Bản án số 82/2024/DS-ST ngày 12/11/2024 của TAND huyện An Biên, tỉnh Kiên Giang về tranh chấp quyền sử dụng đất
- Thuộc tính
- Nội dung
- VB gốc
- VB liên quan
- Lược đồ
- Đính chính
- Án lệ
- BA/QĐ cùng nội dung
- Tải về
Tải văn bản
-
Bản án số 82/2024/DS-ST
Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để tải file. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!
-
Bản án số 82/2024/DS-ST
Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để tải file. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!
Báo lỗi
Thuộc tính Bản án 82/2024/DS-ST
Tên Bản án: | Bản án số 82/2024/DS-ST ngày 12/11/2024 của TAND huyện An Biên, tỉnh Kiên Giang về tranh chấp quyền sử dụng đất |
---|---|
Quan hệ pháp luật: | Tranh chấp quyền sử dụng đất |
Cấp xét xử: | Sơ thẩm |
Tòa án xét xử: | TAND huyện An Biên (TAND tỉnh Kiên Giang) |
Số hiệu: | 82/2024/DS-ST |
Loại văn bản: | Bản án |
Ngày ban hành: | 12/11/2024 |
Lĩnh vực: | Dân sự |
Áp dụng án lệ: |
Đã biết
Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để xem áp dụng án lệ. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây! |
Đính chính: |
Đã biết
Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để xem đính chính. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây! |
Thông tin về vụ/việc: | Bà Đặng Thị Kim N, anh Lê Sang G, chị Lê Ngọc Q yêu cầu bà Lê Thị M, ông Lê Văn S trả lại quyền sử dụng đất. Bà Lê Thị M, ông Lê Văn S yêu cầu hủy giấy chứng nhận quyền sử dụng đất |
Tóm tắt Bản án
Nội dung tóm tắt đang được cập nhật, Quý khách vui lòng quay lại sau!
Tải văn bản

TÒA ÁN NHÂN DÂN
HUYỆN AN BIÊN
TỈNH KIÊN GIANG
Bản án số: 82/2024/DS-ST
Ngày: 12-11-2024
“V/v Tranh chấp Quyền sử dụng
đất và yêu cầu hủy giấy chứng
nhận quyền sử dụng đất”
CỘNG HOÀ XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM
Độc lập - Tự do - Hạnh phúc
NHÂN DANH
NƯỚC CỘNG HÒA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM
TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN AN BIÊN, TỈNH KIÊN GIANG
- Thành phần Hội đồng xét xử sơ thẩm gồm có:
Thẩm phán - Chủ tọa phiên tòa: Ông Trần Văn Thảo
Các Hội thẩm nhân dân:
1. Bà Nguyễn Thanh Nguyên
2. Bà Nguyễn Ngọc Duyên
- Thư ký phiên tòa: Bà Võ Thúy Kiều - Thư ký Tòa án nhân dân huyện An
Biên, tỉnh Kiên Giang.
- Đại diện Viện kiểm sát nhân dân huyện An Biên, tỉnh Kiên Giang tham
gia phiên tòa: Bà Lai Thị Ngọc Thúy - Kiểm sát viên.
Ngày 12 tháng 11 năm 2024, tại trụ sở Tòa án nhân dân huyện An Biên
tỉnh Kiên Giang xét xử sơ thẩm công khai vụ án thụ lý số: 139/2022/TLST-DS
ngày 27 tháng 10 năm 2022 về việc tranh chấp quyền sử dụng đất và yêu cầu hủy
giấy chứng nhận quyền sử dụng đất theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số:
89/2024/QĐXXST-DS ngày 10 tháng 4 năm 2024, Quyết định hoãn phiên tòa số:
62/2024/QĐST-DS ngày 08 tháng 5 năm 2024, Thông báo về việc thay đổi thời
gian mở phiên tòa số: 09/2024/TB-TĐTG ngày 30 tháng 5 năm 2024 và Thông
báo về việc mở phiên tòa xét xử số: 09/2024/TB-MPT ngày 15 tháng 10 năm
2024, giữa các đương sự:
1. Nguyên đơn: - Bà Đặng Thị Kim N, sinh ngày 01/01/1975 (có mặt);
- Anh Lê Sang G, sinh ngày 19/12/1999 (có mặt);
- Chị Lê Ngọc Q, sinh ngày 24/9/2002 (có mặt);
2. Bị đơn: - Bà Lê Thị M, sinh ngày 01 tháng 01 năm 1973 (có mặt);
Cùng địa chỉ: ấp 6B, xã N, huyện AB, tỉnh Kiên Giang.
- Ông Lê Văn S, sinh ngày 01 tháng 01 năm 1969 (có mặt);
2
Địa chỉ: ấp HH, xã SH, huyện KL, tỉnh Kiên Giang. Nơi Làm việc: Trạm y
tế xã SH, huyện KL, tỉnh Kiên Giang.
3. Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan:
- Bà Lê Thị V, sinh ngày 01 tháng 01 năm 1963 (có mặt);
- Ông Lê Văn L, sinh năm 1964;
Người đại diện hợp pháp của người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan ông
Lê Văn L: Ông Lê Văn R, sinh năm 1969, đại diện theo giấy ủy quyền ngày
04/12/2023 (có mặt);
- Ông Lê Văn R, sinh năm 1969 (có mặt);
Cùng địa chỉ: ấp 6B, xã N, huyện AB, tỉnh Kiên Giang.
- Bà Lê Thị N, sinh năm 1980;
Địa chỉ: Sn G4/42 ĐTM, phường AH, Tp RG, tỉnh Kiên Giang.
Người đại diện hợp pháp của người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan bà Lê
Thị N: Bà Lê Thị M, sinh ngày 01 tháng 01 năm 1973, đại diện theo giấy ủy
quyền ngày 04/12/2023 (có mặt);
Địa chỉ: ấp 6B, xã N, huyện AB, tỉnh Kiên Giang.
NỘI DUNG VỤ ÁN:
* Trong đơn khởi kiện ngày 30 tháng 8 năm 2022, đơn khởi kiện ngày 27
tháng 10 năm 2022, đơn khởi kiện bổ sung ngày 14 tháng 9 năm 2023 và trong
quá trình giải quyết vụ án, nguyên đơn bà Đặng Thị Kim N, anh Lê Sang G, chị
Lê Ngọc Q trình bày và yêu cầu như sau:
Vào năm 1999, bà Đặng Thị Kim N và ông Lê Văn G1 (chết tháng 8/2015)
chung sống với nhau được ông Lê Văn K cha ruột của ông Lê Văn G1 chia cho
diện tích đất 2.708 mét vuông, khi đó có làm các thủ tục cấy Giấy chứng nhận
quyền sử dụng đất quyền sở hữu nhà ở và tài sản gắn liền với đất số: CI 659238,
thửa đất số: 01, tờ bản đồ số: 43 - 2017, số vào số cấp GCN: CS 53763, địa chỉ
thửa đất: ấp 6B, xã N, huyện AB, tỉnh Kiên Giang, ngày 13/7/2017 của Sở Tài
nguyên và Môi trường tỉnh Kiên Giang cấp cho người sử dụng đất bà Đặng Thị
Kim N, bà và anh chị sử dụng ổn định đến tháng 7 năm 2022 thì ông Lê Văn S và
bà Lê Thị M vào diện tích đất thuộc quyền sở hữu của bà và anh chị dùng trụ bê
tông cấm làm cột hàng rào lấn chiếm đất của bà và anh chị. Sau khi sự việc xảy
ra bà và anh chị yêu cầu Ủy ban nhân dân xã NT giải quyết nhưng không thành.
Nay bà và anh chị yêu cầu Tòa án nhân dân huyện An Biên công nhận quyền sử
dụng diện tích đất tranh chấp 157,4 mét vuông, tọa lạc tại ấp 6B, xã N, huyện
AB, tỉnh Kiên Giang cho bà và anh chị; buộc bà Lê Thị M và ông Lê Văn S phải
3
tháo gở toàn bộ cột hàng rào (trụ đá) trả lại cho bà và anh chị diện tích đất lấn
chiếm 157,4 mét vuông, tọa lạc tại ấp 6B, xã N, huyện AB, tỉnh Kiên Giang,
ngoài ra bà và anh chị không yêu cầu gì khác.
* Tại đơn phản tố ngày 04 tháng 12 năm 2023 và trong quá trình giải
quyết vụ án, bị đơn bà Lê Thị M trình bày và yêu cầu như sau:
Diện tích đất tranh chấp là của ông Lê Văn K, trước đây ông Lê Văn K có
cho ông Lê Văn G1 là chồng và cha của bà Đặng Thị Kim N, anh Lê Sang G, chị
Lê Ngọc Q chiều ngang giáp kênh Chống Mỹ và giáp lộ mỗi cạnh đều 36 mét
(Một công ngang), sau khi ông Lê Văn G1 chết thì bà Đặng Thị Kim N, anh Lê
Sang G, chị Lê Ngọc Q làm các thủ tục chuyển quyền sử dụng đất được cấp Giấy
chứng nhận quyền sử dụng đất nói trên là xéo và thừa. Nay bà yêu cầu hủy giấy
chứng nhận quyền sử dụng đất cấp cho bà Đặng Thị Kim N, thửa đất số 01, tờ
bản đồ số 43-2017, diện tích 2.708 mét vuông, của Sở Tài nguyên và Môi trường
tỉnh Kiên Giang cấp ngày 13 tháng 7 năm 2017, đất tọa lạc tại ấp 6B, xã N, huyện
AB, tỉnh Kiên Giang. Ngoài ra, bà yêu cầu giám định chữ ký chữ viết mang tên
ông Lê Văn K trên văn bản phân chia tài sản thừa kế ngày 07 tháng 06 năm 2017,
bà không yêu cầu gì khác.
* Tại đơn phản tố ngày 04 tháng 12 năm 2023 và trong quá trình giải
quyết vụ án, bị đơn ông Lê Văn S trình bày như sau:
Ông là con của ông Lê Văn K và là có quyền lợi liên quan đối với diện đất
trước đây cho ông Lê Văn G1 là chồng và cha của bà Đặng Thị Kim N, anh Lê
Sang G, chị Lê Ngọc Q hiện nay sử dụng, chứng kiến cấm móc giới ranh đất, ông
là nhân chứng sống, Nhà nước cấp Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất cho bà
Đặng Thị Kim N không đúng hiện trạng ban đầu đã cho là chiều ngang giáp kênh
Chống Mỹ và giáp lộ mỗi cạnh đều 36 mét (Một công ngang), không đảm bảo
tính pháp lý. Do đó, ông thống nhất yêu cầu hủy giấy chứng nhận quyền sử dụng
đất cấp cho bà Đặng Thị Kim N, thửa đất số 01, tờ bản đồ số 43-2017, diện tích
2.708 mét vuông, của Sở tài nguyên và Môi trường tỉnh Kiên Giang cấp ngày 13
tháng 7 năm 2017, đất tọa lạc tại ấp 6B, xã N, huyện AB, tỉnh Kiên Giang, ngoài
ra ông không yêu cầu gì khác.
* Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan ông Lê Văn R và bà Lê Thị V
trình bày như sau:
Thống nhất ý kiến trình bày và yêu cầu của bị đơn bà Lê Thị M, ông Lê
Văn S nêu trên là diện tích đất tranh chấp của ông Lê Văn K, trước đây ông Lê
Văn K có cho ông Lê Văn G1 là chồng và cha của bà Đặng Thị Kim N, anh Lê
Sang G, chị Lê Ngọc Q chiều ngang giáp kênh Chống Mỹ và giáp lộ mỗi cạnh
4
đều 36 mét (Một công ngang), sau khi ông Lê Văn G1 chết thì bà Đặng Thị Kim
N, anh Lê Sang G, chị Lê Ngọc Q làm các thủ tục chuyển quyền sử dụng đất
không có ký giáp ranh, chữ ký chuyển nhượng quyền sử dụng đất của người ký
giáp ranh mang tên ông Lê Văn K là không phải do ông Lê Văn K ký và viết ra,
việc tặng cho đất trước đó chiều ngang giáp kênh Chống Mỹ và giáp lộ mỗi cạnh
đều 36 mét (Một công ngang), diện tích sử dụng thực tế và được cấp Giấy chứng
nhận quyền sử dụng đất nói trên là xéo. Nay ông bà thống nhất hủy giấy chứng
nhận quyền sử dụng đất cấp cho bà Đặng Thị Kim N, thửa đất số 01, tờ bản đồ số
43-2017, diện tích 2.708 mét vuông, của Sở Tài nguyên và Môi trường tỉnh Kiên
Giang cấp ngày 13 tháng 7 năm 2017, đất tọa lạc tại ấp 6B, xã N, huyện AB, tỉnh
Kiên Giang, ngoài ra ông bà không yêu cầu gì khác, ông bà không yêu cầu giải
quyết gì cho ông bà.
* Tại Công văn số: 405/STNMT-VPĐK ngày 20 tháng 3 năm 2023 của Sở
Tài nguyên và Môi trường tỉnh Kiên Giang như sau:
Sở Tài nguyên và Môi trường nhận được Công văn số 16/2023/CV-TA
ngày 13/02/2023 của Tòa án nhân dân huyện An Biên yêu cầu trả lời việc cấp
Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất giữa nguyên đơn là bà Đặng Thị Kim N và
bị đơn là bà Lê Thị M đối với diện tích đất tranh chấp tại ấp 6B, xã N, huyện AB,
tỉnh Kiên Giang. Qua xem xét các nội dung công văn, đối chiếu với hồ sơ lưu trữ
và các quy định pháp luật có liên quan, Sở Tài nguyên và Môi trường có ý kiến
như sau: Nguồn gốc khu đất tại ấp 6B, xã N, huyện AB, tỉnh Kiên Giang được
Ủy ban nhân dân huyện AB cấp Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất số: BV
060484 ngày 16/01/2015 cho ông Lê Văn G1 với diện tích 2.708 mét vuông (gồm
50 mét vuông đất ở tại nông thôn và 2.658 mét vuông đất trồng cây lâu năm),
thuộc thửa đất số: 239-C, tờ bản đồ số 16-1. Tháng 8/2015, ông Lê Văn G1 chết,
bà Đặng Thị Kim N lập thủ tục khai nhận thừa kế theo Văn bản phân chia thừa kế
được Ủy ban nhân dân xã NT chứng thực số: 230 quyển số 1,TP/CC/SCT/HĐGD
ngày 07/6/2017, thửa đất số 01, tờ bản đồ 43-2017, diện tích 2.708 mét vuông,
được xác định theo Tờ trích đo địa chính số: TĐ 43-2017 do Chi nhánh Văn
phòng đăng ký đất đai huyện AB lập ngày 18/5/2017 và được Sở Tài nguyên và
Môi trường cấp Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất số: CI 659238 ngày
13/7/2017.
Thứ nhất, về diện tích đất tranh chấp 157,4 mét vuông có các cạnh 6-7-8-9-
17-16- 15-14 theo Tờ trích đo địa chính số: TĐ 09-2023: Căn cứ tọa độ các đỉnh
thửa đất theo Tờ trích đo địa chính số: TĐ 09-2023 kèm theo Công văn của Tòa
án nhân dân huyện An Biên và hồ sơ lưu trữ thì diện tích tranh chấp 157,4 mét
5
vuông thuộc thửa đất số 01, tờ bản đồ số 43-2017 được Sở Tài nguyên và Môi
trường cấp Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất số: CI 659238 ngày 13/7/2017
cho bà Đặng Thị Kim N.
Thứ hai, Sở Tài nguyên và Môi trường cấp đổi Giấy chứng nhận quyền sử
dụng đất cho bà Đặng Thị Kim N theo thủ tục nhận thừa kế trên cơ sở Giấy
chứng nhận quyền sử dụng đất số: BV 060484 được Ủy ban nhân dân huyện AB
cấp ngày 16/01/2015 cho ông Lê Văn G1 và Văn bản phân chia thừa kế được Ủy
ban nhân dân xã NT chứng thực số: 230 quyển số 1,TP/CC/SCT/ HĐGD ngày
07/6/2017. Trình tự thủ tục cấp đổi Giấy chứng nhận cho bà Đặng Thị Kim N
phù hợp quy định tại Điều 79 của Nghị định số 43/2014/NĐ-CP ngày 15/5/2014
của Chính phủ quy định chi tiết thi hành một số điều của Luật đất đai. Tại thời
điểm cấp Giấy chứng nhận, chủ sử dụng đất không nộp hồ sơ đề nghị cấp quyền
sở hữu nhà ở hay tài sản khác gắn liền với đất.
* Tài liệu, chứng cứ thu thập được có trong hồ sơ vụ án gồm: Giấy chứng
nhận quyền sử dụng đất quyền sở hữu nhà ở và tài sản khác gắn liền với đất số:
CI 659238, số tờ bản đồ: 43-2017, số thửa: 01, diện tích 2.708 mét vuông, vào sổ
cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất số: CS 53763, ngày 13/7/2017 của Sở
Tài nguyên và Môi trường tỉnh Kiên Giang cấp cho bà Đặng Thị Kim N (Bản
sao); Đơn yêu cầu giải quyết tranh chấp đất ngày 02/8/2022 của bà Đặng Thị
Kim N (Bản chính); Biên bản về việc hòa giải tranh chấp đất đai ngày 05/8/2022
của xã Nam Thái (Bản chính); Biên bản về việc đo đạc đất tranh chấp ngày
02/8/2022 của xã Nam Thái (Bản chính); Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất
quyền sở hữu nhà ở và tài sản khác gắn liền với đất số: BV 060484, số tờ bản đồ:
16-1, thửa đất số: 239-C, diện tích 2.708 mét vuông, số vào sổ GCN: CH 00023,
ngày 16/01/2015 của Ủy ban nhân dân huyện AB cấp cho ông Lê Văn G1, đến
ngày 19/6/2017 thay đổi thửa: 239-C, tờ 16-1 thành thửa số: 01, tờ TĐ 43-2017
(Bản sao); Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất quyền sở hữu nhà ở và tài sản
khác gắn liền với đất số: BV 060483, số tờ bản đồ: 16-1, thửa đất số: 238- B, diện
tích 2.053 mét vuông, số vào sổ GCN: CH 00024 ngày 16/01/2015 của Ủy ban
nhân dân huyện AB cấp cho ông Lê Văn G1, đến ngày 19/6/2017 thay đổi thửa:
238-B, tờ 16-1, DT: 2.053 mét vuông thành thửa số 01, tờ TĐ 44-2017, DT:
2.096,4 mét vuông, do đo đạc lại ngày 11/5/2017 (Bản sao); Văn bản phân chia
tài sản thừa kế ngày 07/6/2017 (Bản sao); Bản mô tả ranh giới, mốc giới thửa đất
ngày 11/5/2017 (Bản sao); Đơn xin đăng ký thừa kế quyền sử dụng đất ngày
23/5/2017 (Bản sao); Trích lục khai tử số 185/TLKT-BS ngày 21/4/2017 (Bản
sao); Tờ trích đo địa chính số: TĐ43-2017 ngày 18/5/2017 (Bản sao); Tờ trích đo
6
địa chính số: TĐ44-2017 ngày 22/5/2017 (Bản sao); 01 Biên bản họp gia đình
ngày 08/11/2022 của bà Lê Thị V, ông Lê Văn L, ông Lê Văn S, ông Lê Văn R,
bà Lê Thị M và bà Lê Thị N (Bản chính); Biên bản xem xét, thẩm định tại chỗ
ngày 21 tháng 12 năm 2022 của Tòa án nhân dân huyện An Biên, tỉnh Kiên
Giang (Bản chính); Tờ trích đo địa chính số: TĐ 09-2023 (24-43) ngày 11 tháng
01 năm 2023 của Chi nhánh Văn phòng đăng ký đất đai huyện AB, tỉnh Kiên
Giang (Bản chính); Công văn số: 405/STNMT-VPĐK ngày 20 tháng 3 năm 2023
của Sở Tài nguyên và Môi trường tỉnh Kiên Giang (Bản chính); Biên bản khảo
sát định giá hiện trạng tài sản ngày 20/7/2023 của Công ty trách nhiệm hữu hạn
định giá tư vấn xây dựng Định Vượng (Bản sao); Chứng thư định giá số:
3053/CT-BĐS/ĐV ngày 20 tháng 7 năm 2023 của Công ty trách nhiệm hữu hạn
định giá tư vấn xây dựng Định Vượng (Bản chính); Hóa đơn giá trị gia tăng số:
00000036 ngày 01/8/2023 của Công ty trách nhiệm hữu hạn định giá tư vấn xây
dựng Định Vượng (Bản chính); Di chúc ngày 28/12/2019 (Bản sao); Biên bản chi
trả tiền bồi thường đất đai, vật kiến trúc và hỗ trợ số: 5 năm 2015 (Bản sao); Hợp
đồng tặng cho Quyền sử dụng đất và tài sản gắn liền với đất ngày 09/6/2014 (Bản
sao); Hợp đồng tặng cho Quyền sử dụng đất và tài sản gắn liền với đất ngày
09/6/2014 (Bản sao); Hợp đồng tặng cho Quyền sử dụng đất và tài sản gắn liền
với đất ngày 09/6/2014 (Bản sao); Đơn đề nghị cấp lại, cấp đổi Giấy chứng nhận
Quyền sử dụng đất, quyền sở hữu nhà ở và tài sản gắn liền với đất ngày
09/6/2014 (Bản sao); Đơn xin tách thửa đất, hợp thửa đất ngày 09/6/2014 (Bản
sao); Đơn đăng ký biến động đất đai, tài sản gắn liền với đất ngày 09/6/2014 (Bản
sao); Bản mô tả ranh giới, móc giới thửa đất ngày 05/6/2014 (Bản sao); Bản mô
tả ranh giới, móc giới thửa đất ngày 05/6/2014 (Bản sao); Tờ khai chứng minh
nhân dân ngày 20/6/1980 của Công an tỉnh Kiên Giang (Bản sao); Kết luận giám
định số: 949/KL-KTHS ngày 12 tháng 9 năm 2024 của Phòng kỹ thuật hình sự
Công an tỉnh Kiên Giang (Bản chính); Biên lai thu tiền phí lệ phí ngày 03 tháng 7
năm 2024 (Bản chính) và Biên nhận tiền bồi dưỡng giám định ngày 20 tháng 9
năm 2024 (Bản chính).
* Tại phiên tòa:
Nguyên đơn bà Đặng Thị Kim N, anh Lê Sang G, chị Lê Ngọc Q yêu cầu
Tòa án nhân dân huyện An Biên công nhận quyền sử dụng diện tích đất tranh
chấp 157,4 mét vuông, tọa lạc tại ấp 6B, xã N, huyện AB, tỉnh Kiên Giang thuộc
quyền sử dụng của bà và anh chị; buộc bà Lê Thị M và ông Lê Văn S phải tháo
gở 04 trụ đá (toàn bộ cột hàng rào) trả lại cho bà và anh chị diện tích đất lấn
chiếm 157,4 mét vuông, tọa lạc tại ấp 6B, xã N, huyện AB, tỉnh Kiên Giang,
7
ngoài ra bà và anh chị không yêu cầu gì khác.
Bị đơn bà Lê Thị M xác định, trước đây ông Lê Văn K có cho ông Lê Văn
G1 là chồng và cha của bà Đặng Thị Kim N, anh Lê Sang G, chị Lê Ngọc Q
chiều ngang giáp Kênh Chống Mỹ và giáp lộ (nay là đường tỉnh 964) mỗi cạnh
đều 36 mét (Một công ngang), sau khi ông Lê Văn G1 chết thì bà Đặng Thị Kim
N, anh Lê Sang G, chị Lê Ngọc Q làm các thủ tục chuyển quyền sử dụng đất, tại
Văn bản phân chia tài sản thừa kế ngày 07 tháng 06 năm 2017, chữ ký chữ viết
mang tên ông Lê Văn K là không phải do ông Lê Văn K ký và viết ra. Nay bà yêu
cầu hủy giấy chứng nhận quyền sử dụng đất cấp cho bà Đặng Thị Kim N, thửa
đất số 01, tờ bản đồ số 43-2017, diện tích 2.708 mét vuông, tọa lạc tại ấp 6B, xã
N, huyện AB, tỉnh Kiên Giang do Sở tài nguyên và Môi trường tỉnh Kiên Giang
cấp ngày 13 tháng 7 năm 2017. Tại phiên tòa hôm nay bà Lê Thị M đồng ý tự
nguyện di dời 04 cây trụ đá trả lại toàn bộ diện tích đất nói trên cho bà Đặng Thị
Kim N, bà rút lại toàn bộ yêu cầu khởi kiện.
Bị đơn ông Lê Văn S và người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan ông Lê
Văn R và bà Lê Thị V thống nhất theo trình bày và yêu cầu của bà Lê Thị M hủy
giấy chứng nhận quyền sử dụng đất cấp cho bà Đặng Thị Kim N, thửa đất số 01,
tờ bản đồ số 43-2017, diện tích 2.708 mét vuông tọa lạc tại ấp 6B, xã N, huyện
AB, tỉnh Kiên Giang do Sở tài nguyên và Môi trường tỉnh Kiên Giang cấp ngày
13 tháng 7 năm 2017, ngoài ra ông bà không yêu cầu gì khác. Tại phiên tòa hôm
nay ông Lê Văn S đồng ý tự nguyện di dời 04 cây trụ đá trả lại toàn bộ diện tích
đất nói trên cho bà Đặng Thị Kim N.
Đại diện Viện kiểm sát phát biểu quan điểm:
- Về thủ tục tố tụng: Từ khi thụ lý vụ án cho đến khi đưa vụ án ra xét xử và
tại phiên tòa hôm nay, Thẩm phán, Hội thẩm nhân dân, Thư ký Tòa án thực hiện
đúng các trình tự thủ tục pháp luật tố tụng dân sự. Các đương sự thực hiện đầy đủ
quyền và nghĩa vụ của mình theo quy định của pháp luật tố tụng dân sự.
- Về nội dung vụ án: Xét khởi kiện của nguyên đơn bà Đặng Thị Kim N,
anh Lê Sang G và chị Lê Ngọc Q yêu cầu Tòa án nhân dân huyện An Biên công
nhận quyền sử dụng đất và buộc bà Lê Thị M và ông Lê Văn S phải tháo gở 04
trụ đá (toàn bộ cột hàng rào) trả lại cho bà và anh chị diện tích đất lấn chiếm
157,4 mét vuông, tọa lạc tại ấp 6B, xã N, huyện AB, tỉnh Kiên Giang là có cơ sở
chấp nhận; Xét yêu cầu phản tố bị đơn bà Lê Thị M và trình bày bị đơn ông Lê
Văn S và người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan ông Lê Văn R và bà Lê Thị V
thống nhất yêu cầu hủy giấy chứng nhận quyền sử dụng đất cấp cho bà Đặng Thị
Kim N, thửa đất số 01, tờ bản đồ số 43-2017, diện tích 2.708 mét vuông, tọa lạc
8
tại ấp 6B, xã N, huyện AB, tỉnh Kiên Giang do Sở tài nguyên và Môi trường tỉnh
Kiên Giang cấp ngày 13 tháng 7 năm 2017 là không có cơ sở chấp nhận. Tại
phiên tòa hôm nay bà Lê Thị M rút lại toàn bộ yêu cầu phản tố, bà Lê Thị M và
ông Lê Văn S tự nguyện di dời 04 cây trụ đá trả lại toàn bộ diện tích đất nói trên
cho bà Đặng Thị Kim N đề nghị đình chỉ xét xử phần bà Lê Thị M rút lại toàn bộ
yêu cầu phản tố theo quy định tại khoản 2 Điều 244 của Bộ luật tố tụng dân sự.
NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN:
Sau khi nghiên cứu các tài liệu có trong hồ sơ vụ án, được thẩm tra tại
phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định:
[1] Về thẩm quyền giải quyết vụ án: Nguyên đơn bà Đặng Thị Kim N, anh
Lê Sang G, chị Lê Ngọc Q yêu cầu công nhận quyền sử dụng đất, buộc bị đơn bà
Lê Thị M và ông Lê Văn S phải tháo gở toàn bộ cột hàng rào (trụ đá) trả lại đất
lấn chiếm; bị đơn bà Lê Thị M yêu cầu hủy Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất.
Nguyên đơn và bị đơn bà Lê Thị M đều cư trú tại ấp 6B, xã N, huyện AB, tỉnh
Kiên Giang và diện tích đất tranh chấp tại xã Nam Thái, huyện An Biên, tỉnh
Kiên Giang nên xác định đây là tranh chấp đất đai theo quy định của pháp luật về
đất đai thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa án nhân dân huyện An Biên theo
quy định tại khoản 9 Điều 26, điểm a khoản 1 Điều 35 và điểm a, điểm c khoản 1
Điều 39 của Bộ luật tố tụng dân sự.
[2] Về thủ tục tố tụng: Khi khởi kiện nguyên đơn và bị đơn không khởi
kiện đối với người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan bà Lê Thị V, ông Lê Văn L,
ông Lê Văn S, ông Lê Văn R, trong quá trình giải quyết vụ án bị đơn cung cấp
cho Tòa án Biên bản họp gia đình ngày 08 tháng 11 năm 2022 của bà Lê Thị V,
ông Lê Văn L, ông Lê Văn S, ông Lê Văn Rul, bà Lê Thị M và bà Lê Thị N nên
Tòa án đưa bà Lê Thị V, ông Lê Văn L, ông Lê Văn Rul vào tham gia tố tụng với
tư cách là người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan theo quy định tại khoản 4 Điều
68 của Bộ luật tố tụng dân sự.
Sau khi Tòa án Quyết định đưa vụ án ra xét xử thì bị đơn bà Lê Thị M gửi
đơn yêu cầu hoãn phiên toà và sau đó gửi đơn yêu cầu Tòa án trưng cầu giám
định chữ ký và chữ viết mang tên ông Lê Văn K. Vì vậy, Toà án thay đổi thời
gian mở phiên tòa, sau khi có kết luận giám định Tòa án tiến hành thông báo mở
phiên tòa xét xử vụ án, tại phiên tòa hôm nay các đương sự, người đại diện hợp
pháp và bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của đương sự có mặt đủ, Hội đồng xét
xử tiến hành xét xử vụ án theo thủ tục chung.
9
[3] Xét về nội dung: Xét khởi kiện của bà Đặng Thị Kim N, anh Lê Sang G
và chị Lê Ngọc Q yêu cầu Tòa án nhân dân huyện An Biên công nhận quyền sử
dụng đất và buộc bà Lê Thị M và ông Lê Văn S phải tháo gở toàn bộ cột hàng rào
(trụ đá) trả lại cho bà và anh chị diện tích đất lấn chiếm 157,4 mét vuông, tọa lạc
tại ấp 6B, xã N, huyện AB, tỉnh Kiên Giang theo Tờ trích đo địa chính số: TĐ09-
2023 (24-43) ngày 11 tháng 01 năm 2023 của Chi nhánh Văn phòng đăng ký đất
đai huyện AB, tỉnh Kiên Giang. Hội đồng xét xử thấy rằng, qua trình bày và yêu
cầu của các đương sự cùng các tài liệu, chứng cứ có trong hồ sơ vụ án, diện tích
đất tranh chấp 157,4 mét vuông bà Đặng Thị Kim N, anh Lê Sang G và chị Lê
Ngọc Q yêu cầu công nhận nằm trong diện tích đất ông Lê Văn K tặng cho ông
Lê Văn G1 theo Hợp đồng tặng cho quyền sử dụng đất và tài sản gắn liền với đất
ngày 09 tháng 6 năm 2024 và được cấp Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất,
quyền sở hữu nhà ở và tài sản khác gắn liền với đất số: BV 060484, số tờ bản đồ:
16-1, thửa đất số: 239-C, diện tích 2.708 mét vuông, số vào sổ GCN: CH 00023
ngày 16/01/2015 của Ủy ban nhân dân huyện AB cấp cho ông Lê Văn G1, đến
ngày 19/6/2017 thay đổi thửa 239-C, tờ 16-1 thành thửa số 01, tờ bản đồ số:
TĐ43-2017. Ông Lê Văn G1 chết ngày 12 tháng 8 năm 2015 thì đến ngày 07
tháng 6 năm 2017 ông Lê Văn K, bà Đặng Thị Kim N, anh Lê Sang G và chị Lê
Ngọc Q hàng thừa kế thứ nhất của ông Lê Văn G1 lập các thủ tục thừa kế giao
quyền sử dụng đất nói trên cho bà Đặng Thị Kim N sử dụng được cấp Giấy
chứng nhận quyền sử dụng đất quyền sở hữu nhà ở và tài sản khác gắn liền với
đất số CI 659238, số tờ bản đồ: 43-2017, số thửa: 01, diện tích 2.708 mét vuông,
vào sổ cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất số: CS 53763 ngày 13/7/2017 của
Sở Tài nguyên và Môi trường tỉnh Kiên Giang, trình tự, thủ tục, đúng thành phần
và đối tượng theo quy định pháp luật là hợp pháp. Đồng thời, bị đơn bà Lê Thị M
không thừa nhận chữ ký mang tên ông Lê Văn K trên Văn bản thừa kế ngày 07
tháng 6 năm 2017, qua Kết luận giám định số: 949/KL-KTHS ngày 12 tháng 9
năm 2024 của Phòng kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Kiên Giang kết luận chữ ký
mang tên Lê Khâm trên mẫu cần giám định ký hiệu A so với chữ ký mang tên Lê
Văn K trên các mẫu so sánh ký hiệu từ M3 đến M14 do cùng một người ký ra.
Ngoài ra, tại Công văn số: 405/STNMT-VPĐK ngày 20 tháng 3 năm 2023 của
Sở Tài nguyên và Môi trường tỉnh Kiên Giang xác định diện tích đất tranh chấp
157,4 mét vuông có các cạnh 6-7-8-9-17-16- 15-14 theo Tờ trích đo địa chính số:
TĐ 09-2023 (24-43) ngày 11 tháng 01 năm 2023 của Chi nhánh Văn phòng đăng
ký đất đai huyện AB, tỉnh Kiên Giang thuộc thửa đất số 01, tờ bản đồ số 43-2017
được Sở Tài nguyên và Môi trường cấp Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất số:
10
CI 659238 ngày 13/7/2017 cho bà Đặng Thị Kim N. Do đó, bà Đặng Thị Kim N,
anh Lê Sang G và chị Lê Ngọc Q yêu cầu công nhận quyền sử dụng diện tích đất
lấn chiếm 157,4 mét vuông, tọa lạc tại ấp 6B, xã N, huyện AB, tỉnh Kiên Giang
theo Tờ trích đo địa chính số: TĐ09-2023 (24-43) ngày 11 tháng 01 năm 2023
của Chi nhánh Văn phòng đăng ký đất đai huyện AB, tỉnh Kiên Giang thuộc
quyền sử dụng của bà Đặng Thị Kim N là có cơ sở chấp nhận nên buộc bà Lê Thị
M và ông Lê Văn S phải tháo gở 04 trụ đá (toàn bộ cột trụ đá) trả lại cho bà Đặng
Thị Kim N diện tích đất lấn chiếm là 157,4 mét vuông, tọa lạc tại ấp 6B, xã N,
huyện AB, tỉnh Kiên Giang theo Tờ trích đo địa chính số: TĐ09-2023 (24-43)
ngày 11 tháng 01 năm 2023 của Chi nhánh Văn phòng đăng ký đất đai huyện AB,
tỉnh Kiên Giang, cụ thể vị trí như sau: Cạnh 9-17 giáp Biên giải phóng mặt bằng
ngang là 3,85 mét; Cạnh 6-14 giáp bờ kênh Chống Mỹ ngang là 1,98 mét; Cạnh
9-8-7-6 giáp đất bà Đặng Thị Kim N, anh Lê Sang G và chị Lê Ngọc Q đang sử
dụng dài là 54,31 mét (6,47m + 43,81m + 4,03m); Cạnh 17-16-15-14 giáp giáp
đất bà Lê Thị M dài là 54,32 mét (6,35m + 43,92m + 4,05m).
Xét yêu cầu phản tố bị đơn bà Lê Thị M và trình bày bị đơn ông Lê Văn S
và người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan ông Lê Văn R và bà Lê Thị V xác định,
trước đây ông Lê Văn K có cho ông Lê Văn G1 là chồng và cha của bà Đặng Thị
Kim N, anh Lê Sang G, chị Lê Ngọc Q chiều ngang giáp Kênh Chống Mỹ và
giáp lộ (nay là đường tỉnh 964) mỗi cạnh đều 36 mét (Một công ngang), sau khi
ông Lê Văn G1 chết thì bà Đặng Thị Kim N, anh Lê Sang G, chị Lê Ngọc Q làm
các thủ tục chuyển quyền sử dụng đất, tại Văn bản phân chia tài sản thừa kế ngày
07 tháng 06 năm 2017, chữ ký chữ viết mang tên ông Lê Văn K là không phải do
ông Lê Văn K ký và viết ra, yêu cầu hủy Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất
quyền sở hữu nhà ở và tài sản khác gắn liền với đất số: CI 659238, số tờ bản đồ:
43-2017, số thửa: 01, diện tích 2.708 mét vuông, vào sổ cấp giấy chứng nhận
quyền sử dụng đất số: CS 53763, ngày 13/7/2017 của Sở Tài nguyên và Môi
trường tỉnh Kiên Giang cấp cho bà Đặng Thị Kim N. Hội đồng xét xử thấy rằng,
Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất quyền sở hữu nhà ở và tài sản khác gắn liền
với đất số: CI 659238, số tờ bản đồ: 43-2017, số thửa: 01, diện tích 2.708 mét
vuông, vào sổ cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất số: CS 53763, ngày
13/7/2017 của Sở Tài nguyên và Môi trường tỉnh Kiên Giang cấp cho bà Đặng
Thị Kim N không phải cấp lần đầu mà cấp theo thủ tục thừa kế, đúng trình tự thủ
tục, đúng đối tượng hàng thừa kế thứ nhất là hợp pháp, sử dụng ổn định đến
tháng 7 năm 2022 thì bà Lê Thị M và ông Lê Văn S vào cấm 04 trụ đá làm hàng
rào cho rằng đất của bà Lê Thị M, tại Kết luận giám định số: 949/KL-KTHS ngày
11
12 tháng 9 năm 2024 của Phòng kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Kiên Giang kết
luận chữ ký mang tên Lê Khâm trên mẫu cần giám định ký hiệu A so với chữ ký
mang tên Lê Văn K trên các mẫu so sánh ký hiệu từ M3 đến M14 do cùng một
người ký ra. Đồng thời, bà Lê Thị M và ông Lê Văn S không cung cấp được văn
bản, tài liệu, chứng cứ gì chứng minh là quyền sử dụng đất nói trên của ông bà.
Ngoài ra, trong quá trình giải quyết vụ án, bà Lê Thị M và ông Lê Văn S không
hợp tác, không chỉ đo đạc cho Tòa án xem xét, thẩm định tại chỗ diện tích đất bà
Lê Thị M là bà Lê Thị M và ông Lê Văn S tự từ bỏ quyền lợi của ông bà theo quy
định tại các khoản 5, khoản 7 và khoản 25 Điều 70 của Bộ luật tố tụng dân sự. Do
đó, không có cơ sở chấp nhận yêu cầu phản tố của bị đơn bà Lê Thị M và trình
bày bị đơn ông Lê Văn S và người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan ông Lê Văn
R và bà Lê Thị V nên bác toàn bộ yêu cầu phản tố của bị đơn bà Lê Thị M yêu
cầu hủy Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất quyền sở hữu nhà ở và tài sản khác
gắn liền với đất số: CI 659238, số tờ bản đồ: 43-2017, số thửa: 01, diện tích 2.708
mét vuông, vào sổ cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất số: CS 53763, ngày
13/7/2017 của Sở Tài nguyên và Môi trường tỉnh Kiên Giang cấp cho bà Đặng
Thị Kim N.
Tại phiên tòa hôm nay, bà Lê Thị M rút lại toàn bộ yêu cầu phản tố, bà Lê
Thị M và ông Lê Văn S tự nguyện di dời 04 cây trụ đá trả lại toàn bộ diện tích đất
nói trên cho bà Đặng Thị Kim N nên đình chỉ xét xử phần bà Lê Thị M rút lại
toàn bộ yêu cầu phản tố về yêu cầu hủy Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất
quyền sở hữu nhà ở và tài sản khác gắn liền với đất số: CI 659238, số tờ bản đồ:
43-2017, số thửa: 01, diện tích 2.708 mét vuông, vào sổ cấp giấy chứng nhận
quyền sử dụng đất số: CS 53763, ngày 13/7/2017 của Sở Tài nguyên và Môi
trường tỉnh Kiên Giang cấp cho bà Đặng Thị Kim N theo quy định tại điểm c
khoản 1 Điều 217, khoản 2 Điều 244 của Bộ luật tố tụng dân sự.
Trong quá trình giải quyết vụ án, bị đơn bà Lê Thị M, ông Lê Văn S và
người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan ông Lê Văn R và bà Lê Thị V không có ý
kiến yêu cầu gì khác nên không xem xét.
Từ những cơ sở phân tích, chứng minh trên. Hội đồng xét xử căn cứ vào
các tài liệu, chứng cứ thu thập được theo quy định tại khoản 4 Điều 91 của Bộ
luật tố tụng dân sự, chấp nhận đề nghị của Kiểm sát viên, yêu cầu khởi kiện của
nguyên đơn bà Đặng Thị Kim N, anh Lê Sang G và chị Lê Ngọc Q, công nhận
quyền sử dụng diện tích đất lấn chiếm 157,4 mét vuông, tọa lạc tại ấp 6B, xã N,
huyện AB, tỉnh Kiên Giang theo Tờ trích đo địa chính số: TĐ09-2023 (24-43)
ngày 11 tháng 01 năm 2023 của Chi nhánh Văn phòng đăng ký đất đai huyện AB,
12
tỉnh Kiên Giang thuộc quyền sử dụng của bà Đặng Thị Kim N.
Buộc bị đơn bà Lê Thị M và ông Lê Văn S phải tháo gở 04 trụ đá (toàn bộ
trụ đá) trả lại cho bà Đặng Thị Kim N diện tích đất lấn chiếm là 157,4 mét vuông,
tọa lạc tại ấp 6B, xã N, huyện AB, tỉnh Kiên Giang theo Tờ trích đo địa chính số:
TĐ09-2023 (24-43) ngày 11 tháng 01 năm 2023 của Chi nhánh Văn phòng đăng
ký đất đai huyện AB, tỉnh Kiên Giang, cụ thể vị trí như sau: Cạnh 9-17 giáp Biên
giải phóng mặt bằng ngang là 3,85 mét; Cạnh 6-14 giáp bờ kênh Chống Mỹ
ngang là 1,98 mét; Cạnh 9-8-7-6 giáp đất bà Đặng Thị Kim N, anh Lê Sang G và
chị Lê Ngọc Q đang sử dụng dài là 54,31 mét (6,47m + 43,81m + 4,03m); Cạnh
17-16-15-14 giáp giáp đất bà Lê Thị M dài là 54,32 mét (6,35m + 43,92m +
4,05m).
Ghi nhận sự tự nguyện của bị đơn bà Lê Thị M và ông Lê Văn S tự di dời
04 cây trụ đá trả lại toàn bộ diện tích đất nói trên cho bà Đặng Thị Kim N và đình
chỉ xét xử phần bà Lê Thị M rút lại toàn bộ yêu cầu phản tố về yêu cầu hủy Giấy
chứng nhận quyền sử dụng đất quyền sở hữu nhà ở và tài sản khác gắn liền với
đất số: CI 659238, số tờ bản đồ: 43-2017, số thửa: 01, diện tích 2.708 mét vuông,
vào sổ cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất số: CS 53763, ngày 13/7/2017 của
Sở Tài nguyên và Môi trường tỉnh Kiên Giang cấp cho bà Đặng Thị Kim N theo
quy định tại điểm c khoản 1 Điều 217, khoản 2 Điều 244 của Bộ luật tố tụng dân
sự.
[4] Về chi phí tố tụng:
- Về chi phí xem xét, thẩm định tại chỗ là 661.500 đồng, yêu cầu của
nguyên đơn bà Đặng Thị Kim N, anh Lê Sang G và chị Lê Ngọc Q được chấp
nhận một phần nên bị đơn bà Lê Thị M phải chịu chi phí xem xét, thẩm định tại
chỗ là 661.500 đồng; bà Đặng Thị Kim N đã nộp xong theo Hóa đơn giá trị gia
tăng số 00000087 ngày 02 tháng 02 năm 2023 của Chi nhánh Văn phòng đăng ký
đất đai huyện AB, tỉnh Kiên Giang. Buộc bị đơn bà Lê Thị M phải trả lại cho bà
Đặng Thị Kim N chi phí xem xét, thẩm định tại chỗ là 661.500 đồng, khi bản án
có hiệu lực pháp luật theo quy định tại khoản 1 Điều 157, khoản 1 Điều 158 của
Bộ luật tố tụng dân sự.
- Về chi phí định giá tài sản là 4.200.000 đồng, yêu cầu của nguyên đơn bà
Đặng Thị Kim N, anh Lê Sang G và chị Lê Ngọc Q được chấp nhận nên bị đơn
bà Lê Thị M phải chịu chi phí định giá tài là 4.200.000 đồng; bà Đặng Thị Kim N
đã nộp xong theo Hóa đơn giá trị gia tăng số: 00000063 ngày 20 tháng 11 năm
2023 của Công ty trách nhiệm hữu hạn định giá tư vấn xây dựng Định Vượng.
Buộc bị đơn bà Lê Thị M phải trả lại cho bà Đặng Thị Kim N chi phí định giá tài

13
sản là 4.200.000 đồng, khi bản án có hiệu lực pháp luật theo quy định tại khoản 1
Điều 165 của Bộ luật tố tụng dân sự.
- Về chi phí giám định chữ ký 4.330.000 đồng, bị đơn bà Lê Thị M yêu cầu
qua kết luận là không có căn cứ. Buộc bị đơn bà Lê Thị M phải chịu chi phí giám
định chữ ký là 4.330.000 đồng, bà Lê Thị M đã nộp xong theo Biên bản quyết
toán tiền tạm ứng chi phí giám định chữ ký ngày 11 tháng 11 năm 2024 theo quy
định tại Điều 160 và khoản 1 Điều 161 của Bộ luật tố tụng dân sự.
[5] Về án phí: Bị đơn phải chịu án phí dân sự sơ thẩm trong trường hợp
yêu cầu của nguyên đơn được Tòa án chấp nhận, nguyên đơn không phải chịu án
phí dân sự sơ thẩm hoàn trả lại số tiền tạm ứng án phí theo quy định tại Điều 147
của Bộ luật tố tụng dân sự, khoản 2 Điều 26, điểm a khoản 2 Điều 27 của Nghị
quyết số: 326/2016/UBTVQH14 ngày 30 tháng 12 năm 2016 quy định về mức
thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án.
Vì các lẽ trên,
QUYẾT ĐỊNH:
Căn cứ khoản 9 Điều 26, điểm a khoản 1 Điều 35, điểm a, điểm c khoản 1
Điều 39, khoản 5, khoản 7, khoản 25 Điều 70, khoản 1, khoản 4 Điều 91, khoản 2
Điều 92, Điều 147, khoản 1 Điều 157, khoản 1 Điều 158, Điều 160, khoản 1 Điều
161, khoản 1 Điều 165, điểm c khoản 1 Điều 217, khoản 2 Điều 244, Điều 266 và
Điều 273 của Bộ luật tố tụng dân sự;
Căn cứ Điều 163, Điều 164, Điều 166 và Điều 169 của Bộ luật dân sự;
Căn cứ Điều 100, Điều 166, Điều 202 và Điều 203 của Luật đất đai năm
2013; điểm a khoản 2 Điều 129, khoản 1 Điều 137 và Điều 138 của Luật đất đai
năm 2024;
Căn cứ khoản 2 Điều 26, điểm a khoản 2 Điều 27 của Nghị quyết số: 326/
2016/UBTVQH14 ngày 30 tháng 12 năm 2016 quy định về mức thu, miễn, giảm,
thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án.
Tuyên xử:
1. Chấp nhận yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn bà Đặng Thị Kim N, anh
Lê Sang G và chị Lê Ngọc Q. Công nhận quyền sử dụng diện tích đất bị lấn
chiếm 157,4 mét vuông, tọa lạc tại ấp 6B, xã N, huyện AB, tỉnh Kiên Giang theo
Tờ trích đo địa chính số: TĐ09-2023 (24-43) ngày 11 tháng 01 năm 2023 của Chi
nhánh Văn phòng đăng ký đất đai huyện AB, tỉnh Kiên Giang thuộc quyền sử
dụng của bà Đặng Thị Kim N.
2. Buộc bị đơn bà Lê Thị M và ông Lê Văn S phải tháo gở 04 trụ đá (toàn
14
bộ cột trụ đá) trả lại cho bà Đặng Thị Kim N diện tích đất lấn chiếm là 157,4 mét
vuông, tọa lạc tại ấp 6B, xã N, huyện AB, tỉnh Kiên Giang theo Tờ trích đo địa
chính số: TĐ09-2023 (24-43) ngày 11 tháng 01 năm 2023 của Chi nhánh Văn
phòng đăng ký đất đai huyện AB, tỉnh Kiên Giang, cụ thể vị trí như sau: Cạnh 9-
17 giáp Biên giải phóng mặt bằng ngang là 3,85 mét; Cạnh 6-14 giáp bờ kênh
Chống Mỹ ngang là 1,98 mét; Cạnh 9-8-7-6 giáp đất bà Đặng Thị Kim N, anh Lê
Sang G và chị Lê Ngọc Q đang sử dụng dài là 54,31 mét (6,47m + 43,81m +
4,03m); Cạnh 17-16-15-14 giáp giáp đất bà Lê Thị M dài là 54,32 mét (6,35m +
43,92m + 4,05m).
3. Ghi nhận sự tự nguyện của bị đơn bà Lê Thị M và ông Lê Văn S di dời
04 cây trụ đá (Toàn bộ trụ đá) trả lại cho bà Đặng Thị Kim N diện tích đất lấn
chiếm là 157,4 mét vuông, tọa lạc tại ấp 6B, xã N, huyện AB, tỉnh Kiên Giang và
đình chỉ xét xử phần bà Lê Thị M rút lại toàn bộ yêu cầu phản tố về yêu cầu hủy
Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất quyền sở hữu nhà ở và tài sản khác gắn liền
với đất số: CI 659238, số tờ bản đồ: 43-2017, số thửa: 01, diện tích 2.708 mét
vuông, vào sổ cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất số: CS 53763, ngày
13/7/2017 của Sở Tài nguyên và Môi trường tỉnh Kiên Giang cấp cho bà Đặng
Thị Kim N.
4. Về chi phí tố tụng:
- Về chi phí xem xét, thẩm định tại chỗ là 661.500 đồng, yêu cầu của
nguyên đơn bà Đặng Thị Kim N, anh Lê Sang G và chị Lê Ngọc Q được chấp
nhận một phần nên bị đơn bà Lê Thị M phải chịu chi phí xem xét, thẩm định tại
chỗ là 661.500 đồng; bà Đặng Thị Kim N đã nộp xong theo Hóa đơn giá trị gia
tăng số 00000087 ngày 02 tháng 02 năm 2023 của Chi nhánh Văn phòng đăng ký
đất đai huyện AB, tỉnh Kiên Giang. Buộc bị đơn bà Lê Thị M phải trả lại cho bà
Đặng Thị Kim N chi phí xem xét, thẩm định tại chỗ là 661.500 đồng, khi bản án
có hiệu lực pháp luật.
- Về chi phí định giá tài sản là 4.200.000 đồng, yêu cầu của nguyên đơn bà
Đặng Thị Kim N, anh Lê Sang G và chị Lê Ngọc Q được chấp nhận nên bị đơn
bà Lê Thị M phải chịu chi phí định giá tài là 4.200.000 đồng; bà Đặng Thị Kim N
đã nộp xong theo Hóa đơn giá trị gia tăng số: 00000063 ngày 20 tháng 11 năm
2023 của Công ty trách nhiệm hữu hạn định giá tư vấn xây dựng Định Vượng.
Buộc bị đơn bà Lê Thị M phải trả lại cho bà Đặng Thị Kim N chi phí định giá tài
sản là 4.200.000 đồng, khi bản án có hiệu lực pháp luật.
- Về chi phí giám định chữ ký 4.330.000 đồng, bị đơn bà Lê Thị M yêu cầu
qua kết luận là không có căn cứ. Buộc bị đơn bà Lê Thị M phải chịu chi phí giám
15
định chữ ký là 4.330.000 đồng, bà Lê Thị M đã nộp xong theo Biên bản quyết
toán tiền tạm ứng chi phí giám định chữ ký ngày 11 tháng 11 năm 2024.
5. Về án phí: Buộc bị đơn bà Lê Thị M phải chịu án phí dân sự sơ thẩm là
300.000 đồng, nhưng được trừ vào số tiền tạm ứng án phí 300.000 đồng theo biên
lai thu số 0009055 ngày 07/12/2023 của Chi cục Thi hành án dân sự huyện An
Biên, tỉnh Kiên Giang, bà Lê Thị M đã nộp xong án phí dân sự sơ thẩm.
Buộc bị đơn ông Lê Văn S phải chịu án phí dân sự sơ thẩm là 300.000
đồng.
Hoàn trả lại cho nguyên đơn bà Đặng Thị Kim N, anh Lê Sang G và chị Lê
Ngọc Q số tiền tạm ứng án phí 600.000 đồng theo các biên lai thu số 0003630
ngày 27/10/2022 (300.000 đồng) và số 0008859 ngày 06/10/2023 (300.000 đồng)
của Chi cục Thi hành án dân sự huyện An Biên, tỉnh Kiên Giang.
6. Về quyền kháng cáo: Đương sự có mặt tại phiên tòa có quyền kháng cáo
bản án trong hạn luật định là 15 ngày kể từ ngày tuyên án 12/11/2024.
Trường hợp bản án, quyết định được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật
thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân
sự có quyền thỏa thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi
hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các Điều 6, 7, 7a và Điều
9 Luật thi hành án dân sự; thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại
Điều 30 Luật thi hành án dân sự.
Nơi nhận: TM. HỘI ĐỒNG XÉT XỬ SƠ THẨM
- TAND tỉnh Kiên Giang; THẨM PHÁN- CHỦ TỌA PHIÊN TÒA
- VKSND huyện An Biên;
- Chi cục THADS huyện An Biên;
- Các đương sự;
- Lưu: HSVA,VP (Kiều).
Trần Văn Thảo
Tải về
Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để tải file. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!
Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để tải file. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!
Bản án/ Quyết định cùng đối tượng
1
Ban hành: 28/03/2025
Cấp xét xử: Sơ thẩm
2
Ban hành: 28/03/2025
Cấp xét xử: Sơ thẩm
3
Ban hành: 26/03/2025
Cấp xét xử: Sơ thẩm
4
Ban hành: 25/03/2025
Cấp xét xử: Sơ thẩm
5
Ban hành: 20/03/2025
Cấp xét xử: Sơ thẩm
6
Ban hành: 19/03/2025
Cấp xét xử: Sơ thẩm
7
Ban hành: 12/03/2025
Cấp xét xử: Sơ thẩm
8
Ban hành: 11/03/2025
Cấp xét xử: Sơ thẩm
9
Ban hành: 11/03/2025
Cấp xét xử: Sơ thẩm
10
Ban hành: 11/03/2025
Cấp xét xử: Sơ thẩm
11
Ban hành: 10/03/2025
Cấp xét xử: Sơ thẩm
12
Ban hành: 10/03/2025
Cấp xét xử: Sơ thẩm
13
Bản án số 152/2025/DS-PT ngày 10/03/2025 của TAND cấp cao tại TP.HCM về tranh chấp quyền sử dụng đất
Ban hành: 10/03/2025
Cấp xét xử: Sơ thẩm
14
Ban hành: 09/03/2025
Cấp xét xử: Sơ thẩm
15
Ban hành: 07/03/2025
Cấp xét xử: Sơ thẩm
16
Ban hành: 06/03/2025
Cấp xét xử: Sơ thẩm
17
Ban hành: 06/03/2025
Cấp xét xử: Sơ thẩm
18
Ban hành: 06/03/2025
Cấp xét xử: Sơ thẩm
19
Bản án số 144/2025/DS-PT ngày 06/03/2025 của TAND cấp cao tại TP.HCM về tranh chấp quyền sử dụng đất
Ban hành: 06/03/2025
Cấp xét xử: Sơ thẩm
20
Ban hành: 06/03/2025
Cấp xét xử: Sơ thẩm