông
Nguyễn Quang T1 sang cho bà Dương Thị T.
2. Ngày 16/12/2022, Văn phòng C tiếp nhận yêu cầu công chứng hợp
đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất giữa Dương Thị T ông Thanh H
đối với quyền sử dụng đất tại thửa đất số 142, 163 tờ bản đồ số 19, địa chỉ thửa đất
ấp C, xã T, huyện Đ, tỉnh Long An theo Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất số DC
449948, DC 449947 do Sở Tài Nguyên và Môi Trường tỉnh L cấp ngày 09/06/2021
cho bà Dương Thị T.
Theo hồ sơ lưu trữ tại Văn phòng, các bên đã cung cấp các giấy tờ như sau:
Chứng minh nhân dân, căn cước công dân của bà Dương Thị Tông Lê Thanh H;
Giấy xác nhận tình trạng hôn nhân; Quyết định ly hôn theo quyết định công nhận
thuận tình ly hôn và sự thỏa thuận của các đương sự số 31/2021/QĐST-HNGĐ của
Tòa án nhân dân huyện Đức Hòa ngày 13/01/2021 giấy chứng nhận quyền sử
dụng đất tại thửa đất nêu trên.
Sau khi xem xét các giấy tờ và các bên không yêu cầu xác minh, Công chứng
viên Văn phòng C đã giải thích nội dung hợp đồng cho các bên nghe. Các bên
cam kết đã hiểu đồng ý tên vào hợp đồng. Do đó Công chứng viên đã chứng
nhận Hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất tại các thửa đất nêu trên t
Dương Thị T sang cho ông Lê Thanh H.
3. Ngày 16/12/2022, Văn phòng C tiếp nhận yêu cầu công chứng hợp
đồng ủy quyền quyền sử dụng đất giữa bà Dương Thị T và ông Lê Thanh H đối với
quyền sử dụng đất tại thửa đất số 164, tờ bản đồ số 19, địa chỉ thửa đất ấp C, xã T,
huyện Đ, tỉnh Long An theo Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất số DC 449943 do
Sở Tài Nguyên và Môi trường tỉnh L cấp như sau: ngày 09/06/2021 cấp cho T.
Theo hồ lưu trữ tại Văn phòng, các bên đã cung cấp các giấy tờ: Căn cước
công dân của Dương Thị T và ông Thanh H; Giấy xác nhận tình trạng hôn
nhân; Quyết định công nhận thuận tình ly hôn giấy chứng nhận quyên sử dụng
đất tại thửa đất nêu trên.
Sau khi xem xét các giấy tờ và các bên không yêu cầu xác minh, Công chứng
viên văn phòng C đã giải thích nội dung hợp đồng cho các bên nghe. Các bên cam
kết đã hiểu đồng ý tên vào hợp đồng. Do đó Công chứng viên Văn phòng
C đã chứng nhận Hợp đồng ủy quyền quyền sdụng đất tại thửa đất nêu trên giữa
Dương Thị T và ông Lê Thanh H.
Văn phòng C1 đã thực hiện việc công chứng Hợp đồng nêu trên đúng trình
tự thủ tục theo quy định pháp luật. Văn phòng kính đề nghị Tòa án nhân dân huyện
Đức Hòa, tỉnh Long An xem xét, giải quyết vụ án trên theo đúng quy định ca pháp
luật. Cũng bằng Văn bản này, Văn phòng C đề nghị quý Tòa khi giải quyết vụ án
8
cho chúng tôi được vắng mặt trong tất cả các buổi làm việc, hòa giải, xét xử của Tòa
án.
Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan Sở Tài nguyên và Môi trường tỉnh L
(nay Sở Nông Nghiệp Môi Trường tỉnh L), tại văn bản số 342/STNMT-
VPĐKĐĐ ngày 14/01/2025, có ý kiến:
Ngày 01/7/1997, ông (bà) Nguyễn Đ1 được UBND huyện Đ cấp Giấy
chứng nhận quyền sử dụng đất số phát hành K 590632 (số vào sổ: 1114 QSDĐ/0707-
LA), thửa số 142, diện tích 3.173m
2
, loại đất: BHK; thửa số 160, diện tích 346m
2
,
loại đất: NTD; thửa số 161, diện tích 438m
2
, loại đất: LUC; thửa số 162, diện tích
1933m
2
, loại đất: LUC; thửa số 163, diện tích 592m
2
, loại đất: ONT; thửa số 164,
diện tích 1.586m
2
, loại đất: LUC; thửa số 202, diện tích 953m
2
, loại đất: LUC; thửa
số 203, diện tích 1.478m
2
, loại đất: LUC; thửa số 209, diện tích 340m
2
, loại đất:
LUC; thửa số 210, diện tích 1.650m
2
, loại đất: LUC cùng tờ bản đồ số 19, đất tọa
lạc tại ấp C, xã T, huyện Đ, tỉnh Long An. Ngày 06/11/2008, ông Nguyễn Đ1 lập
Hợp đồng tặng cho quyền sử dụng đất thửa số 142, 160, 161, 162, 163, 164, 203 nêu
trên cho ông Nguyễn Quang T1 được UBND T chứng thực số 700, quyển số
04/2008TP/CC-SCT/HĐGD được UBND huyện Đ cấp Giấy chứng nhận quyền
sử dụng đất số phát hành AO 105044 (số vào sổ: H03990), thửa số 142; số phát hành
AO 105043 (số vào sổ: H 03989), thửa số 160; số phát hành AO 105042 (số vào sổ:
H 03988), thửa số 163; số phát hành AO 105041 (số vào sổ: H 03987), 4 thửa:
thửa số 164, 162, 161, 203 cùng cấp ngày 18/12/2008 cho ông Nguyễn Quang T1
(Đính kèm hồ sơ).
Ngày 17/5/2021, ông Nguyễn Quang T1 lập Hợp đồng chuyển nhượng quyền
sử dụng đất thửa số 164, 162, 161, 203, 163, 142 nêu trên cho bà Dương Thị T được
Văn phòng C, quyển số 05/2021TP/CC-SCC/HĐGD được Sở T cấp Giấy
chứng nhận quyền sử dụng đất, quyền sở hữu nhà ở và tài sản khác gắn liền với đất
số phát hành DC 449943 (số vào sổ: CS 06933), thửa số 164; sphát hành DC
449944 (số vào sổ: CS 06935), thửa số 162; số phát hành DC 449945 (số vào sổ: CS
06932), thửa số 161; số phát hành DC 449946 (số vào sổ: CS 06934), thửa số 203;
số phát hành DC 449947 (số vào sổ: CS 06937), thửa số 163; sphát hành DC
449948 (số vào số: CS 06936), thửa số 142 cùng cấp ngày 09/6/2021 cho bà Dương
Thị T (Đính kèm hồ sơ).
Việc Sở Tài nguyên và Mội trường cấp Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất
số phát hành DC 449948 (số vào sổ: CS 06936), thửa số 142; sphát hành DC
449947 (số vào sổ: CS 06937), thửa số 163; số phát hành DC 449943 (số vào sổ: CS
06933), thửa số 164; số phát hành DC 449944 (số vào sổ: CS 06935), thửa số 162;
số phát hành DC 449945 (số vào sổ: CS 06932), thửa số 161; sphát hành DC
449946 (số vào sổ: CS 06934), thửa số 203, cùng tờ bản đồ số 19, cùng cấp ngày
09/6/2021 cho Dương Thị T, đất tọa lạc tại Á, T, huyện Đ, tỉnh Long An là
đúng thẩm quyền, đúng trình tự thủ tục theo quy định.
Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan Ủy ban nhân dân T, huyện Đ, tỉnh
Long An tại Công văn số 173/UBND ngày 14/02/2025, có ý kiến:
9
Ngày 06/11/2008 UBND T, huyện Đ, tỉnh Long An chứng thực hợp
đồng tặng cho QSDĐ giữa ông Nguyễn Đ1 và ông Nguyễn Quang T1 số 700,
quyển số 01/2008 TP/CC-SCT/HĐGD. Đối với việc này UBND đã được thực
hiện chứng thực đúng trình tự thủ tục theo quy định pháp luật (có bản sao đính kèm).
UBND xã T, huyện Đ, tỉnh Long An kính đề nghị tòa án nhân dân huyện Đức Hòa,
tỉnh Long An xem xét, giải quyết vụ án trên theo đúng qui định của pháp luật. Cũng
bằng văn bản này UBND xã T đề nghị quý Tòa khi giải quyết vụ án cho được vắng
mặt trong tất cá các buổi làm việc, hòa giải xét xử của Tòa.
Tại bản án dân sự thẩm số 38/2025/DS-ST ngày 07 tháng 3 năm 2025 của
Tòa án nhân dân huyện Đức Hòa, tỉnh Long An, nay là Tòa án nhân dân khu vực 3
Tây Ninh, đã xử:
1. Chấp nhận mt phần yêu cầu khởi kiện của bà Trần Thị M về việc “Tranh
chấp hợp đồng tặng cho quyền sử dụng đất, hợp đồng chuyển nhượng quyền sdụng
đất, công nhận quyền sử dụng đất” với ông Nguyễn Quang T1, bà Dương Thị T, cụ
thể:
1.1. T3 hiệu một phần Hợp đồng tặng cho quyền sử dụng đất số 700,
quyển số 01/2008 TP/CC-SCT/HĐGD ngày 06/11/2008 tại UBND T, huyện Đ
giữa ông Nguyễn Đ1 và ông Nguyễn Quang T1 đối với thửa đất 164 diện tích
1.586m
2
, TBĐ số 19, tọa lạc ấp C, xã T, huyện Đ, tỉnh Long An.
1.2. T3 hiệu một phần Hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất số
6782, quyển số 05/2021 TP/CC-SCC/HĐGD ngày 17/5/2021 tại Văn phòng C giữa
ông Nguyễn Quang T1 với Dương Thị T đối với thửa đất số 164, diện tích
1.586m
2
, TBĐ số 19, tọa lạc ấp C, xã T, huyện Đ, tỉnh Long An.
1.3. Về hậu quả hợp đồng hiệu: Trần Thị M quyền khởi kiện yêu
cầu ông Nguyễn Quang T1 Dương Thị T liên đới hoàn trả giá trị quyền sử
dụng đất đối với thửa đất số 164, diện tích 1.586m
2
, TBĐ số 19, tọa lạc ấp C, xã T,
huyện Đ, tỉnh Long An cho bà M bằng vụ án khác.
1.4. Không chấp nhận yêu cầu hiệu một phần Hợp đồng tặng cho QSD
đất giữa ông Nguyễn Đ1 với ông Nguyễn Quang T1 (tự H1) theo Hợp đồng số
700, quyển số 01/2008/TP/CC-SCT/HĐGD ngày 06/11/2008 được chủ tịch UBND
xã T đối với phần đất thuộc thửa 163 một phần thửa 142 có diện tích 1.345,5m
2
tại khu A1 theo Mảnh trích đo địa chính của Công ty TNHH Đ2, ngày 25/11/2024,
đất cùng tọa lạc tại ấp C, xã T, huyện Đ, tỉnh Long An.
1.5. Không chấp nhận yêu cầu hiệu Hợp đồng chuyển nhượng QSD đất
giữa ông Nguyễn Quang T1 với bà Dương Thị T theo Hợp đồng số 05/2021TP/CC-
SCT/HĐGD ngày 17/05/2021 tại Văn phòng C đối với các thửa đất sau: thửa 163
một phần thửa 142 diện tích 1345,5m
2
tại khu A1 theo Mảnh trích đo địa chính
của Công ty TNHH Đ2, ngày 25/11/2024, đất cùng tọa lạc tại ấp C, xã T, huyện Đ,
tỉnh Long An.
1.6. Không chấp nhận yêu cầu khởi kiện của bà Trần Thị M về việc tuyên vô
hiệu Hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất số 18070, quyển số
12/2022TP/CC-SCC/HĐGD ngày 16/12/2022 tại Văn phòng C giữa bà Dương Thị
10
T với ông Thanh H đối với thửa đất số 142, 163, tổng diện tích 3.765m
2
, TBĐ
số 19, tọa lạc ấp C, xã T, huyện Đ, tỉnh Long An.
1.7. Không chấp nhận yêu cầu khởi kiện của bà Trần Thị M về việc tuyên vô
hiệu Hợp đồng ủy quyền số, quyển số ngày 16/12/2022 tại Văn phòng C giữa
Dương Thị T với ông Thanh H được công chứng đối với thửa đất số 164, diện
tích 1.586m
2
, TBĐ số 19, tọa lạc ấp C, xã T, huyện Đ, tỉnh Long An.
1.8. Không chấp nhận yêu cầu khởi kiện của M về việc yêu cầu công phần
đất thuộc thửa 163 một phần thửa 142 diện tích 1.345,5m
2
tại khu A1 theo
Mảnh trích đo địa chính của Công ty TNHH Đ2, ngày 25/11/2024 thuộc sử dụng của
bà M.
1.9. Không chấp nhận yêu cầu khởi kiện của Trần Thị M về việc Hủy giấy
chứng nhận QSD đất do UBND huyện Đ cấp cho ông Nguyễn Quang T1 đối với
phần đất thuộc thửa 163 một phần thửa 142 diện tích 1345,5m
2
tại khu A1 theo
Mảnh trích đo địa chính của Công ty TNHH Đ2, ngày 25/11/2024 thửa 164 tờ
bản đồ số 19, với diện tích 1.586m
2
loại đất: LUA, đất cùng tọa lạc tại ấp C, T,
huyện Đ, tỉnh Long An và giấy chứng nhận QSD đất do Sở TNMT tỉnh L cấp cho
Dương Thị T đối với phần đất thuộc thửa 163 và một phần thửa 142 có diện tích
1.345,5m
2
tại khu A1 theo Mảnh trích đo địa chính của Công ty TNHH Đ2, ngày
25/11/2024 và thửa 164, tbản đồ số 19, diện tích 1.586m
2
, đất cùng tọa lạc tại ấp
C, xã T, huyện Đ, tỉnh Long An.
2. Chấp nhận yêu cầu độc lập của ông Lê Thanh H, cụ thể:
2.1. Công nhận Hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất số 18070,
quyển số 12/2022TP/CC-SCC/HĐGD ngày 16/12/2022 tại Văn phòng C giữa
Dương Thị T với ông Thanh H đối với thửa đất số 142, 163, tổng diện tích
3.765m
2
, Tsố 19, tọa lạc ấp C, T, huyện Đ, tỉnh Long An hiệu lực pháp
luật.
2.2. Công nhận hiệu lực của Hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất
(thể hiện qua hợp đồng ủy quyền ngày 16/12/2022 Biên bản bàn giao đất ngày
15/12/2022) giữa bà Dương Thị T với ông Lê Thành H2 đối với thửa 164, diện tích
1.586m
2
, tờ bản đồ số 19, tọa lạc ấp C, xã T, huyện Đ, tỉnh Long An .
2.3. Ông Thanh H được quyền liên hệ quan nhà nước thẩm quyền
để đăng ký, khai xin cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, quyền sở hữu
nhà tài sản khác gắn liền với đất hoặc được cập nhật biến động sang tên Giấy
chứng nhận đối với thửa đất số 142, 163, 164, tổng diện tích 5.351m
2
, TBĐ số 19,
tọa lạc ấp C, xã T, huyện Đ, tỉnh Long An tài sản gắn liền với đất theo quy định
pháp luật.
Vị trí, diện tích tứ cận được thể hiện theo Mảnh trích đo bản đồ địa chính số
144-2024 do Công ty TNHH Đ2 lập ngày 10/4/2024 được Chi nhánh Văn phòng
đăng ký đất đai tại huyện Đ, tỉnh Long An phê duyệt ngày 23/4/2024.
quan cấp giấy chứng nhận quyền sdụng đất căn cứ vào bản án, quyết
định của Tòa án để giải quyết điều chỉnh biến động hoặc cấp lại giấy chứng nhận
quyền sử dụng đất phù hợp với kết quả giải quyết của Tòa án.
11
2.4. Buộc Trần Thị M những người sinh sống trên thửa đất số 142, 163,
164, tổng diện tích 5.351m
2
, TBĐ số 19, tọa lạc ấp C, xã T, huyện Đ, tỉnh Long An
nghĩa vụ giao trả lại cho ông Thanh H thửa đất số 142, 163, 164, tổng diện
tích 5.351m
2
, TBĐ số 19, tọa lạc ấp C, xã T, huyện Đ, tỉnh Long An và tài sản gắn
liền với đất.
3. Về chi phí tố tụng: Tổng số tiền chi phí ttụng 77.000.000đ (bà M đã
nộp chi xong), buộc ông Nguyễn Quang T1 Dương Thị T liên đới trả lại
cho bà Trần Thị M số tiền 42.000.000đồng.
4. Về án phí dân sthẩm: Trần Thị M được miễn án phí theo quy định.
Ông Lê Thanh H không phải chịu án phí, hoàn trả cho ông H stiền tạm ứng
án phí đã nộp là 1.200.000 đồng theo các Biên lai thu tiền tạm ứng án phí số 0000399,
ngày 09/5/2024; 0005719 ngày 25/9/2024; 0005216 ngày 23/7/2024; 0004008 ngày
09/12/2024 ông H đã nộp tại Chi cục Thi hành án dân sự huyện Đức Hòa, tỉnh
Long An.
Buộc ông Nguyễn Quang T1 phải nộp 300.000đồng án phí dân sự sơ thẩm.
Dương Thị T phải nộp 600.000 đồng án phí dân sự sơ thẩm.
Buộc ông Nguyễn Quang T1 và bà Dương Thị T phải liên đới nộp 300.000
đồng án phí dân sự sơ thẩm.
Ngoài ra, án sơ thẩm còn tuyên về quyền kháng cáo, hướng dẫn thi hành án.
Ngày 10/3/2025, nguyên đơn bà Trần Thị M kháng cáo bản án sơ thẩm yêu
cầu Tòa án cấp phúc thẩm giải quyết hủy bản án sơ thẩm.
Ngày 10/3/2025, người quyền lợi, nghĩa vụ liên quan ông Thanh H
kháng cáo bản án sơ thẩm yêu cầu Tòa án cấp phúc giải quyết không chấp nhận toàn
bộ yêu cầu khởi kiện của Bà M.
Tại phiên tòa phúc thẩm, nguyên đơn bà Trần Thị M vẫn giữ nguyên yêu cầu
khởi kiện yêu cầu kháng cáo, người quyền lợi, nghĩa vụ liên quan ông
Thanh H vẫn giữ nguyên yêu cầu kháng cáo, các đương sự không thỏa thuận được
với nhau về việc giải quyết vụ án, tại phần tranh luận:
Người bảo vệ quyền lợi ích hợp pháp của M, luật Hoàng Cao S
trình y: Tòa án cấp sơ thẩm chưa thu thập các tài liệu liên quan đến việc khai thuế
của ông Nguyễn Quang T1, bà Dương Thị Tông Lê Thành H2 để làm rõ hành vi
trốn thuế, bởitheo hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất giữa Dương Thị
T Thành H2 thể hiện giá chuyển nhượng 500.000.000 đồng nhưng quá trình
tố tụng các bên khai giá thực tế chuyển nhượng là 14.900.000.000 đồng nên hành vi
này đã cấu thành tội trốn thuế. Ngoài ra, ông Nguyễn Quang T1, Dương Thị T
thừa nhận biên bản và đứng tên giùm Nguyễn Thanh L2 các thửa đất số 161, 162
thửa đất 164 nhưng sau khi đứng tên Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất rồi
chiếm đoạt nên hành vi này đã cấu thành tội lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản.
Riêng hợp đồng ủy quyền ngày 16/12/2022 giữa Dương Thị Tông Lê Thành
H2 đối với thửa đất số 164 giả tạo nhằm che giấu một giao dịch khác đó mua
bán đất bất hợp pháp nên bị vô hiệu theo Điều 124 Bộ luật Dân sự. Việc công nhận
hợp đồng ủy quyền hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất không đảm
12
bảo quy định tại Điều 167 Luật Đất đai. Bên cạnh đó, theo trình bày của M thì từ
trước đến giờ vẫn sinh sống trên phần đất tranh chấp, chỉ đôi khi M đưa con
trai Nguyễn Thanh L2 đi chữa trị mới qua nhà con gái ở nên việc các bên trình bày
đã giao đất là không có cơ sở. Từ những phân tích, đề nghị Hội đồng xét xử hủy án
sơ thẩm để thu thập đầy đủ tài liệu chứng cứ và chuyển hồ sơ qua cơ quan cảnh sát
điều tra xem xét khởi tố tội lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản và tội trốn thuế.
Người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của bà M, luật sư Ngô Văn Đ trình
bày: Xuất phát từ việc tặng cho đất giao cho ông T1 đứng tên toàn bộ các thửa
đất. Biên bản họp gia đình năm 2014 thể hiệnT biết việc ông T1 đứng tên giùm
ông L2. Việc ông T1bà T ly hôn giả để ông T1 chuyển nhượng đất cho bà T, sau
đó bà T chuyển nhượng lại cho ông H2 làm ảnh hưởng đến quyền lợi của người thứ
ba. Mặt khác, bản án sơ thẩm không áp dụng luật chuyên ngành đối với thửa đất số
164 nên chưa xem xét hết các chứng cứ. Thống nhất, đnghị Hội đồng xét xhủy
án sơ thẩm để thu thập đầy đủ tài liệu chứng cứ và chuyển hồ qua quan cảnh
sát điều tra xem xét khởi tố tội lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản tội trốn
thuế.
Người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của bà M, luật sư Nguyễn Quang K
trình bày: Theo biên bản lấy lời khai ngày 15/5/2023 của ông Nguyễn Quang T1,
Dương Thị T thừa nhận việc hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất cho
ông K1, ông H2 là chỉ để làm tin cho việc vay tiền chkhông hề ra sổ đứng tên trên
giấy đất. Do đó, thống nhất đề nghị Hội đồng xét xử hủy án sơ thẩm để thu thập đầy
đủ tài liệu chứng cứ và chuyển hồ sơ qua cơ quan cảnh sát điều tra xem xét khởi tố
tội lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản, và tội trốn thuế.
Nguyên đơn Trần Thị M người quyền lợi, nghĩa vụ liên quan
Nguyễn Thị Thanh T2 trình bày: thống nhất với lời trình bày của người bảo vệ quyền
và lợi ích hợp pháp của Bà M, không có ý kiến bổ sung.
Người đại diện theo ủy quyền của người quyền lợi, nghĩa vụ liên quan
ông Thành H2, ông Trần Như V trình bày: trước khi thỏa thuận nhận chuyển
nhượng đất từ Dương Thị T thì ông H2 đến xem đất thấy đất hợp pháp thể hiện
việc T thế chấp vay vốn ngân hàng. Ngoài ra, khi ra Văn phòng công chứng thì
Phòng công chứng xác định các thửa đất đủ điều kiện chuyển nhượng nên ông H2
mới nhận chuyển nhượng. Riêng đối với yêu cầu kháng cáo của ông H2, tông yêu
cầu được rút lại vì theo bản án sơ thẩm thì quyền lợi của ông H2 đã đảm bảo.
- Đại diện Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Tây Ninh phát biểu quan điểm giải
quyết vụ án:
Về tố tụng: Kháng cáo của nguyên đơn bà Trần Thị M, người có quyền lợi,
nghĩa vụ liên quan ông Thanh H thực hiện đúng quy định của pháp luật nên được
xem xét theo trình tự phúc thẩm. Thẩm phán, Hội đồng xét xử, Thư ký phiên tòa đã
tuân thủ đúng những quy định của Bộ luật tố tụng dân sự, những người tham gia tố
tụng đã chấp hành đúng pháp luật.
Về nội dung vụ án: Về việc phía nguyên đơn cho rằng ông T1 hành vi lạm
dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản T, ông H có hành vi trốn thuế: căn cứ quy
định tại Điều 175 BLHS 2015 (sửa đổi 2017) thì hành vi của ông T1 chưa đủ yếu tố
13
cấu thành tội lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản; về việc nguyên đơn cho rằng
ông H, T hành vi trốn thuế thì đương sự chưa cung cấp tài liệu chứng cứ chứng
minh hành vi trốn thuế của T ông H nên không đủ căn cứ cấu thành tội trốn
thuế để xem xét.
Tại phiên tòa ngày 15/9/2025, ông Thanh H rút đơn kháng cáo, việc rút
đơn kháng cáo của ông H tnguyện nên đề nghị Hội đồng xét xử căn cứ Điều 289
BLTTDS, đình chỉ xét xử yêu cầu kháng cáo của ông H.
Qua xem xét hồ vụ án yêu cầu kháng cáo của bà Trần Thị M, nhận
thấy:
Ngày 01/7/1997, ông Nguyễn Bá Đ1 được UBND huyện Đ cấp Giấy chứng
nhận quyền sử dụng đất, trong đó có các thửa đất số 142, 163, 164, TBĐ số 19, tọa
lạc xã T, huyện Đ, tỉnh Long An.
Ngày 06/11/2008, ông Đ1 tặng cho ông Nguyễn Quang T1 các thửa đất số
142, 160, 161, 162, 163, 164 theo Hợp đồng tặng cho quyền sử dụng đất ngày
06/11/2008 tại UBND xã T, huyện Đ.
Ngày 18/12/2008, ông T1 được Ủy ban nhân dân huyện Đ cấp GCNQSD
đất.
Bà M xác định, năm 2008 gia đình bà gồm chồng bà là ông Nguyễn Bá Đ1,
bà M và các con là Nguyễn Quang T1 (H1), Nguyễn Thị Thanh T2 thống nhất chia
đất cho ông T1 diện tích đất 5.243m² cho ông Nguyễn Quang L diện tích đất
3.957m². Nhưng do ông L bị bệnh nên giao cho ông T1 đứng tên giấy tờ đất, quản
lý, sử dụng để chăm sóc, nuôi dưỡng ông L vì ông T1 ở cùng gia đình vợ chồng bà.
M cung cấp chứng cứ Biên bản họp gia đình ngày 13/01/2014 nội
dung: “Trước đây năm 2008 cha mẹ có cho T1 (H1) 5.243m² đất thổ và vườn tạp
lúa và giao đứng tên bảo hộ cho em trai tên Nguyễn Quang L (gọi T4) số đất lúa là
3.957m² tất cả có sổ đỏ (QSDĐ) tháng 12/2008 do huyện Đ cấp. Nhưng nay xin ăn
riêng thì trả lại số đất giao trước đây 3.957m² để cha mẹ điều kiện chăm sóc
đứa con bại liệt, kỳ hạn chót 31/3/14 phải giao trả sổ đỏ (QSDĐ) nếu đến 31/3/14
chưa giao trả sẽ nhờ chính quyền can thiệp”. Tại phần ý kiến ông T1 có ý kiến: “về
phần đất của L (T5), H1 trách nhiệm giao trả quyền sử dụng đất để má đứng tên,
thời gian giao trả đất 30/12/2014”. Bà T vợ ông T1 có ý kiến “đồng ý như ý kiến
của T1 (H1)”.
Như vậy, có căn cứ xác định ông T1 đứng tên giùm cho ông L đối với diện
tích 3.957m², bà M xác định phần diện tích này bao gồm các thửa 161, 162, 164 và
phần diện tích 5.243m
2
tặng cho ông T1 là các thửa 203, 163, 142.
Trong ván này M tranh chấp các thửa đất 163, 142, 164. Đối với hai
thửa đất 163, 142 M cho rằng chỉ cho ông T1 một phần của hai thửa đất này
lúc đó ông T1 sống cùng vợ chồng nên vợ chồng giao cho ông T1 đứng dùm
luôn. Tuy nhiên, tại Biên bản họp gia đình ngày 13/01/2014 M xác nhận năm
2008 cha mẹ có cho T1 (H1) 5.243m² đất thổ và vườn tạp – lúa”, và có đòi lại phần
đất lúa đã cho ông T1 đứng tên giùm, hoàn toàn không yêu cầu ông T1 phải trả lại
phần đất hay nnào liên quan đến 5.243m² đất thổ vườn tạp lúa đã cho ông
T1 trước đó, thửa 142 là thửa đất loại đất trồng cây lâu năm, thửa đất 163 loại đất
14
thổ, ông T1 cũng xác định năm 2008 năm ba tôi là ông Nguyễn Đ1 đã tặng cho
tôi tất cả các thửa đất, trong đó có các thửa 161, 162, 164 là tôi đứng tên dùm ông
L. Từ những căn cứ trên có sở xác địnhM và ông Đ1 đã thống nhất tặng cho
ông T1 các thửa đất 142, 163 từ năm 2008. Đến thời điểm 2014, mặc dù gia đình có
mâu thuẫn, ông T1 T ăn riêng nhưng ông Đ1 và M vẫn không yêu cầu
ông T1 phải trả phần đất thổ vườn tạp, chỉ yêu cầu trả lại phần đất lúa của ông T1
đứng tên giùm. Ngày 17/5/2021, ông T1 chuyển nhượng 03 thửa đất số 142, 163,
164 cho T. Ngày 16/12/2022, T chuyển nhượng cả 03 thửa 142, 163, 164
tài sản trên đất với giá chuyển nhượng 14.900.000.000 đồng cho ông Thanh
H, ông H đã trả đủ tiền cho bà T, bà T cũng đã bàn giao đất, tài sản trên đất và bản
chính giấy tờ đất cho ông H theo Biên bản bàn giao đất ngày 15/12/2022.
Theo Mảnh trích đo địa chính của Công ty TNHH Đ2 ngày 25/11/2024 thì
tại khu A1 căn nhà và các công trình phụ khác, bà M cho rằng căn nhà do bà và
ông Đ1 y dựng, sau đó có sửa chữa và hiện trạng như hiện nay, bà M xác định về
phần giá trị căn nhà các tài sản tại Khu A1 không tranh chấp với ông T1
trong vụ án này, nếu tranh chấp sẽ được giải quyết bằng vụ án khác nên không
xem xét.
M cho rằng sinh sống tại căn nhà trên đất từ xưa đến nay không biết
việc ông T1, T đã chuyển nhượng toàn bộ nhà đất cho ông H. Tuy nhiên, bà M,
T2 thừa nhận về việc M và ông L không thường xuyên sinh sống trên thửa đất
số 142, 163, 164 mà có thời gian dọn ra thị trấn H sinh sống và chữa bệnh cùng con
gái là bà T2, lời trình bày này phù hợp với xác nhận của Cộng tác viên dân số quản
địa bàn ấp C, T, huyện Đ tại biên bản lấy lời khai ngày 08/11/2024, tại thời
điểm lấy lời khai thì phần nhà đất trên không ai sinh sống. Biên bản xem xét thẩm
định tại chỗ thể hiện trạng nhà cùng các tài sản trên đất có dấu hiệu xuống cấp, mái
tôn đổ xuống, thể hiện không người thường xuyên sinh sống. Ông H cũng xác
định trước khi nhận chuyển nhượng ông đến xem đất không gặp M trong
nhà, đồng thời có việc bà T đã giao chìa khóa nhà cho ông, sau đó thì phía bà T2
quay lại và thay ổ khóa.
Từ những căn cứ trên, Tòa thẩm không chấp nhận các yêu cầu của bà M
về việc vô hiệu hợp đồng tặng cho quyền sử dụng đất giữa ông Đ1 với ông T1, hủy
giấy chứng nhận QSD đất do UBND huyện Đ cấp cho ông Nguyễn Quang T1,
hiệu một phần Hợp đồng chuyển nhượng QSD đất giữa ông Nguyễn Quang T1 với
Dương Thị T, hủy giấy chứng nhận QSD đất do Sở TNMT tỉnh L cấp cho
Dương Thị T, vô hiệu một phần Hợp đồng chuyển nhượng QSD đất giữa bà Dương
Thị T với ông Thanh H và yêu cầu công nhận đối với phần đất thuộc thửa 163 và
một phần thửa 142 có diện tích 1.345,5m
2
tại khu A1 thuộc sở hữu hợp pháp của bà
Trần Thị M, bà M được quyền trực tiếp quản lý và sử dụng các thửa trên là sở,
không có căn cứ chấp nhận kháng cáo của bà M.
Đối với thửa đất 164:M xác định do ông T1 đứng tên giùm ông L là thửa
164, ông T1 cũng thừa nhận có việc đứng tên dùm này nên căn cứ chấp nhận yêu
cầu khởi kiện của M về việc hiệu một phần hợp đồng tặng cho của ông Nguyễn
Bá Đ1 cho ông Nguyễn Quang T1 đối với thửa 164.
15
Tại biên bản họp gia đình ngày 13/01/2014 về việc giao trả các thửa đất cho
bà M, bà T biết việc ông T1 đứng tên giùm ông L phần đất có diện tích 3.957m²
đất lúa ý kiến “đồng ý như ý kiến của T1 (H1)” nhưng đến ngày 17/05/2021
khi ông T1 đã chuyển nhượng toàn bộ các thửa đất ông T1 đứng tên trong đó thửa
164 của ông L thửa đất lúa cho T đứng tên nên Tòa thẩm tuyên Hợp đồng
chuyển nhượng quyền sử dụng đất giữa ông T1 cho bà T đối với thửa đất 164 bị vô
hiệu theo quy định tại Điều 124 B luật Dân sự là căn cứ.
Sau đó, T chuyển nhượng cả 03 thửa 142, 163, 164 và tài sản trên đất với
giá chuyển nhượng 14.900.000.000 đồng cho ông Lê Thanh H, ông H đã trả đủ
tiền cho T, bà T cũng đã bàn giao đất, tài sản trên đất bản chính giấy tờ đất cho
ông H theo Biên bản bàn giao đất ngày 15/12/2022. Ông H đã cùng với bà T đến
Ngân hàng TMCP Q1 trả tiền để giải chấp ngày 16/12/2022 hai bên đã công
chứng hợp đồng y quyền cùng ngày tại Văn phòng C, các bản chính GCNQSD đất
hiện ông H đang giữ.
Ông H cho rằng ông không HĐCN QSD đất đối với thửa 164 như hai
thửa đất trên mà ký hợp đồng ủy quyền với bà T là do ông không đủ điều kiện nhận
chuyển nhượng đất lúa. Ông H và bà T đều thừa nhận tuy hình thức là hợp đồng ủy
quyền nhưng đây là hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất thể hiện qua Biên
bản bàn giao nhà đất ngày 15/12/2022 T thống nhất đã chuyển nhượng bàn
giao các thửa đất và tài sản trên đất cho ông H, ông H cũng đã có thời gian quản lý
các thửa đất nêu trên.
Hơn nữa, tại thời điểm ông H nhận chuyển nhượng QSDĐ các thửa 142, 163,
164 từ T thì không ai tranh chấp, M cũng xác nhận việc ông T1 đứng tên
giùm ông L thửa đất 164, tờ bản đồ số 19 và việc gia đình có yêu cầu ông T1 trả lại
đất nhiều lần nhưng chỉ gia đình biết, biết việc ông T1 T thế chấp các
thửa đất trong Ngân hàng nhiều năm nay, có thời điểm có nhiều người đến xem đất
nhưng bà tin tưởng ông T1 nên không tranh chấp với ông T1, từ năm 2014 cho đến
thời điểm bà M khởi kiện thì bà không có yêu cầu cơ quan chức năng can thiệp giải
quyết. Như vậy, việc tranh chấp giữa gia đình M với ông T1 đối với thửa 164
theo biên bản họp gia đình năm 2014 thì ông H không thể biết được. Hiện trạng các
thửa 164, 142, 163 vtliền kề nhau và không có ranh giới, thửa 164 thửa tiếp
giáp đường đi công cộng lối đi vào hai thửa 142, 163 nên việc ông H nhận
chuyển nhượng toàn bộ 03 thửa đất trên và các tài sản trên đất từ T chủ sử dụng
đất hợp pháp tại thời điểm đó là có cơ sở, hơn nữa ông H cũng đã giao tiền và được
bàn giao đất xong, bà M quay lại quản lý nhà.
Như vậy, có căn cứ để xác định, giao dịch chuyển nhượng giữa bà T và ông
H đối với các thửa đất 164 đảm bảo trình tự, thủ tục của pháp luật đất đai, ông H
được xác định người thứ ba ngay tình, giao dịch chuyển nhượng đáp ứng quy định
tại Điều 129, 133 Bộ luật Dân sự năm 2015 và ông H cũng đã đủ điều kiện để nhận
chuyển nhượng đất nông nghiệp nên Tòa thẩm chấp nhận yêu cầu độc lập của
ông H là có căn cứ, kháng cáo của bà M không có cơ sở chấp nhận.
Về hậu quả hợp đồng vô hiệu: M đã được Tòa án giải thích và xác định
không yêu cầu giải quyết hậu quả, do đó, nguyên đơn có quyền khởi kiện đối với bị
đơn bằng vụ án khác về bồi thường giá trị quyền sử dụng đất tại thửa 164.
16
Từ những phân tích trên, đề nghị Hội đồng xét xử đình chỉ xét xử phúc thẩm
đối với yêu cầu kháng cáo của ông Thanh H. Không chấp nhận yêu cầu kháng
cáo của Trần Thị M. Căn cứ căn cứ khoản 1 Điều 308 Bộ luật Tố tụng dân sự,
giữ y bản án sơ thẩm.
NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN:
[1] Về tố tụng: Kháng cáo của nguyên đơn Trần Thị M, người quyền
lợi, nghĩa vụ liên quan ông Lê Thanh H thực hiện đúng quy định của pháp luật nên
được xem xét theo trình tự phúc thẩm.
Những người quyền lợi, nghĩa vụ liên quan trong vụ án đơn xin vắng
tại phiên tòa hoặc đã được triệu tập hợp lệ đến lần thhai nhưng vắng mặt, căn cứ
Điều 296 Bộ luật Tố tụng dân sự Tòa án tiến hành xét xử vắng mặt các đương sự.
[2] Tại phiên tòa xét xvụ kiện, các bên đương sự thống nhất với kết quả đo
đạc theo Mảnh trích đo địa chính số 144-2024 do Công ty TNHH Đ2 đo vẽ, được
Chi nhánh Văn phòng đăng đất đai tại huyện Đ, tỉnh Long An duyệt cùng ngày
23/4/2024 và thống nhất với kết quả thẩm định giá theo Chứng thư thẩm định giá số
020/2024/329-HD/TĐG LA-BĐS ngày 23/7/2024 của Công ty Cổ phần T7. Các bên
đương sự không yêu cầu đo đạc và thẩm định giá lại nên Tòa án căn cứ theo Mảnh
trích đo địa chính và Chứng thư thẩm định giá nêu trên để làm căn cứ giải quyết vụ
án.
[3] Xét thấy, tại phiên tòa phúc thẩm, đại diện theo ủy quyền của người
quyền lợi, nghĩa vụ liên quan ông Lê Thanh H, là ông Trần Như V có ý kiến rút lại
toàn bộ kháng cáo của ông Thanh H. Căn cứ Điều 289 Bộ luật Tố tụng dân s
Hội đồng xét xử quyết định đình chỉ xét xử phần kháng cáo của người có quyền lợi,
nghĩa vụ liên quan ông Lê Thanh H.
[4] Xét kháng cáo của nguyên đơn bà Trần Thị M:
[4.1] Xét, phần đất v trí A1 diện ch 2.629,3m
2
vị trí A2 diện tích
1.345,5m
2
thuộc thửa 142, phần đất vị trí B diện tích 592m
2
thuộc thửa 163 và phần
đất vị trí C diện tích 1.568m
2
thuộc thửa 164, tất cả cùng thuộc tờ bản đồ số 19, đất
cùng tọa lạc tại ấp C, xã T, huyện Đ, tỉnh Long An cũ. Ông Nguyễn Bá Đ1 được Ủy
ban nhân dân huyện Đ cấp Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất ngày 01/7/1997.
Ngày 06/1/2008, ông Đ1 hợp đồng tặng cho ông Nguyễn Quang T1 các
thửa đất số 142 diện tích 3.173m
2
loại đất lúa, thửa đất số 160 diện tích 346m
2
loại
đất NĐ, thửa đất số 161 diện tích 438m
2
loại đất LM, thửa đất số 162 diện tích
1.933m
2
loại đất LM, thửa đất số 163 diện tích 592m
2
loại đất T, thửa đất số 164
diện tích 1.586m
2
loại đất LM và thửa đất số 203 diện tích 1.478m
2
loại đất LM, tất
cả cùng thuộc tờ bản đsố 19, đất cùng tọa lạc tại ấp C, xã T, huyện Đ, tỉnh Long
An cũ. Ngày 18/12/2008, ông T1 được Ủy ban nhân dân huyện Đ, tỉnh Long An cấp
giấy chứng nhận quyền sử dụng đất.
Ngày 17/5/2021, ông T1 hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất cho
Dương Thị T đối với các thửa đất số 142 diện tích 3.173m
2
loại đất lúa, thửa đất
số 161 diện tích 438m
2
loại đất LM, thửa đất số 162 diện tích 1.933m
2
loại đất LM,
thửa đất số 163 diện tích 592m
2
loại đất T, thửa đất số 164 diện tích 1.586m
2
loại đất
17
LM và thửa đất số 203 diện tích 1.478m
2
loại đất LM, tất cả cùng thuộc tbản đồ s
19, đất cùng tọa lạc tại ấp C, T, huyện Đ, tỉnh Long An cũ. Ngày 09/6/2021,
T được Ủy ban nhân dân huyện Đ, tỉnh Long An cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng
đất.
Ngày 28/12/2022, bà T ký hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất cho
ông Văn K1 thửa đất số 161 diện tích 438m
2
loại đất LM và thửa đất số 203 diện
tích 1.478m
2
loại đất LM, tất cả cùng thuộc tờ bản đồ số 19, đất cùng tọa lạc tại ấp
C, T, huyện Đ, tỉnh Long An cũ. Ông K1 được chỉnh sang tên ngày 08/5/2023.
Ngày 16/12/2022, bà T ký hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất cho
ông Lê Thanh H đối với các thửa đất số 142 diện tích 3.173m
2
loại đất lúa, thửa đất
số 163 diện tích 592m
2
loại đất T và hợp đồng ủy quyền quyền sử dụng đất đối với
thửa đất số 164 diện tích 1.586m
2
loại đất LM, tất cả cùng thuộc tờ bản đồ số 19, đất
cùng tọa lạc tại ấp C, xã T, huyện Đ, tỉnh Long An cũ.
[4.2] Xét, Biên bản họp gia đình đề ngày 13/01/2014 thể hiện nội dung:
Trước đây năm 2008 cha mẹ có cho T1 (H1) 5.243m
2
đất thổ và vườn tạp – lúa và
giao đứng tên bảo hộ cho em trai tên Nguyễn Quang L (gọi T4) số đất lúa 3.957m
2
tất cả có sổ đỏ (QSDĐ) tháng 12/2008 do huyện Đ cấp. Nhưng nay xin ăn riêng thì
trả lại số đất giao trước đây 3.957m
2
để cha mẹ điều kiện chăm sóc đứa con
bại liệt, kỳ hạn chót 31/3/14 phải giao trả sổ đỏ (QSDĐ) nếu đến 31/3/14 chưa giao
trả sẽ nhờ chính quyền can thiệp”. Tại phần ý kiến ông T1 ý kiến: “về phần đất
của L (T6), H1 trách nhiệm giao trả quyền sử dụng đất để má đứng tên, thời gian
giao trả đất 30/12/2014”. T vợ ông T1 ý kiến đồng ý như ý kiến của T1
(H1)”. Căn cứ Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất đề ngày 01/7/1997 của Ủy ban
nhân dân huyện Đ, tỉnh Long An cấp cho ông Nguyễn Đ1 thì sở xác
định ông Nguyễn Quang T1 được tặng cho đối với các thửa đất số 142 diện tích
3.173m
2
loại đất Vườn, thửa đất số 163 diện tích 592m
2
loại đất Thổ và thửa đất số
203 diện tích 1.478m
2
loại đất LM với tổng diện tích là 3.173m
2
+ 592m
2
+ 1.478m
2
= 5.243m
2
ông Nguyễn Thanh L2 được tặng cho các thửa đất số 161 diện tích
438m
2
loại đất lúa, thửa đất số 162 diện tích 1.933m
2
loại đất lúa và thửa đất số 164
diện tích 1.586m
2
loại đất lúa với tổng diện ch 438m
2
+ 1.933m
2
+ 1.586m
2
=
3.957m
2
,
tất cả cùng thuộc tờ bản đồ số 19, đất cùng tọa lạc tại ấp C, xã T, huyện Đ,
tỉnh Long An ông Đ1 giao cho ông Nguyễn Quang T1 đứng tên hộ phần đất
của ông Nguyễn Thanh L2.
[4.3] Xét, hợp đồng tặng cho quyền sử dụng đất đề ngày 06/11/2008 giữa
ông Nguyễn Đ1 với Nguyễn Quang T1 đối với phần đất vị tA1 diện tích
2.629,3m
2
thuộc thửa 142 và phần đất vtrí B diện tích 592m
2
thuộc thửa 163, tất cả
cùng thuộc tờ bản đồ số 19, đất cùng tọa lạc tại ấp C, xã T, huyện Đ, tỉnh Long An
cũ. Như phân tích tại mục [4.2], căn cứ xác định ông Đ1 đã tặng cho cho ông
Nguyễn Quang T1 các thửa đất số 142, thửa đất số 163 thửa đất 203 với tổng diện
tích đất 5.243m
2
, tất cả cùng thuộc tờ bản đồ số 19, đất cùng tọa lạc tại ấp C,
T, huyện Đ, tỉnh Long An cũ. Mặt khác, tại biên bản họp gia đình đề ngày 13/01/2014
Trần Thị M ý kiến Chấp nhận ý kiến của T1 (H1), đứa nào nuôi T6 thì
hưởng phần đất của cúng giỗ M1 T6không ý kiến về việc ông
Đ1 cho Nguyễn Quang T1 các thửa đất số 142, 163, 203 và thống nhất ký tên. Thấy
18
rằng, tại phiên tòa bà M trình bày vợ chồng chỉ cho ông T1 một phần các thửa đất
số 142 thửa đất số 163 nhưng không cung cấp được tài liệu chứng cứ, chứng minh
nên việc Tòa án cấp sơ thẩm giải quyết không chấp nhận yêu cầu của M về việc
hiệu hợp đồng tặng cho quyền sử dụng đất đề ngày 06/11/2008 giữa ông Nguyễn
Đ1 với Nguyễn Quang T1 đối với phần đất vị trí A1 diện tích 1.345,5m
2
thuộc
thửa 142 phần đất vị trí B diện tích 592m
2
thuộc thửa đất số 163, tất cả cùng thuộc
tờ bản đồ số 19, đất cùng tọa lạc tại ấp C, T, huyện Đ, tỉnh Long An (cũ)
căn cứ.
[4.4] Xét hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất đề ngày 17/5/2021
giữa ông Nguyễn Quang T1 với Dương Thị T hợp đồng chuyển nhượng quyền
sử dụng đất đề ngày 16/12/2022 giữa bà Dương Thị T với ông Thanh H đối với
phần đất vị trí A1 diện tích 1.345,5m
2
thuộc thửa 142 và phần đất vtrí B diện tích
592m
2
thuộc thửa đất số 163, tất cả cùng thuộc tờ bản đồ số 19, đất cùng tọa lạc tại
ấp C, T, huyện Đ, tỉnh Long An cũ. Như phân tích tại mục [4.3], do căn cứ xác
định ông Đ1 bà M đã tặng cho ông T1 các thửa đất: thửa đất số 142, thửa đất số
163 và thửa đất 203 với tổng diện tích đất là 5.243m
2
, tất cả cùng thuộc tbản đồ số
19, đất ng tọa lạc tại ấp C, xã T, huyện Đ, tỉnh Long An đến ngày
18/12/2008, ông T1 được cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất hợp pháp nên việc
Tòa án cấp thẩm giải quyết không chấp nhận yêu cầu của M về việc hiệu
hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất giữa ông Nguyễn Quang T1 với
Dương Thị T ngày 17/5/2021 hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất đề
ngày 16/12/2022 giữa Dương Thị T với ông Thanh H đối với phần đất vị trí
A1 diện tích 1.345,5m
2
thuộc thửa 142 phần đất vị trí B diện tích 592m
2
thuộc
thửa 163, tất cả cùng thuộc tờ bản đồ số 19, đất cùng tọa lạc tại ấp C, T, huyện
Đ, tỉnh Long An (cũ) là có căn cứ.
[4.5] Xét, hợp đồng tặng cho quyền sử dụng đất đề ngày 06/11/2008 giữa
ông Nguyễn Đ1 với Nguyễn Quang T1 đối với thửa đất số 164 diện tích 1.568m
2
,
thuộc tờ bản đồ số 19, đất tọa lạc tại ấp C, T, huyện Đ, tỉnh Long An cũ. Như
phân tích tại mục [4.2], n cứ xác định thửa đất số 164 diện tích 1.568m
2
, tờ bản
đồ số 19, đất tọa lạc tại ấp C, xã T, huyện Đ, tỉnh Long An cũ đã được ông Đ1 tặng
cho ông L2 nhờ ông T1 đứng tên giùm. Do đó, việc Tòa án cấp thẩm giải quyết
xác định hợp đồng tặng cho quyền sử dụng đất đề ngày 06/11/2008 giữa ông Nguyễn
Bá Đ1 với Nguyễn Quang T1 đối với thửa đất số 164 diện tích 1.568m
2
, tất cả cùng
thuộc tờ bản đồ số 19, đất cùng tọa lạc tại ấp C, xã T, huyện Đ, tỉnh Long An cũ bị
vô hiệu là có căn cứ.
Về hậu quả của việc giải quyết hợp đồng vô hiệu: Qtrình tố tụng tại phiên
tòa thẩm, đại diện theo pháp luật của ông Nguyễn Thanh L2 Trần Thị M
không yêu cầu Tòa án giải quyết hậu quả của hợp đồng hiệu. Do đó, Hội đồng
xét xử xét không xem xét giải quyết hậu quả của hợp đồng vô hiệu, trường hợp các
bên có tranh chấp sẽ khởi kiện bằng một vụ kiện khác.
[4.6] Xét, hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất ngày 17/5/2021 giữa
ông Nguyễn Quang T1 với Dương Thị T đối với thửa đất số 164 diện tích
1.568m
2
, tất cả cùng thuộc tờ bản đồ số 19, đất cùng tọa lạc tại ấp C, T, huyện Đ,
tỉnh Long An cũ. Nphân tích tại mục [4.5], căn cứ xác định thửa đất số 164
19
diện tích 1.568m
2
, tờ bản đs19, đất tọa lạc tại ấp C, xã T, huyện Đ, tỉnh Long An
đã được ông Đ1 tặng cho ông L2 nhờ ông T1 đứng tên giùm. Mặt khác, tại
Biên bản họp gia đình đề ngày 13/01/2014 T cũng ý kiến thống nhất ý kiến
của ông T1 (H1) thống nhất tên nên việc Tòa án cấp thẩm giải quyết xác
định hợp đồng chuyển chuyển nhượng quyền sử dụng đất ngày 17/5/2021 giữa ông
Nguyễn Quang T1 với Dương Thị T đối với thửa đất số 164 diện tích 1.568m
2
,
tất cả cùng thuộc tờ bản đồ số 19, đất cùng tọa lạc tại ấp C, xã T, huyện Đ, tỉnh Long
An bị vô hiệu là có căn cứ.
Về hậu quả của việc giải quyết hợp đồng vô hiệu: Qtrình tố tụng tại phiên
tòa sơ thẩm, ông Nguyễn Quang T1Dương Thị T không yêu cầu Tòa án giải
quyết hậu quả của hợp đồng hiệu. Do đó, Hội đồng xét xử xét không xem xét giải
quyết hậu quả của hợp đồng vô hiệu, trường hợp các bên có tranh chấp sẽ khởi kiện
bằng một vụ kiện khác.
[4.7] Xét, hợp đồng ủy quyền sdụng đất ngày 16/12/2022 giữa Dương
Thị T với ông Thanh H đối với thửa đất số 164 diện tích 1.568m
2
, tất cả cùng
thuộc tờ bản đồ số 19, đất cùng tọa lạc tại ấp C, T, huyện Đ, tỉnh Long An .
Thấy rằng, ngày 16/12/2022 bà T và ông H đã thỏa thuận chuyển nhượng quyền sử
dụng đất đối với hai thửa đất số 142 và thửa đất số 163. Hơn nữa, mặc dù hình thức
thể hiện hợp đồng ủy quyền nhưng trong quá trình tố tụng bà Dương Thị T ông
Thanh H cùng xác định là giao dịch liên quan đến thửa đất số 164 ngày
16/12/2022 là hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất, hai bên trình bày thống
nhất xác định đã thanh toán tiền và giao đất xong thể hiện tại Biên bản bàn giao nhà
đất ngày 15/12/2022. Khoản 2 Điều 129 Bluật Dân sự quy định Giao dịch dân sự
đã được xác lập bằng văn bản nhưng vi phạm quy định bắt buộc về công chứng,
chứng thực một bên hoặc các bên đã thực hiện ít nhất hai phần ba nghĩa vụ trong
giao dịch thì theo yêu cầu của một bên hoặc các bên, Tòa án ra quyết định công
nhận hiệu lực của giao dịch đó. Trong trường hợp này, các bên không phải thực
hiện việc công chứng, chứng thực”. Mặt khác, xét thấy ông H đã nhận chuyển
nhượng hợp pháp hai thửa đất 142, thửa đất 163 từ hai thửa đất này muốn đi ra
đường giao thông công cộng phải đi qua thửa đất số 164. Do đó, việc Tòa án cấp sơ
thẩm giải quyết công nhận hiệu lực hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất
giữa bà T với ông H đối với thửa 164, tờ bản đồ số 19, được thể hiện qua Hợp đồng
ủy quyền ngày 16/12/2022 Biên bản bàn giao đất ngày 15/12/202 căn cứ,
phù hợp với điều kiện thực tế sử dụng đất.
[4.8] Xét, đối với yêu cầu Hủy giấy chứng nhận quyền sử dụng đất do Ủy
ban nhân huyện Đ cấp cho ông Nguyễn Quang T1 Dương Thị T đối với thửa
đất số 163 diện tích 592m
2
; thửa đất số 164 diện tích 1586m
2
và thửa đất số 142 đối
với phần đất diện tích 1345,5m
2
tại khu A1 theo Mảnh trích đo địa chính của
Công ty TNHH Đ2, ngày 25/11/2024. Thấy rằng, theo Điều 195 của Luật Đất đai thì
trình tự, thủ tục cấp giấy chứng nhận hoặc xác nhận nội dung biến động do chuyển
quyền sử dụng đất do Chính phủ quy định. Điều 79 của Nghị định số 43/2014/NĐ-
CP15/5/2014 của Chính phủ quy định việc đăng biến động, cấp lại giấy chứng
nhận quyền sử dụng đất do chuyển quyền dựa trên sở hồ sơ hợp đồng, Văn phòng
đăng đất đai có trách nhiệm kiểm tra hsơ, nếu đủ điều kiện thực hiện các quyền
20
theo quy định txác nhận nội dung biến động vào Giấy chứng nhận đã cấp hoặc lập
hồ trình quan thẩm quyền cấp Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất. Như
vậy, theo quy định của Luật Đất đai và Nghị định số 43/2014/NĐ-CP15/5/2014 của
Chính phủ thì việc cấp lại Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất hoặc xác nhận nội
dung biến động trong trường hợp thực hiện hợp đồng (các trường hợp quy định tại
khoản 3 Điều 105 của Luật Đất đai) thủ tục hành chính trong giao dịch dân sự,
không mang tính chất của quyết định hành chính biệt; quan, tổ chức thẩm
quyền sẽ thực hiện việc đăng ký biến động, cấp lại giấy chứng nhận quyền sử dụng
đất trên sở kết quả giao dịch hiệu lực. Do vậy, trường hợp Tòa án tuyên hợp
đồng chuyển quyền sử dụng đất vô hiệu thì Văn phòng đăng đất đai, cơ quan Tài
nguyên và Môi trường căn cứ vào bản án, quyết định của Tòa án để giải quyết phù
hợp với quy định của Luật Đất đai mà không cần phải hủy giấy chứng nhận quyền
sử dụng đất, do đó cần sửa bản án sơ thẩm đã tuyên về nội dung này.
[5] Đối với yêu cầu chuyển hồ sơ đến Cơ quan cảnh sát điều tra để xem xét
hành vi lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản của Nguyễn Quang T1, Dương Thị T
và hành vi trốn thuế của Dương Thị T, Lê Thanh H của những người bảo vệ quyền
lợi ích hợp pháp của nguyên đơn M. Thấy rằng, căn cứ các tài liệu chứng cứ
trong hồ vụ án xét thấy hành vi của Nguyễn Quang T1, Dương Thị T
Thanh H chưa đủ yếu yếu tố cấu thành tội lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản và
trốn thuế. Mặt khác, những người bảo vệ quyền lợi ích hợp pháp của nguyên đơn
M chưa cung cấp được tài liệu, chứng cứ chứng minh hành vi của Nguyễn Quang
T1, Dương Thị T đủ yếu tố cấu thành tội lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản và
hành vi của Dương Thị T, Thanh H đủ yếu tố cấu thành tội trốn thuế. Do đó,
trường hợp có đủ tài liệu, chứng cứ căn cứ xác định hành vi của Nguyễn Quang T1,
Dương Thị T đủ yếu tố cấu thành tội lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản
hành vi của Dương Thị T, Lê Thanh H có đủ yếu tố cấu thành tội trốn thuế thì được
quyền làm đơn yêu cầu quan cảnh sát điều tra có thẩm quyền khởi tố vụ án và xử
lý theo quy định của pháp luật hình sự.
[6] Từ những phân tích nhận định trên, Hội đồng xét xxét không có căn
cứ chấp nhận nhận yêu cầu kháng cáo của nguyên đơn bà Trần Thị M. Quan điểm
phát biểu của vị đại diện Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Tây Ninh căn cứ nên
được chấp nhận.
[7] Về án phí dân sự phúc thẩm: Miễn nộp án phí dân sự phúc thẩm cho
Trần Thị M. Ông Lê Thanh H phải chịu án phí dân sự phúc thẩm theo quy định.
[8] Các quyết định khác của bản án thẩm không kháng cáo, kháng nghị
có hiệu lực pháp luật thi hành kể từ ngày hết thời hạn kháng cáo, kháng nghị.
Vì các lẽ trên;
QUYẾT ĐỊNH:
Căn cứ Điều 289, khoản 2 Điều 308 Điều 309 của Bộ luật Tố tụng dân
sự;
Không chấp nhận kháng cáo của nguyên đơn bà Trần Thị M;
21
Đình chỉ xét xử đối với yêu cầu kháng cáo của người có quyền lợi, nghĩa v
liên quan ông Lê Thanh H.
Sửa một phần Bản án dân sự thẩm số 38/2025/DS-ST ngày 07 tháng 03
năm 2025 của Tòa án nhân dân huyện Đức a, tỉnh Long An nay Tòa án khu
vực 3 – Tây Ninh.
Căn cứ Điều 26, điểm a khoản 1 Điều 35, điểm c khoản 1 Điều 39, Điều 147,
Điều 157, Điều 165, Điều 227, Điều 228, Điều 244 Điều 483 Bộ luật Tố tụng dân
sự; Căn cứ các Điều 117, 124, 129, 131, 288, 430 Bộ luật Dân sự; căn cứ Nghị quyết
số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 quy định về mức thu, miễn, giảm, thu,
nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án, xử:
1. Chấp nhận mt phần yêu cầu khởi kiện của bà Trần Thị M về việc “Tranh
chấp hợp đồng tặng cho quyền sử dụng đất, hợp đồng chuyển nhượng quyền sdụng
đất” với ông Nguyễn Quang T1, bà Dương Thị T, cụ thể:
- Tuyên hiệu Hợp đồng tặng cho quyền sử dụng đất ngày 06/11/2008 giữa
cụ Nguyễn Đ1 với ông Nguyễn Quang T1 đối với thửa đất số 164 diện tích
1.586m
2
, tờ bản đồ số 19, tọa lạc ấp C, xã T, huyện Đ, tỉnh Long An được Ủy ban
nhân dân xã T, huyện Đ, tỉnh Long An chứng thực ngày 06/11/2008.
Trần Thị M quyền khởi kiện yêu cầu ông Nguyễn Quang T1
Dương Thị T liên đới hoàn trả giá trị quyền sử dụng đất đối với thửa đất s164, diện
tích 1.586m
2
, TBĐ số 19, tọa lạc ấp C, xã T, huyện Đ, tỉnh Long An cho bà M bằng
vụ án khác nếu có tranh chấp.
- Tuyên hiệu Hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất ngày 17/5/2021
giữa ông Nguyễn Quang T1 với Dương Thị T đối với thửa đất số 164, diện tích
1.586m
2
, tờ bản đsố 19, tọa lạc ấp C, xã T, huyện Đ, tỉnh Long An được Văn phòng
C công chứng ngày 17/5/2021.
Các bên đương sđược quyền khởi kiện yêu cầu giải quyết hậu quả của hợp
đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất hiệu đối với thửa đất số 164, diện tích
1.586m
2
, tờ bản đồ số 19, tọa lạc ấp C, T, huyện Đ, tỉnh Long An, bằng một vụ
án khác nếu có tranh chấp.
2. Không chấp nhận yêu cầu khởi kiện của bà Trần Thị M “Tranh chấp hợp
đồng tặng cho quyền sử dụng đất, hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất, hợp
đồng ủy quyền quyền sử dụng đất công nhận quyền sử dụng đất” với ông Nguyễn
Quang T1, bà Dương Thị T, cụ thể:
- Tuyên hiệu Hợp đồng tặng cho quyền sử dụng đất ngày 06/11/2008 giữa
cụ Nguyễn Đ1 với ông Nguyễn Quang T1 đối với phần đất thuộc thửa 163
một phần thửa 142 có diện tích 1.345,5m
2
tại khu A1 theo Mảnh trích đo địa chính
của Công ty TNHH Đ2, ngày 25/11/2024, đất cùng tọa lạc tại ấp C, xã T, huyện Đ,
tỉnh Long An.
- Tuyên hiệu Hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất ngày 17/5/2021
giữa ông Nguyễn Quang T1 với bà Dương Thị T đối với phần đất thuộc thửa 163
một phần thửa 142 có diện tích 1.345,5m
2
tại khu A1 theo Mảnh trích đo địa chính
22
của Công ty TNHH Đ2, ngày 25/11/2024, đất cùng tọa lạc tại ấp C, xã T, huyện Đ,
tỉnh Long An.
- Tuyên hiệu Hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất ngày
16/12/2022 giữa bà Dương Thị T với ông Lê Thành H2 đối với phần đất thuộc thửa
163 và một phần thửa 142 có diện tích 1.345,5m
2
tại khu A1 theo Mảnh trích đo địa
chính của Công ty TNHH Đ2, ngày 25/11/2024, đất cùng tọa lạc tại p C, T,
huyện Đ, tỉnh Long An.
- Tuyên hiệu Hợp đồng ủy quyền quyền sdụng đất ngày 16/12/2022
giữa bà Dương Thị T với ông Thanh H được công chứng đối với thửa đất số 164,
diện tích 1.586m
2
, TBĐ số 19, tọa lạc ấp C, xã T, huyện Đ, tỉnh Long An được Văn
phòng C công chứng ngày 16/12/2022.
- Không chấp nhận yêu cầu khởi kiện của bà M về việc yêu cầu ng nhận
phần đất thuộc thửa 163 một phần thửa 142 diện tích 1.345,5m
2
tại khu A1
theo Mảnh trích đo địa chính của Công ty TNHH Đ2, ngày 25/11/2024 thuộc quyền
sử dụng của của bà M.
3. Chấp nhận yêu cầu độc lập của ông Lê Thanh H, cụ thể:
- Công nhận hiệu lực Hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất ngày
16/12/2022 giữa bà Dương Thị T với ông Lê Thanh H đối với thửa đất số 142, 163,
tổng diện tích 3.765m
2
, tờ bản đồ số 19, tọa lạc ấp C, xã T, huyện Đ, tỉnh Long An
được Văn phòng C công chứng ngày 16/12/2022.
- Công nhận hiệu lực của Hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất (thể
hiện qua hợp đồng ủy quyền ngày 16/12/2022 Biên bản bàn giao đất ngày
15/12/2022) giữa bà Dương Thị T với ông Lê Thành H2 đối với thửa 164, diện tích
1.586m
2
, tờ bản đồ số 19, tọa lạc ấp C, xã T, huyện Đ, tỉnh Long An .
Ông Lê Thanh H được quyền liên hệ quan nhà nước thẩm quyền đ
đăng ký, khai và xin cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, quyền sở hữu nhà
tài sản khác gắn liền với đất hoặc được cập nhật biến động sang tên Giấy chứng
nhận đối với thửa đất số 142, 163, 164, tổng diện tích 5.351m
2
, tờ bản đồ số 19, tọa
lạc ấp C, xã T, huyện Đ, tỉnh Long An tài sản gắn liền với đất theo quy định pháp
luật.
Vị trí, diện tích tứ cận được thể hiện theo Mảnh trích đo bản đồ địa chính số
144-2024 do Công ty TNHH Đ2 lập ngày 10/4/2024 được Chi nhánh Văn phòng
đăng ký đất đai tại huyện Đ, tỉnh Long An phê duyệt ngày 23/4/2024.
quan cấp giấy chứng nhận quyền sdụng đất căn cứ vào bản án, quyết
định của Tòa án để giải quyết điều chỉnh biến động hoặc cấp lại giấy chứng nhận
quyền sử dụng đất phù hợp với kết quả giải quyết của Tòa án.
4. Buộc bà Trần Thị M và những người sinh sống trên thửa đất số 142, 163,
164, tổng diện tích 5.351m
2
, tờ bản đồ s19, tọa lạc ấp C, xã T, huyện Đ, tỉnh Long
An nghĩa vụ giao trả lại cho ông Thanh H thửa đất số 142, 163, 164, tổng diện
tích 5.351m
2
, tờ bản đồ số 19, tọa lạc ấp C, xã T, huyện Đ, tỉnh Long An và tài sản
gắn liền với đất.
23
5. Về chi phí tố tụng: Tổng số tiền chi phí tố tụng số tiền 77.000.000 đồng,
M đã nộp tạm ứng chi phí xong, buộc ông Nguyễn Quang T1 Dương Thị
T liên đới trả lại số tiền 42.000.000 đồng để thanh toán cho bà Trần Thị M.
Kể từ ngày bản án hiệu lực pháp luật đơn yêu cầu thi hành án của
người được thi hành án cho đến khi thi hành án xong tất cả các khoản tiền, hàng
tháng bên phải thi hành án còn phải chịu khoản tiền lãi của số tiền còn phải thi hành
án theo mức lãi suất quy định tại khoản 2 Điều 468 của Bộ luật Dân sự năm 2015
6. Về án phí dân sthẩm: Trần Thị M được miễn án phí theo quy định.
Ông Lê Thanh H không phải chịu án phí, hoàn trả cho ông H stiền tạm ứng
án phí đã nộp 1.200.000 đồng theo các Biên lai thu tiền tạm ứng án phí số 0000399
ngày 09/5/2024; số 0005719 ngày 25/9/2024; số 0005216 ngày 23/7/2024 số
0004008 ngày 09/12/2024 ông H đã nộp tại Chi cục Thi hành án dân sự huyện
Đức Hòa, tỉnh Long An nay Thi hành án dân sự khu vực 3, Thi hành án dân sự
tỉnh Tây Ninh.
Buộc ông Nguyễn Quang T1 phải nộp 300.000 đồng án phí dân sự sơ thẩm.
Dương Thị T phải nộp 600.000 đồng án phí dân sự sơ thẩm.
Buộc ông Nguyễn Quang T1 và bà Dương Thị T phải liên đới nộp 300.000
đồng án phí dân sự sơ thẩm.
7. Về án phí dân sự phúc thẩm: Miễn nộp án phí dân sự phúc thẩm cho
Trần Thị M.
Ông Thanh H phải chịu 300.000 đồng án phí dân sự phúc thẩm nhưng
được khấu trừ 300.000 đồng tiền tạm ứng án pđã nộp theo Biên lai thu tiền số
0006642 ngày 14/4/2025 của Chi cục Thi hành án dân shuyện Đức Hòa, tỉnh Long
An nay là Thi hành án dân sự khu vực 3, Thi hành án dân sự tỉnh Tây Ninh. Ông H
đã nộp đủ án phí dân sự phúc thẩm.
8. Về hiệu lực của bản án: Bản án phúc thẩm hiệu lực pháp luật kể từ ngày
tuyên án.
9. Về hướng dẫn thi hành án: Trường hợp bản án, quyết định được thi hành
theo qui định tại Điều 2 Luật Thi hành án dân sự thì người được thi hành án, người
phải thi hành án dân sự có quyền thoả thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án,
tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo qui định tại các Điều 6, 7,
7a và 9 Luật Thi hành án dân sự; thời hiệu thi hành án được thực hiện theo qui định
tại Điều 30 Luật Thi hành án dân sự.
Nơi nhận:
- TAND tối cao;
- VKSND tỉnh Tây Ninh;
- TAND khu vực 3 – Tây Ninh;
- Thi hành án Dân sự tỉnh Tây Ninh;
- Các đương sự;
- Lưu hồ sơ, án văn.
TM. HỘI ĐỒNG XÉT XỬ PHÚC THẨM
THẨM PHÁN - CHỦ TỌA PHIÊN TÒA
Trần Trọng Nhân
24
Tải về
Bản án số 657/DS-PT Bản án số 657/DS-PT

Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để tải file. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!

Bản án số 657/DS-PT Bản án số 657/DS-PT

Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để tải file. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!

Bản án/ Quyết định cùng đối tượng

Bản án cùng lĩnh vực

Bản án mới nhất