Bản án số 95/2025/HS-ST ngày 22/01/2025 của TAND huyện Kiến Xương, tỉnh Thái Bình
- Thuộc tính
- Nội dung
- VB gốc
- VB liên quan
- Lược đồ
- Đính chính
- Án lệ
- BA/QĐ cùng tội danh
- Tải về
Tải văn bản
-
Bản án số 95/2025/HS-ST
Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để tải file. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!
-
Bản án số 95/2025/HS-ST
Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để tải file. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!
Báo lỗi
Thuộc tính Bản án 95/2025/HS-ST
Tên Bản án: | Bản án số 95/2025/HS-ST ngày 22/01/2025 của TAND huyện Kiến Xương, tỉnh Thái Bình |
---|---|
Tội danh: | |
Cấp xét xử: | Sơ thẩm |
Tòa án xét xử: | TAND huyện Kiến Xương (TAND tỉnh Thái Bình) |
Số hiệu: | 95/2025/HS-ST |
Loại văn bản: | Bản án |
Ngày ban hành: | 22/01/2025 |
Lĩnh vực: | Hình sự |
Áp dụng án lệ: |
Đã biết
Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để xem áp dụng án lệ. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây! |
Đính chính: |
Đã biết
Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để xem đính chính. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây! |
Thông tin về vụ án: | HS Nguyễn Hữu Hùng |
Tóm tắt Bản án
Nội dung tóm tắt đang được cập nhật, Quý khách vui lòng quay lại sau!
Tải văn bản

1
TÒA ÁN NHÂN DÂN
HUYỆN KIẾN XƯƠNG
TỈNH THÁI BÌNH
CỘNG HOÀ XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM
Độc lập - Tự do - Hạnh phúc
Bản án số: 95/2024/HS-ST
Ngày: 21-11-2024.
NHÂN DANH
NƯỚC CỘNG HÒA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM
TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN KIẾN XƯƠNG, TỈNH THÁI BÌNH
- Thành phần Hội đồng xét xử sơ thẩm gồm có:
Thẩm phán - Chủ tọa phiên tòa: Bà Lê Thị Thanh Xuân.
Các Hội thẩm nhân dân:
1. Bà Bùi Thị Ngoan, Bí thư Đoàn thanh niên CSHCM thị trấn Kiến
Xương huyện Kiến Xương, tỉnh Thái Bình.
2. Bà Đoàn Thị Duyên, Thường trực Hội luật gia huyện Kiến Xương, tỉnh
Thái Bình.
- Thư ký phiên tòa: Bà Vũ Thị Khánh Ly - Thư ký Tòa án nhân dân
huyện Kiến Xương, tỉnh Thái Bình.
- Đại diện Viện kiểm sát nhân dân huyện Kiến Xương, tỉnh Thái Bình
tham gia phiên tòa: Bà Trần Thị Thìn- Kiểm sát viên.
Ngày 21 tháng 11 năm 2024 tại Trụ sở Tòa án nhân dân huyện Kiến
Xương, tỉnh Thái Bình xét xử sơ thẩm kín vụ án hình sự thụ lý số 92/2024/HS-
ST ngày 23 tháng 10 năm 2024 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số
96/2024/QĐXXST-HS ngày 07/11/2024, đối với bị cáo:
Nguyễn Hữu H, sinh ngày 18/4/2003; giới tính: Nam; Nơi đăng ký hộ
khẩu thường trú và cư trú: Thôn H, xã B, huyện K, tỉnh Thái Bình; Quốc tịch:
Việt Nam; Dân tộc: Kinh; Tôn giáo: Không; Trình độ học vấn: 9/12; Nghề
nghiệp: Lao động tự do; con ông Nguyễn Hữu C (đã chết) và con bà Vũ Thị L
(đã chết); chưa có vợ. Tiền án, tiền sự: Không. Bị cáo bị tạm giam theo Lệnh bắt
bị can để tạm giam. Hiện bị can đang bị tạm giam tại Nhà tạm giữ Công an
huyện Kiến Xương, có mặt tại phiên tòa.
- Bị hại: Cháu Đào Thị T, sinh ngày 25/8/2009 (vắng mặt).
Nơi cư trú: thôn T, xã T, huyện K, tỉnh Thái Bình.
- Người đại diện hợp pháp của bị hại:
Bà Bùi Thị T, sinh năm 1976
Nơi cư trú: thôn T, xã T, huyện K, tỉnh Thái Bình.
2
(Là mẹ đẻ của cháu Đào Thị T, có mặt).
- Người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của bị hại: Bà Nguyễn Thị Bích
T - Trợ giúp viên pháp lý thuộc Trung tâm trợ giúp pháp lý Nhà nước - Sở Tư
pháp tỉnh Thái Bình, có mặt.
- Người làm chứng:
1.Anh Đặng Trung T, sinh năm 2003, vắng mặt
Nơi cư trú: thôn T, xã Q, huyện K, tỉnh Thái Bình.
2. Anh Phạm Ngọc Đ, sinh năm 1974, vắng mặt
Nơi cư trú: thôn Đ, xã T nay là xã T, huyện K, tỉnh Thái Bình.
3. Chị Lê Thị Ú, sinh năm 1977, vắng mặt
Nơi cư trú: phường V, quận H, thành phố Hà Nội.
4. Chị Đỗ Thị T, sinh năm 1980, vắng mặt
Nơi cư trú: Tổ dân phố T, thị trấn K, huyện K, tỉnh Thái Bình.
5. Chị Bùi Thị V, sinh năm 1965, vắng mặt
Nơi cư trú: thôn Đ, xã B, huyện K, tỉnh Thái Bình.
- Đại diện Trung tâm giáo dục nghề nghiệp - giáo dục thường xuyên
huyện Kiến Xương, có đơn đề nghị xét xử vắng mặt.
NỘI DUNG VỤ ÁN:
Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung
vụ án được tóm tắt như sau:
Tháng 6/2023, bị cáo H sử dụng tài khoản Facebook “Nguyễn Hữu H” để
nhắn tin, làm quen với cháu Đào Thị T, sinh ngày 25/8/2009 sử dụng tài khoản
Facebook có tên “Mất Hồn”. Qua nhắn tin Facebook với cháu T thì bị cáo H biết
cháu T sinh ngày 25/8/2009 (là người dưới 16 tuổi) và đang học lớp 9 tại
Trường tiểu học và Trung học cơ sở xã Thượng Hiền, huyện Kiến Xương, sau
đó cháu T và bị cáo H nảy sinh tình cảm yêu nhau, bị cáo H đã có hành vi quan
hệ tình dục với cháu T 05 lần, cụ thể như sau:
Lần 1: Khoảng cuối tháng 6/2023, bị cáo H nhắn tin qua Facebook cho
cháu T đến đón bị cáo H tại xã Bình Định, huyện Kiến Xương để đi chơi. Sau đó
cháu T điều khiển xe đạp điện đến đón bị cáo H, khi đến nơi bị cáo H điều khiển
xe đạp điện chở cháu T vào thuê phòng 09 của nhà nghỉ Minh Châu (nhà nghỉ
Chợ Gốc) thôn Điện Biên, xã Bình Thanh, huyện Kiến Xương, tỉnh Thái Bình
để nghỉ. Tại đây bị cáo và cháu T nằm ôm hôn nhau trên giường rồi hai người tự
cởi quần áo của mình, bị cáo H dùng tay sờ lên ngực và xoa hai đầu vú cháu T
để kích thích, sau đó bị cáo đã đưa dương vật của mình cho vào âm đạo của
cháu T để thực hiện hành vi quan hệ tình dục.
3
Lần 2: Khoảng 14 giờ giữa tháng 7/2023 bị cáo H điều khiển xe đạp điện
chở cháu T lại vào thuê phòng 09 của nhà nghỉ Minh Châu (nhà nghỉ Chợ Gốc)
để nghỉ. Tại đây bị cáo và cháu T tiếp tục thực hiện hành vi quan hệ tình dục với
nhau.
Lần 3: Khoảng 13 giờ 30 phút ngày 17/9/2023, bị cáo H điều khiển xe đạp
điện chở cháu T vào thuê phòng 301 của nhà nghỉ Quê Hương thuộc tổ dân phố
Tân Tiến, thị trấn Kiến Xương, huyện Kiến Xương để nghỉ. Tại đây bị cáo và
cháu T tiếp tục thực hiện hành vi quan hệ tình dục với nhau.
Lần 4: Vào khoảng 13 giờ 30 phút ngày 26/11/2023 bị cáo H điều khiển
xe đạp điện chở cháu T lại vào thuê phòng 301 của nhà nghỉ Quê Hương để
nghỉ. Tại đây bị cáo và cháu T tiếp tục thực hiện hành vi quan hệ tình dục với
nhau.
Lần 5: Khoảng 07 giờ 30 phút ngày 28/3/2024, cháu T cãi nhau với bố mẹ
nên bỏ nhà đi bằng xe đạp điện để tìm bị cáo H. Khi gặp bị cáo, cháu T nói với
bị cáo là muốn đi làm với bị cáo và bị cáo H đồng ý. Sau đó bị cáo H và cháu T
bắt xe ô tô khách đến bến xe Giáp Bát, thành phố Hà Nội, bàn nhau đi xin việc,
bắt xe ôm đến quận Hà Đông rồi đi bộ tìm chỗ thuê người làm công. Đến
khoảng 17 giờ cùng ngày thì cháu T kêu mệt, bị cáo H và cháu T vào thuê phòng
301 của nhà nghỉ An Phát, số C11, Lê Văn Tám, phường Vạn Phúc, quận Hà
Đông, thành phố Hà Nội để nghỉ. Tại đây bị cáo và cháu T tiếp tục thực hiện
hành vi quan hệ tình dục với nhau sau đó bị cáo H và T bắt xe ô tô khách đến
thành phố Thái Nguyên. Khoảng 5 giờ sáng ngày 29/3/2024, bị cáo H và cháu T
đến thành phố Thái Nguyên, bị cáo H và cháu T tiếp tục đi xin việc nhưng
không có chỗ nhận làm. Đến khoảng 20 giờ cùng ngày thì mẹ của cháu T là chị
T gọi điện cho cháu T hỏi cháu T đang ở đâu thì cháu T nói với chị T là cháu T
đang ở thành phố Thái Nguyên, sáng hôm sau cháu T sẽ về nhà, rồi tắt máy. Do
cháu T và bị cáo H hết tiền nên không thuê nhà nghỉ mà ngủ ở lán xe ngoài
đường. Khoảng 07 giờ ngày 30/3/2024, cháu T bắt xe ô tô khách về Thái Bình
còn bị cáo H ở thành phố Thái Nguyên để làm việc. Khoảng 11 giờ cùng ngày
cháu T được nhà xe cho xuống trạm dừng nghỉ tại huyện Hưng Hà, tỉnh Thái
Bình. Thời điểm này có xe ô tô khách Thành Bưởi đến trạm dừng nghỉ, trên xe
có anh Đoàn trú tại thôn Đông Khánh, xã Thượng Hiền, huyện Kiến Xương là
phụ xe, anh Đoàn nhận ra cháu T là người cùng xã nên anh Đoàn cho cháu T đi
nhờ xe ô tô khách. Anh Đoàn gọi điện cho chị T đến đón cháu T, khi xe ô tô đi
về đến xã Nam Cao, huyện Kiến Xương thì chị T đến đón cháu T về nhà. Khi về
nhà thì chị T có hỏi cháu T đi đâu, làm gì thì cháu T nói về việc cháu T quan hệ
tình dục với bị cáo H cho chị T. Ngày 28/4/2024, chị T có đơn tố giác bị cáo bị
cáo H gửi Công an xã Thượng Hiền, huyện Kiến Xương.
4
- Kết luận giám định số 12/KLXHTD-TTPY ngày 14/5/2024 của Trung
tâm pháp y Sở y tế tỉnh Thái Bình, kết luận: Không thấy hình ảnh tinh trùng, xác
tinh trùng trong dịch âm đạo; Xét nghiệm Beta HCG: 0,28mIU/ml; Tại thời
điểm giám định bộ phận sinh dục cháu Đào Thị T không thấy tổn thương ; Tại
thời điểm giám định màng trinh cháu Đào Thị T rách cũ vị trí 5h và 7h ; Tại thời
điểm giám định cháu Đào Thị T không có thai; Tại thời điểm giám định cháu
Đào Thị T không mắc bệnh xã hội, HIV âm tính.
Cáo trạng số 95/CT-VKSKX ngày 22/10/2024, Viện kiểm sát nhân dân
huyện Kiến Xương, tỉnh Thái Bình truy tố bị cáo Nguyễn Hữu H về tội: "Giao
cấu với người từ đủ 13 tuổi đến dưới 16 tuổi" theo điểm a khoản 2 Điều 145 Bộ
luật Hình sự.
Quá trình điều tra và tại phiên tòa, bị cáo đã khai nhận hành vi của mình
như nội dung bản Cáo trạng đã truy tố.
Tại phiên toà, Viện kiểm sát nhân dân huyện Kiến Xương giữ nguyên truy
tố đối với bị cáo và đề nghị Hội đồng xét xử:
- Tuyên bố: Bị cáo Nguyễn Hữu H phạm tội “Giao cấu với người từ đủ 13
tuổi đến dưới 16 tuổi”.
- Về hình phạt: Áp dụng điểm a Khoản 2 Điều 145; điểm b, s khoản 1,
khoản 2 Điều 51; Điều 38; Điều 50 Bộ luật Hình sự: Xử phạt bị cáo Nguyễn
Hữu H mức án từ 03 năm 06 tháng đến 04 năm tù, thời hạn chấp hành hình phạt
tù tính từ ngày 27/6/2024.
- Về trách nhiệm dân sự: Không đặt ra giải quyết.
- Bị cáo phải chịu án phí hình sự sơ thẩm.
Bị cáo đồng ý với tội danh mà Viện kiểm sát nhân dân huyện Kiến Xương
đã truy tố và không tranh luận gì.
Tại phiên tòa, bị cáo khai do nhận thức pháp luật hạn chế và do có tình
cảm thực sự với bị hại nên đã có quan hệ tình dục với bị hại.
Đại diện hợp pháp của bị hại đề nghị Hội đồng xét xử giảm nhẹ hình phạt
cho bị cáo.
Bị cáo nói lời sau cùng: Bị cáo nhận thức rõ về hành vi phạm tội của
mình, đề nghị Hội đồng xét xử cho bị cáo được hưởng mức án nhẹ nhất.
NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN:
Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào tài liệu có trong hồ sơ vụ án đã
được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:
[1] Về hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan cảnh sát điều tra Công an
huyện Kiến Xương và Điều tra viên; của Viện kiểm sát nhân dân huyện Kiến
Xương và Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng trình
5
tự, thủ tục, đúng thẩm quyền theo quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự. Quá
trình điều tra và tại phiên tòa, những người tham gia tố tụng không có ý kiến hay
khiếu nại về hành vi, quyết định của cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành
tố tụng. Vì vậy, các hành vi, quyết định tố tụng của cơ quan tiến hành tố tụng,
người tiến hành tố tụng đã thực hiện là đúng quy định của pháp luật.
[2] Tại phiên toà, bị cáo H đã thành khẩn khai nhận hành vi phạm tội của
mình như đã khai tại cơ quan điều tra. Lời khai nhận tội của bị cáo được chứng
minh bởi các chứng cứ khác như: Đơn tố giác của chị Bùi Thị T, sinh năm 1982
trú tại thôn T, xã T, huyện Kgửi Công an xã Thượng Hiền, huyện Kiến Xương,
tỉnh Thái Bình ngày 28/4/2024; Lời khai của chị Bùi Thị T và anh Đào Xuân T,
sinh năm 1975 trú tại thôn T, xã T, huyện K, tỉnh Thái Bình; Báo cáo vụ việc
của Công an xã Thượng Hiền, huyện Kiến Xương, tỉnh Thái Bình; Biên bản
kiểm tra, xác định nơi xảy ra vụ việc ngày 29/4/2024 tại nhà nghỉ Quê Hương tổ
dân phố Tân Tiến, thị trấn Kiến Xương, huyện Kiến Xương, tỉnh Thái Bình + tại
nhà nghỉ Minh Châu thuộc thôn Điện Biên, xã Bình Thanh, huyện Kiến Xương,
tỉnh Thái Bình + Biên bản xác định hiện trường ngày 12/8/2024 tại nhà nghỉ An
phát, phường Vạn Phúc, quận Hà Đông, thành phố Hà Nội; Sơ đồ hiện trường
ngày 12/8/2024, sơ đồ nơi xảy ra vụ việc ngày 29/4/2024 tại nhà nghỉ An Phát,
phường Vạn Phúc, quận Hà Đông, thành phố Hà Nội; Sơ đồ hiện trường ngày
24/6/2024, sơ đồ nơi xảy ra vụ việc ngày 29/4/2024 tại nhà Nghỉ Minh Châu
thuộc thôn Điện Biên, xã Bình Thanh, huyện Kiến Xương, tỉnh Thái Bình; Sơ
đồ hiện trường ngày 25/6/2024, sơ đồ nơi xảy ra vụ việc ngày 29/4/2024 tại nhà
nghỉ Quê Hương thuộc tổ dân phố Tân Tiến, thị trấn Kiến Xương, huyện Kiến
Xương, tỉnh Thái Bình; Kết luận giám định số 12/KLXHTD-TTPY ngày
14/5/2024 của Trung tâm pháp y Sở y tế tỉnh Thái Bình; Biên bản làm việc hồi
08 giờ 30 phút ngày 21/5/2024 tại Trường tiểu học và Trung học cơ sở Thượng
Hiền, Kiến Xương; Lời khai của người bị hại là Đào Thị T, sinh năm 2009 trú
tại thôn Trung Quý, xã Thượng Hiền, huyện Kiến Xương, tỉnh Thái Bình; Lời
khai của những người làm chứng là anh Đặng Trung Thành, sinh năm 2003 trú
tại thôn Trà Đoài, xã Quang Trung, huyện Kiến Xương, tỉnh Thái Bình; Anh
Phạm Ngọc Đoàn, sinh năm 1974 trú tại thôn Đông Khánh, xã Thượng Hiền,
huyện Kiến Xương, tỉnh Thái Bình; chị Lê Thị Út, sinh năm 1977 trú tại phường
Vạn Phúc, quận Hà Đông, thành phố Hà Nội; chị Đỗ Thị Thảo, sinh năm 1980
trú tại tổ dân phố Tân Tiến, thị trấn Kiến Xương, huyện Kiến Xương, tỉnh Thái
Bình; chị Bùi Thị Vân, sinh năm 1965 trú tại thôn Điện Biên, xã Bình Thanh,
huyện Kiến Xương, tỉnh Thái Bình cùng các tài liệu, chứng cứ khác có trong hồ
sơ vụ án.
[3] Xét thấy lời khai của bị cáo phù hợp với lời khai của bị hại, người đại
diện hợp pháp của bị hại, người làm chứng, phù hợp với các chứng cứ khác về
thời gian, địa điểm, hành vi phạm tội. Như vậy, Hội đồng xét xử có đủ cơ sở kết
6
luận: Vào khoảng tháng 6/2023, Nguyễn Hữu H là người đã thành niên quen
biết cháu Đào Thị T và biết cháu T sinh ngày 25/8/2009 là người dưới 16 tuổi.
Sau khi nảy sinh tình cảm, yêu nhau, bị cáo H đã thực hiện hành vi quan hệ tình
dục với cháu T 05 lần, cụ thể: Lần 1 vào cuối tháng 06/2023, lần 2 vào cuối
tháng 7/2023 tại nhà nghỉ Minh Châu thuộc thôn Điện Biên, xã Bình Thanh,
huyện Kiến Xương, tỉnh Thái Bình. Lần 3 vào ngày 17/9/2023, lần 4 vào ngày
26/11/2023 tại nhà nghỉ Quê Hương thuộc tổ dân phố Tân Tiến, thị trấn Kiến
Xương, huyện Kiến Xương, tỉnh Thái Bình. Lần 5 vào ngày 28/3/2024 tại nhà
nghỉ An Phát, số C11, Lê Văn Tám, phường Vạn Phúc, quận Hà Đông, thành
phố Hà Nội. Bị cáo H là người trên 18 tuổi, có đầy đủ năng lực hành vi dân sự, bị
hại cháu Đào Thị T mới trên 13 tuổi và chưa đủ 16 tuổi, mặc dù việc giao cấu giữa
bị cáo và bị hại là hoàn toàn tự nguyện, có sự đồng tình của hai người do hai người
yêu nhau, tuy nhiên bị hại là đối tượng mà pháp luật buộc phải bảo vệ. Do đó, bị
cáo Nguyễn Hữu H đã phạm tội “Giao cấu với người từ đủ 13 tuổi đến dưới 16
tuổi” theo quy định tại điểm a khoản 2 Điều 145 Bộ luật Hình sự như Cáo trạng
của Viện kiểm sát nhân dân huyện Kiến Xương đã truy tố là đúng người, đúng
tội, đúng pháp luật.
Điều 145 Bộ luật Hình sự: Tội "Giao cấu với người từ đủ 13 tuổi đến
dưới 16 tuổi quy định:
“ 1. Người nào đủ 18 tuổi trở lên mà giao cấu hoặc thực hiện hành vi
quan hệ tình dục khác với người từ đủ 13 tuổi đến dưới 16 tuổi, nếu không thuộc
trường hợp quy định tại Điều 142 và Điều 144 của Bộ luật này, thì bị phạt tù từ
01 năm đến 05 năm.
2. Phạm tội thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt tù từ 03
năm đến 10 năm:
a) phạm tội 02 lần trở lên;
…..
5. Người phạm tội còn có thể bị cấm đảm nhiệm chức vụ, cấm hành nghề
hoặc làm công việc nhất định từ 01 năm đến 05 năm”.
[4] Xét tính chất mức độ hậu quả của vụ án thì thấy: Hành vi phạm tội của
bị cáo là nguy hiểm cho xã hội, đã xâm phạm trực tiếp đến sức khỏe, danh dự,
nhân phẩm của bị hại. Bị cáo đã giao cấu với bị hại mà bị cáo biết rõ tuổi của bị
hại thể hiện sự coi thường pháp luật, coi thường sức khoẻ, danh dự, nhân phẩm
của bị hại. Vì vậy, cần phải xử phạt bị cáo mức án tương xứng với hành vi, phù
hợp với tính chất, mức độ phạm tội của bị cáo nhằm mục đích giáo dục, cải tạo
bị cáo, góp phần đấu tranh phòng ngừa tội phạm.
[5] Xét nhân thân, các tình tiết tăng nặng và giảm nhẹ trách nhiệm hình sự
của bị cáo thì thấy: Bị cáo H không bị áp dụng tình tiết tăng nặng trách nhiệm
7
hình sự nào quy định tại khoản 1 Điều 52 Bộ luật Hình sự. Trong quá trình điều
tra vụ án và tại phiên toà, bị cáo thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải; đã tự
nguyện bồi thường cho bị hại; bị hại và đại diện hợp pháp của bị hại có đơn xin
miễn trách nhiệm hình sự đối với bị cáo nên bị cáo được áp dụng tình tiết giảm
nhẹ theo quy định tại điểm b, s khoản 1, khoản 2 Điều 51 Bộ luật Hình sự.
Không áp dụng hình phạt bổ sung đối với bị cáo.
[6] Về trách nhiệm dân sự: Bị cáo đã bồi thường các khoản chi phí cho bị
hại số tiền 2.000.000 đồng. Gia đình bị hại và bị hại không yêu cầu bị cáo phải
bồi thường T nên không đặt ra giải quyết.
[7] Bị cáo phải chịu án phí hình sự sơ thẩm.
[8] Bị cáo, bị hại, người đại diện hợp pháp và người bảo vệ quyền và lợi
ích hợp pháp của bị hại có quyền kháng cáo theo quy định.
Vì các lẽ trên,
QUYẾT ĐỊNH:
Căn cứ điểm a khoản 2 Điều 145; điểm b, s khoản 1, khoản 2 Điều 51;
Điều 38; Điều 50 Bộ luật Hình sự; Điều 135; Điều 136; Điều 331; Điều 333 của
Bộ luật Tố tụng hình sự; Điều 21; Điều 23 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14
quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí
Tòa án.
1. Về tội danh: Tuyên bố bị cáo Nguyễn Hữu H phạm tội “Giao cấu với
người từ đủ 13 tuổi đến dưới 16 tuổi”.
2. Về hình phạt: Xử phạt bị cáo Nguyễn Hữu H 04 (bốn) năm tù, thời hạn
chấp hành hình phạt tù tính từ ngày 27/6/2024.
5. Về án phí: Bị cáo Nguyễn Hữu H phải chịu 200.000 đồng án phí hình
sự sơ thẩm.
6. Bị cáo; người đại diện hợp pháp của bị hại và người bảo vệ quyền và
lợi ích hợp pháp của bị hại có quyền kháng cáo trong hạn 15 ngày kể từ ngày
tuyên án; bị hại có quyền kháng cáo trong hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được
bản án hoặc bản án được niêm yết theo quy định.
Nơi nhận:
-VKSND tỉnh Thái Bình;
- VKSND huyện Kiến Xương;
- Bị cáo; bị hại; người đại diện hợp pháp và
người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của bị
TM. HỘI ĐỒNG XÉT XỬ SƠ THẨM
THẨM PHÁN-CHỦ TỌA PHIÊN TÒA

8
hại;
- TT giáo dục nghề-giáo dục thường xuyên,
huyện Kiến Xương;
- CQĐT CA huyện Kiến Xương;
- CQTHAHS CA huyện Kiến Xương;
- Chi cục THADS huyện Kiến Xương;
- Sở Tư pháp Thái Bình;
- Lưu hồ sơ vụ án.
Lê Thị Thanh Xuân
TÒA ÁN NHÂN DÂN
HUYỆN KIẾN XƯƠNG
TỈNH THÁI BÌNH
CỘNG HOÀ XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM
Độc lập - Tự do - Hạnh phúc
BIÊN BẢN NGHỊ ÁN
Vào hồi 09 giờ 30 phút, ngày 21 tháng 11 năm 2024;
Tại: Trụ sở Tòa án nhân dân huyện Kiến Xương, tỉnh Thái Bình.
Hội đồng xét xử sơ thẩm gồm có:
Thẩm phán - Chủ toạ phiên toà: Bà Lê Thị Thanh Xuân.
9
Các hội thẩm nhân dân: Bà Bùi Thị Ngoan và bà Đoàn Thị Duyên
Tiến hành nghị án vụ án hình sự sơ thẩm thụ lý số 92/2024/HSST ngày 23
tháng 10 năm 2024, đối với:
1. Bị cáo Nguyễn Hữu H, sinh ngày 18/4/2003; giới tính: Nam; Nơi đăng
ký hộ khẩu thường trú và cư trú: Thôn Hòa Bình, xã Bình Định, huyện Kiến
Xương, tỉnh Thái Bình.
2. Bị hại: Cháu Đào Thị T, sinh ngày 25/8/2009
Nơi cư trú: thôn Trung Quý, xã Thượng Hiền, huyện Kiến Xương, tỉnh
Thái Bình.
Căn cứ vào Điều 299 và Điều 326 của Bộ luật Tố tụng hình sự;
Căn cứ vào các chứng cứ và tài liệu đã được xem xét tại phiên toà, kết
quả tranh tụng tại phiên tòa, các quy định của pháp luật.
HỘI ĐỒNG XÉT XỬ THẢO LUẬN, BIỂU QUYẾT, QUYẾT ĐỊNH
CÁC VẤN ĐỀ CỦA VỤ ÁN NHƯ SAU:
Căn cứ điểm a khoản 2 Điều 145; điểm b, s khoản 1, khoản 2 Điều 51;
Điều 38; Điều 50 Bộ luật Hình sự; Điều 135; Điều 136; Điều 331; Điều 333 của
Bộ luật Tố tụng hình sự; Điều 21; Điều 23 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14
quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí
Tòa án.
BQ: 3/3 nhất trí
1. Về tội danh: Tuyên bố bị cáo Nguyễn Hữu H phạm tội “Giao cấu với
người từ đủ 13 tuổi đến dưới 16 tuổi”.
BQ: 3/3 nhất trí
2. Về hình phạt: : Xử phạt bị cáo Nguyễn Hữu H 04 (bốn) năm tù, thời
hạn chấp hành hình phạt tù tính từ ngày 27/6/2024.
BQ: 3/3 nhất trí.
3. Về xử lý vật chứng: Tịch thu tiêu hủy 01 quần đùi vải bò màu xanh
(quần nữ), 01 áo phông ngắn tay cổ tròn màu trắng hồng, áo nữ; 01 áo vải màu
trắng có cúc cài có túi áo bên trái kẻ caro màu vàng trắng; 01 quần đùi kẻ caro
màu vàng trắng đen trên quần có hình đầu mèo, hình trái tim và dòng chữ
GIRLCUTE; 01 quần lót, áo lót màu nâu.
10
(Vật chứng nêu trên Cơ quan điều tra đã chuyển sang Chi cục Thi hành án
dân sự ngày 28/12/2021)
BQ: 3/3 nhất trí.
4. Về án phí: Bị cáo Trương Quang Tuyến phải chịu 200.000 đồng án phí
hình sự sơ thẩm.
BQ: 3/3 Nhất trí.
5. Bị cáo, bị hại, người đại diện hợp pháp của bị hại có quyền kháng cáo
theo quy định của pháp luật.
BQ: 3/3 nhất trí.
Nghị án kết thúc vào hồi 09 giờ 40 phút, ngày 21 tháng 11 năm 2024
Biên bản nghị án đã được đọc lại cho tất cả các thành viên Hội đồng xét
xử cùng nghe và ký tên.
THÀNH VIÊN HỘI ĐỒNG XÉT XỬ
THẨM PHÁN - CHỦ TỌA PHIÊN TÒA
Lê Thị Thanh Xuân
Tải về
Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để tải file. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!
Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để tải file. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!
Bản án/ Quyết định cùng đối tượng
1
Ban hành: 28/03/2025
Cấp xét xử: Sơ thẩm
2
Ban hành: 28/03/2025
Cấp xét xử: Sơ thẩm
3
Ban hành: 28/03/2025
Cấp xét xử: Sơ thẩm
4
Ban hành: 28/03/2025
Cấp xét xử: Sơ thẩm
5
Ban hành: 28/03/2025
Cấp xét xử: Sơ thẩm
6
Ban hành: 27/03/2025
Cấp xét xử: Sơ thẩm
7
Ban hành: 27/03/2025
Cấp xét xử: Sơ thẩm
8
Ban hành: 27/03/2025
Cấp xét xử: Sơ thẩm
9
Ban hành: 26/03/2025
Cấp xét xử: Sơ thẩm
10
Ban hành: 26/03/2025
Cấp xét xử: Sơ thẩm
11
Ban hành: 26/03/2025
Cấp xét xử: Sơ thẩm
12
Ban hành: 26/03/2025
Cấp xét xử: Sơ thẩm
13
Ban hành: 26/03/2025
Cấp xét xử: Sơ thẩm
14
Ban hành: 26/03/2025
Cấp xét xử: Sơ thẩm
15
Ban hành: 25/03/2025
Cấp xét xử: Sơ thẩm
16
Ban hành: 25/03/2025
Cấp xét xử: Sơ thẩm
17
Bản án số 103/2025/DS-PT ngày 25/03/2025 của TAND cấp cao tại Đà Nẵng về tranh chấp hợp đồng hợp tác
Ban hành: 25/03/2025
Cấp xét xử: Sơ thẩm
18
Ban hành: 25/03/2025
Cấp xét xử: Sơ thẩm
19
Ban hành: 25/03/2025
Cấp xét xử: Sơ thẩm
20
Ban hành: 24/03/2025
Cấp xét xử: Sơ thẩm