Bản án số 80/2025/DS-PT ngày 09/04/2025 của TAND tỉnh Vĩnh Long về tranh chấp hợp đồng dịch vụ
- Thuộc tính
- Nội dung
- VB gốc
- VB liên quan
- Lược đồ
- Đính chính
- Án lệ
- BA/QĐ cùng nội dung
- Tải về
Tải văn bản
-
Bản án số 80/2025/DS-PT
Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để tải file. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!
-
Bản án số 80/2025/DS-PT
Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để tải file. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!
Báo lỗi
Thuộc tính Bản án 80/2025/DS-PT
Tên Bản án: | Bản án số 80/2025/DS-PT ngày 09/04/2025 của TAND tỉnh Vĩnh Long về tranh chấp hợp đồng dịch vụ |
---|---|
Quan hệ pháp luật: | Tranh chấp hợp đồng dịch vụ |
Cấp xét xử: | Phúc thẩm |
Tòa án xét xử: | TAND tỉnh Vĩnh Long |
Số hiệu: | 80/2025/DS-PT |
Loại văn bản: | Bản án |
Ngày ban hành: | 09/04/2025 |
Lĩnh vực: | Dân sự |
Áp dụng án lệ: |
Đã biết
Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để xem áp dụng án lệ. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây! |
Đính chính: |
Đã biết
Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để xem đính chính. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây! |
Thông tin về vụ/việc: | Ông Tú yêu cầu công ty trả tiền xây dựng |
Tóm tắt Bản án
Nội dung tóm tắt đang được cập nhật, Quý khách vui lòng quay lại sau!
Tải văn bản
1
TÒA ÁN NHÂN DÂN CỘNG HÒA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM
TỈNH VĨNH LONG Độc lập - Tự do - Hạnh phúc
Bản án số: 80/2025/DS-PT
Ngày: 09 - 4 - 2025
V/v Tranh chấp hợp đồng xây dựng
NHÂN DANH
NƯỚC CỘNG HÒA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM
TÒA ÁN NHÂN DÂN TỈNH VĨNH LONG
- Thành phần Hội đồng xét xử phúc thẩm gồm có:
Thẩm phán - Chủ tọa phiên tòa: Ông Lâm Triệu Hữu
Các Thẩm phán: Bà Võ Thị Mỹ Dung
Ông Nguyễn Văn Trường
- Thư ký phiên tòa: Bà Huỳnh Thanh Thảo – Thẩm tra viên chính Tòa án nhân
dân tỉnh Vĩnh Long.
- Đại diện Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Vĩnh Long tham gia phiên tòa:
Ông Nguyễn Anh Tuấn- Kiểm sát viên.
Ngày 09 tháng 4 năm 2025 tại Trụ sở Tòa án nhân dân tỉnh Vĩnh Long xét xử
phúc thẩm công khai vụ án dân sự thụ lý số: 27/2025/TLPT-DS ngày 17 tháng
02 năm 2025 về việc “Tranh chấp hợp đồng xây dựng”.
Do Bản án dân sự sơ thẩm số: 04/2025/ DS-ST ngày 08 tháng 01 năm 2025 của
Tòa án nhân dân thành phố Vĩnh Long, tỉnh Vĩnh Long bị kháng cáo.
Theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử phúc thẩm số: 40/2025/QĐ-PT ngày
25 tháng 02 năm 2025, giữa các đương sự:
1. Nguyên đơn: Anh Dương Văn T, sinh năm 1987; địa chỉ: ấp T, xã Đ,
huyện L, tỉnh Vĩnh Long: có mặt
Đại diện hợp pháp: Anh Nguyễn Tấn T1, sinh năm 2001; địa chỉ thường
trú ấp P, xã Đ, huyện L, tỉnh Vĩnh Long, là người đại diện theo ủy quyền. (văn
bản ủy quyền ngày 01/3/2024): có mặt
Người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp: Ông Trần Ngọc T2, Luật sư của
Công ty L2 thuộc Đoàn luật sư tỉnh V.
2. Bị đơn: Công ty TNHH T7
2
Địa chỉ trụ sở: Số C, đường N, Khóm A, Phường H, Thành phố V, tỉnh
Vĩnh Long.
Chủ sở hữu: Anh Mai Nhựt Đ, sinh năm 1983, địa chỉ thường trú số E, tổ
I, ấp M, xã M, thị xã C, tỉnh Tiền Giang: có mặt.
Người đại diện hợp pháp:
1. Anh Phan Văn D, sinh năm 1994; địa chỉ thường trú Số C, đường N,
phường N, Quận A, Thành phố Hồ Chí Minh, chức vụ Giám đốc, là người đại
diện theo pháp luật: vắng mặt
2. Anh Mai Nhựt Đ, chủ sở hữu, đồng thời là người đại diện theo ủy
quyền của người đại diện theo pháp luật (văn bản ủy quyền ngày17/3/2025)
Người kháng cáo: Bị đơn Công ty TNHH T7.
NỘI DUNG VỤ ÁN:
Theo đơn khởi kiện đề ngày 04 tháng 3 năm 2024, đơn khởi kiện bổ sung
ngày 07 tháng 5 năm 2024 và trong quá trình giải quyết vụ án đại diện nguyên
đơn anh Nguyễn Tấn T1 trình bày:
Khoảng năm 2021 anh Dương Văn T làm tư vấn giám sát cho Công ty
H3 có công trình tại số C, Nguyễn Văn L, khóm A, phường H, Thành phố V.
Khi làm việc tại đây thì Công ty TNHH T8 (gọi tắt Công ty) cũng có công trình
xây dựng tại địa chỉ này nên anh T mới quen biết anh Mai Nhựt Đ là chủ sở hữu
công ty và anh Phan Văn D là giám đốc công ty. Khi công trình của Công ty H3
ngưng trệ thì anh Đ mới nói với anh T qua làm cho công trình bên anh Đ vì lúc
đó phía anh T có nhân công và dụng cụ xây dựng sẳn tại nơi xây dựng dự án.
Hai bên chỉ thỏa thuận miệng với nhau như sau: Anh Tú sẽ qua làm cho Công ty
TNHH T8 với công việc giám sát, quản lý công trình về nhân công, vật tư, kiểm
tra kỹ thuật cho 07 căn nhà liền kề và 02 dàn móng, theo thỏa thuận giữa anh T
và anh Đ thì trong quá trình làm việc anh T khi cần kêu vật tư xây dựng thì anh
T sẽ báo người Công ty kêu hay anh T sẽ liên hệ chổ cung ứng vật tư cho Công
ty mang lại và khi có hóa đơn thì Công ty TNHH T8 sẽ chi trả tiền, cũng có khi
những vật tư giá trị nhỏ, kêu số lượng ít thì anh T cũng có xuất tiền cá nhân
thanh toán và nhận hóa đơn về thanh toán lại với Công ty hay Công ty cũng có
cho anh T ứng tiền trước để chi trả. Về tiền công anh Đ hứa sẽ trả là 10 triệu
đồng/tháng. Anh Tú làm việc giám sát, quản lý và thực hiện một số công việc
theo yêu cầu của anh Đ được 07 tháng (Từ tháng 9 năm 2022 đến tháng 3 năm
2023). Sự việc này được thể hiện bảng kê chi phí xây dựng dự án Tấn Lộc D (
3
Bút lục 71) do chị Lê Hương H là nhân viên tổng hợp của Công ty TNHH T8
tổng hợp và giao cho anh T giữ khi kết thúc công trình đối chiếu công nợ. Ngoài
ra, khi qua làm việc cho Công ty thì trước đó anh T có mua lại căn láng trại và
đường điện của anh Nguyễn Văn T3, anh T3 là giám đốc Công ty H3, vì anh T3
cũng làm xây dựng khi làm công trình tại dự án T Home xong thì căn láng trại
và đường điện còn sử dụng được nên phía anh T liên hệ mua lại để sử dụng, khi
làm hợp đồng mua bán thì anh T làm hợp đồng với anh Nguyễn Phạm Thanh H1
là người được anh T3 ủy quyền mua bán, khi mua bán thì hiện trạng gồm: Nhà
văn phòng ngang 6m dài 20m + nhà vệ sinh, Hệ thống đường điện chiếu sáng
dây điện và đèn đường, đồng hồ và các tụ điện trong công trình, dây điện và hộp
wifi. Máy in hiệu Ricoh Mp3554, một bàn lớn làm việc + 5 ghế + 2 kệ sắt, chồi
bảo vệ + bàn nhựa lớn 2m, 2 máy tính 6 ghế xoay, 6 bàn gỗ chân sắt, xà gồ sắt
và ván đã qua sử dụng. Tất cả tài sản trên trị giá 140 triệu đồng. Anh Mai Nhựt
Đ hỏi mua lại Căn láng trại và nhà văn phòng, nhà vệ sinh, hệ thống đường điện
chiếu sáng dây điện và đèn đường, đồng hồ và các tụ điện trong công trình, dây
điện và hộp wifi, chồi bảo vệ với giá 140 triệu đồng để phía Công ty anh Đ sử
dụng nên anh T đồng ý để lại cho anh Đ, anh Đ hứa sẽ trả tiền khi tính toán công
nợ, việc mua bán chỉ nói miệng không có lập hợp đồng và anh đã bàn giao cho
anh Đ sử dụng tất cả các tài sản nêu trên nên trong đối chiếu công nợ có ghi tiền
mua láng trại Tuân trị giá 140 triệu đồng. Trong quá trình làm quản lý công trình
trên thì anh T có tạm ứng để trả lương cho công nhân, mua một số vật tư đã tạm
ứng trước là 294.476.000 đồng, theo bảng kê chi phí xây dựng dự án T Dương
Văn T thì tính đến ngày 04/4/2023 số tiền Công ty phải trả là 502.476.000 đồng,
sau khi khấu trừ thì Công ty TNHH T8 còn nợ anh T tổng cộng là 208.000.000
đồng.
Ngày 18/7/2023 anh Mai Nhựt Đ có thỏa thuận với anh T yêu cầu anh T
xây dựng 03 căn liền kề (LK2) địa điểm xây dựng là trong dự án Tấn Lộc H.
Anh Tú và anh Đ thỏa thuận giá cả, cách thức thực hiện và các chi phí khác có
liên quan, anh T và anh Đ thống nhất Công ty TNHH T8 giao khoán cho anh T
thực hiện giá mỗi căn khi anh T hoàn thiện xong thì anh Đ sẽ trả số tiền 400
triệu đồng/căn, tổng 3 căn trị giá 1.200.000.000 đồng. Nhưng trong quá trình
thực hiện xây dựng anh Đ nói để dễ kiểm tra đầu vào của vật tư nên phía Công
ty yêu cầu tự lấy vật tư và trực tiếp chuyển tiền chi trả cho phía cung cấp vật tư.
Tổng số tiền Công ty TNHH T8 đã chuyển cho bên cung ứng vật tư là
4
384.264.300 đồng (Theo bảng theo dỏi công nợ 3 căn liền kề bút lục 70). Khi
thực hiện công trình thì Công ty có cho anh T tạm ứng số tiền 130.000.000
đồng. Sau khi khấu trừ tiền vật tư và tiền ứng trước thì phía công ty anh Đ còn
nợ anh T số tiền 685.735.700 đồng. Sau khi, hoàn thành công trình thì anh T
nhiều lần yêu cầu anh Đ và Công ty TNHH T8 thanh toán tiền nợ cho anh nhưng
phía bị đơn không chi trả nên phát sinh tranh chấp, do sự việc chưa giải quyết
xong nên phía anh T vẫn còn để lại một số dụng cụ xây dựng tại công trình và
chưa di dời mục đích để anh Đ trả tiền nợ.
Ngày 19/2/2024 anh T, anh Đ và anh Phan Văn D – Giám đốc Công ty
TNHH T8 có lập biên bản làm việc có nội dung anh T chốt lại khối lượng tổng
giá trị thi công 3 căn liền kề là 1.200.000.000 đồng, chốt khối lượng công nợ sẽ
chi trả trước cho anh T số tiền là 1 tỷ đồng ( bao gồm cấn trừ các khoản tiền vật
tư và tiền anh T tạm ứng phần còn lại sẽ trả đủ cho anh T), khi nào bàn giao
xong căn LK2-01 cho bà Tạ Thị T4 sẽ thanh toán số tiền 200 triệu đồng còn lại.
Ngày 20/3/2024 anh T, anh Đ và anh Phan Văn D đã tổ chức nghiệm thu
công trình xây dựng hoàn thành và kết luận chấp nhận nghiệm thu hoàn thành
công việc xây dựng.
Sau khi nghiệm thu công trình anh T tiến hành làm thủ tục để Công ty
TNHH T8 chi trả tiền thì Công ty chưa trả tiền cho anh T nên anh Dương Văn T
khởi kiện yêu cầu Tòa án giải quyết buộc Công ty TNHH T7 do ông Mai Nhựt
Đ làm chủ sở hữu thanh toán cho anh Dương Văn T số tiền công làm giám sát,
quản lý công trình và các chi phí khác khi xây dựng 7 căn nhà liền kề là
208.000.000đồng và tiền xây dựng 03 căn liền kề còn nợ là 685.735.700đồng.
Tổng cộng hai khoảng là 893.735.700đồng.
Ngày 13 tháng 8 năm 2024 anh Dương Văn T có đơn sửa đổi, bổ sung
đơn kiện. Anh Dương Văn T yêu cầu Tòa án giải quyết buộc Công ty TNHH T7
do anh Phan Văn D làm người đại diện theo pháp luật và anh Mai Nhựt Đ làm
chủ sở hữu phải thanh toán cho anh T số tiền nợ giám sát, quản lý xây dựng và
các chi phí khác khi xây dựng 7 căn nhà liền kề là 208.000.000đồng. Về tiền nợ
xây dựng 03 căn liền kề thì khi phát sinh tranh chấp thì phía anh T và anh Đ có
thỏa thuận với nhau chi phí bê mặt ngoài của 03 căn liền kề do phía anh Đ tự bê
nên anh T đồng ý trừ tiếp chi phí bê mặt ngoài cho phía bị đơn là 20.000.000
đồng nên về tiền xây dựng 03 căn liền kề còn nợ là 665.735.700đồng. Tổng
cộng hai khoảng là 873.735.700đồng. Đồng thời yêu cầu tính lãi chậm trả từ
5
tháng 4/2023 cho đến ngày xét xử sơ thẩm:
- Đối với số tiền 208.000.000 đồng x 0,83% = 1.726.400 đồng/tháng x 14
tháng = 24.169.600 đồng.
- Đối với số tiền 665.735.700đồng x 0,83% = 5.525.606 đồng/tháng x 03
tháng ( Tháng 3 năm 2024 ) = 16.575.818 đồng.
Tổng cộng vốn gốc và lãi là 914.481.118 đồng (Trong đó, gốc là
873.735.700đồng và tiền lãi 40.745.418 đồng).
Đối với yêu cầu phản tố của bị đơn Công ty TNHH T8 yêu cầu anh T
chấm dứt hành vi chiếm căn láng trại trị giá 54 triệu đồng là không đúng, căn
láng trại này phía Công ty đang sử dụng. Đối với việc yêu cầu di dời tài sản cá
nhân (vật dụng dụng dùng để xây dựng) ra khỏi 3 căn liền kề thì đúng là anh T
còn để vật dụng tại 1 căn của 3 căn liền kề, lý do anh để là vì phía bị đơn không
trả tiền nên anh không di dời, khi nào Công ty trả tiền thì anh đồng ý di dời.
* Ý kiến của bị đơn Công ty TNHH T8 trình bày: Từ khi thụ lý vụ án Tòa
án nhân dân Thành phố Vĩnh Long đã tống đạt thông báo thụ lý vụ án cho bị
đơn đúng theo quy định pháp luật. Ngày 26/6/2024 bị đơn có bản trình bày ý
kiến như sau: Công ty TNHH T8 là chủ sở hữu của Dự án Tấn Lộc H tại phường
H, thành phố V. Công ty TNHH T8 có ký hợp đồng xây dựng với Công ty
TNHH T9 về việc xây dựng nhà ở dự án và ông Dương Văn T là nhân viên giám
sát Dự án Tấn Lộc H. Công ty TNHH T8 và anh Dương Văn T không có ký trực
tiếp về việc thực hiện xây dựng một số căn nhà của dự án Tấn Lộc H. (Anh Phan
Văn D – Giám đốc Công ty không biết và không có ký việc giao khoán xây
dựng này).
Anh Dương Văn T có thực hiện xây dựng đối với 03 căn liền kề 2 của Dự
án Tấn Lộc H2, Công ty được biết là có, nhưng đến tháng 11 năm 2023 thì dừng
việc thi công, đến tháng 01 năm 2024 thì anh T chiếm giữ 03 căn liền kề và xịt
sơn lên tường của 03 căn này làm ảnh hưởng đến việc kinh doanh của Dự án. Để
đảm bảo cho hoạt động kinh doanh của Công ty, ngày 19/3/2024 Công ty có
buổi làm việc với anh T, tại buổi làm việc Công ty T10 sẽ thanh toán theo tiến
độ phần tiền mà anh T cho rằng, công ty tổng thầu còn nợ anh T và Công ty C
yêu cầu anh T trong hạn 30 ngày phải thực hiện di dời dụng cụ xây dựng của
anh T ra khởi Dự án Tấn Lộc H2 và sau khi di dời công ty sẽ thanh toán tiền,
anh T bàn giao lại 03 căn liền kề để công ty tiếp tục xây dựng hoàn thiện giao
cho khách hàng. Sau khi, Công ty X xong 03 căn liền kề thì anh T tiếp tục chiếm
6
01 căn và phá vỡ tole đã lợp của 03 căn, người làm công cho anh T tên Dương
Văn R nhiều lần có hành vi chửi, đe dọa gây thương tích cho nhân viên Công ty
và Công ty đã có trình báo Công an phường H4, từ đó đến nay mọi hoạt động
của công ty bị ngưng trệ. Để hạn chế thiệt hại xảy ra Công ty đồng ý hỗ trợ chi
phí trên cơ sở chứng từ cụ thể, đồng thời yêu cầu anh T chấm dứt hành vi chiếm
giữ tài sản cụ thể là căn số 1 dãy nhà liền kề 2 và di dời dụng cụ xây dựng ra
khỏi dự án. Ngày 04/7/2024 anh Phan Văn D là đại diện theo pháp luật Công ty
TNHH T8 có đơn đề nghị Tòa án giải quyết vắng mặt trong tất cả các buổi làm
việc và được vắng mặt trong tất cả các phiên xét xử của Tòa án và đề nghị Tòa
án xem xét và giải quyết theo quy định pháp luật.
Ngày 22 tháng 7 năm 2024 và ngày 13 tháng 11 năm 2024 bị đơn Công ty
TNHH T8 có đơn yêu cầu phản tố: Công ty TNHH T7 yêu cầu ông Dương Văn
T chấm dứt hành vi chiếm giữ trái pháp luật căn láng trại có giá trị
54.000.000đồng và căn nhà số 1 của dãy Liền kề tại dự án khu dân cư T tại địa
chỉ đường N, Khóm A, phường H, Thành phố V, tỉnh Vĩnh Long. Yêu cầu ông
Dương Văn T di dời vật tư, tài sản cá nhân cụ thể tất cả vật tư công trình bao
gồm: Giàn giáo, máy trộn, ván, sắt ( Ông T để vật tư tại căn LK2-01 và dùng
ván rào lại nên không biết số lượng) ra khỏi dự án khu dân cư T.
* Ý kiến của anh Mai Nhựt Đ là chủ sở hữu Công ty TNHH T8 trình bày:
Ngày 04/7/2024 anh Mai Nhựt Đ có đơn đề nghị vắng mặt tại Tòa án gửi qua
bưu điện có trình bày ý kiến như sau: Anh Mai Nhựt Đ là chủ sở hữu Công ty
TNHH T8, anh Đ có nhận được Thông báo thụ lý và giấy triệu tập của Tòa án
anh Đ có ý kiến: Đồng ý với ý kiến trình bày của Công ty TNHH T8 và không
đồng ý với ý kiến các bên còn lại. Trong trường hợp Công ty TNHH T8 phải
thực hiện nghĩa vụ tài sản thì anh Đ đồng ý sử dụng vốn góp của chủ sở hữu tại
Công ty để thực hiện nghĩa vụ của Công ty. Anh Mai Nhựt Đ đề nghị Tòa án
giải quyết vắng mặt trong tất cả các buổi làm việc và được vắng mặt trong tất cả
các phiên xét xử của Tòa án và đề nghị Tòa án xem xét và giải quyết theo quy
định pháp luật.
Tại Bản án dân sự sơ thẩm số 04/2025/ DS-ST ngày 08 tháng 01 năm
2025 của Tòa án nhân dân thành phố Vĩnh Long, tỉnh Vĩnh Long đã quyết định:
1. Chấp nhận yêu cầu khởi kiện của anh Dương Văn T đối với Công ty
trách nhiệm hữu hạn T8.
2. Buộc Công ty trách nhiệm hữu hạn T8 do anh Phan Văn D là người đại
7
diện theo pháp luật và anh Mai Nhựt Đ là chủ sở hữu phải trả cho anh Dương
Văn T số tiền 959.720.400đồng ( Chín trăm năm mươi chín triệu bảy trăm hai
chục nghìn, bốn trăm đồng). (Trong đó gốc là 873.735.700đồng và tiền lãi
85.984.700 đồng).
Kể từ ngày người được thi hành án làm đơn yêu cầu thi hành án, mà bên
phải thi hành án chưa tự nguyện thi hành án xong, thì hàng tháng còn phải chịu
thêm khoản tiền lãi theo Khoản 2 Điều 468 của Bộ Luật dân sự năm 2015.
3. Không chấp nhận đề nghị của nguyên đơn về việc buộc ông Mai Nhựt
Đ liên đới trả nợ cùng với bị đơn.
4. Chấp nhận một phần yêu cầu phản tố của Công ty trách nhiệm hữu hạn
T8 do anh Phan Văn D là người đại diện theo pháp luật và anh Mai Nhựt Đ là
chủ sở hữu. Buộc anh Dương Văn T phải di dời các tài sản tại căn 1 thuộc 3 căn
liền kề gồm sắt 5 vuông 3x6 khoảng 1 tấn, kích u khoảng 200 cái, ván phủ phun
(cốp pha) khoảng 100 tấm chiếm dài 1,2m đã cắt xẻ ( các tài sản trên đã qua sử
dụng) ra khỏi Dự án Tấn Lộc H2 tọa lạc số 36/23, Nguyễn Văn L, khóm A,
phường H, Thành phố V, tỉnh Vĩnh Long.
5. Không chấp nhận yêu cầu phản tố của Công ty trách nhiệm hữu hạn T8
buộc anh Dương Văn T phải chấm dứt hành vi chiếm giữ căn láng trại trị giá
54.000.000 đồng.
Ngoài ra Bản án sơ thẩm còn tuyên về chi phí tố tụng, án phí, nghĩa vụ thi
hành án và quyền kháng cáo của các đương sự theo luật định.
Sau khi xét xử sơ thẩm, ngày 21/01/2025, bị đơn Công ty T7 kháng cáo bản
án sơ thẩm đề nghị Tòa án cấp phúc thẩm sửa bản án sơ thẩm theo hướng không
chấp nhận yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn, chấp nhận yêu cầu của bị đơn.
Tại phiên tòa phúc thẩm, bị đơn có kháng cáo do người đại diện hợp pháp
trình bày: Vẫn giữ nguyên yêu cầu kháng cáo, yêu cầu sửa bản án sơ thẩm,
không chấp nhận yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn. Trong trường hợp chấp
nhận yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn thì yêu cầu được quyền sở hữu đối với
tài sản theo nghĩa vụ trả tiền cho nguyên đơn.
Nguyên đơn và người đại diện hợp pháp đề nghị không chấp nhận kháng cáo,
giữ nguyên bản án sơ thẩm.
Trong phần tranh tụng, các đương sự thống nhất:
- Quan hệ pháp luật tranh chấp, tư cách tố tụng của đương sự.
- Quan hệ hợp đồng xây dựng giữa nguyên đơn và bị đơn: Công ty T7 là
8
chủ đầu tư, anh T là người xây dựng, hình thức giao khoán với giá 400.000.000
đồng/căn nhà liền kề xây thô.
- 03 căn nhà liền kề do anh T xây dựng thuộc dự án nhà thương mại Tấn L1
do Công ty T7 làm chủ sở hữu dự án.
- Biên bản làm việc ngày 19/3/2024 do anh Đ là chủ sở hữu, anh D là giám
đốc Công ty và anh D là người xây dựng thỏa thuận. Biên bản nghiệm thu hoàn
thành công trình ngày 20/3/2024 là tự nguyện, đúng với ý chí của các bên.
- Liên quan việc mua tài sản thể hiện tin nhắn qua zalo chụp màn hình do
anh T cung cấp đúng là nội dung trao đổi giữa anh Đ và anh T.
- Giá trị nhà xây thô theo thỏa thuận 400.000.000 đồng/căn x 03 căn =
1.200.000.000 đồng. Anh Tú đã tạm ứng 130.000.000 đồng, tạm ứng vật tư
384.264.300 đồng. Công ty T7 chưa thanh toán giá trị xây dựng cho anh T.
- Bảng kê thanh toán do Lê Hương H là nhân viên Công ty T7 lập, anh Đ là
chủ sở hữu Công ty biết và không phản đối.
- Anh Tú tự nguyện giảm số tiền 5.000.000 đồng trong tổng số tiền giá trị
tài sản 140.000.000 đồng (căn láng trại, nhà văn phòng... ) còn 135.000.000
đồng.
- Vấn đề không thống nhất: Bị đơn vẫn giữ yêu cầu khởi kháng cáo, không
đồng ý trả tiền theo yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn.
Đại diện Viện kiểm sát phát biểu quan điểm:
Về việc tuân theo pháp luật của Thẩm phán, Hội đồng xét xử và người tham
gia tố tụng: Tất cả đều tuân thủ đúng theo quy định của Bộ luật Tố tụng dân sự
từ khi thụ lý vụ án đến khi xét xử phúc thẩm.
Về nội dung: Căn cứ khoản 1 Điều 308 của Bộ luật tố tụng dân sự. Không
chấp nhận kháng cáo của bị đơn. Giữ nguyên bản án sơ thẩm.
Ngoài ra, đại diện Viện kiểm sát còn phát biểu quan điểm về án phí dân sự
phúc thẩm.
NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN:
Căn cứ vào tài liệu, chứng cứ có trong hồ sơ vụ án được thẩm tra tại phiên tòa;
trên cơ sở xem xét toàn diện các chứng cứ; ý kiến trình bày của các đương sự;
căn cứ vào kết quả tranh luận và phát biểu của đại diện Viện kiểm sát tại phiên
tòa; Hội đồng xét xử nhận định:
[1] Về tố tụng: Đơn kháng cáo của bị đơn là hợp lệ nên được xem xét giải quyết
theo trình tự phúc thẩm.
9
[2] Về nội dung: Xét đơn kháng cáo của bị đơn về việc không đồng ý trả
tiền cho nguyên đơn liên quan đến việc xây dựng nhà tại dự án nhà ở thương
mại của bị đơn. Hội đồng xét xử xét thấy
[2.1] Đối với giá trị xây dựng 03 căn nhà liền kề.
Tại phiên tòa, bị đơn thừa nhận việc giao khoán xây dựng nhà thô với giá
400.000.000 đồng/căn. Anh Tú đã thực hiện việc xây dựng và được chủ đầu tư
thống nhất khối lượng vật tư xây dựng theo biên bản làm việc ngày 19/3/2024
(BL67) và đã nghiệm thu hoàn thành xây dựng theo Biên bản ngày 20/3/2024
(BL69) giữa anh Dương Văn T là bên thi công, anh Mai Nhựt Đ – Chủ sở hữu,
anh Phan Văn D - Giám đốc Công ty T7 thể hiện nội dung tại “mục 4. Đánh giá
công việc thực hiện: Chất lượng đạt yêu cầu, Mục 5. Kết luận: Chấp nhận
nghiệm thu hoàn thành công việc xây dựng”. Tại bảng theo dõi công nợ 03 căn
nhà liền kề 2 do nhân viên Công ty T7 lập (BL70) mà chủ sở hữu và đại diện
hợp pháp của Công ty không phản đối, đồng thời, không cung cấp được chứng
cứ thể hiện ngoài số tiền theo Bảng theo dõi công nợ nêu trên, công ty đã chi trả
tiền giá trị xây dựng cho anh T. Do đó, có căn cứ xác định anh T đã thực hiện
xong công việc xây dựng và nghiệm thu công trình đạt yêu cầu nên Công ty có
nghĩa vụ thanh toán tiền xây dựng 3 căn nhà là 1.200.000.000 đồng
(400.000.000 đồng x 3) nhưng được khấu trừ số tiền do anh T nhận tạm ứng là
130.000.000 đồng, giá trị vật tư do Công ty cung cấp là 384.264.300 đồng theo
Bảng theo dõi công nợ và chi phí bê mặt ngoài là 20.000.000 đồng nên còn phải
trả số tiền 665.735.700 đồng.
[2.2] Đối với số tiền 208.000.000 đồng gồm tiền công làm giám sát, quản
lý công trình, tiền mua căn láng trại, đường điện, nhà văn phòng các chi phí
khác ngoài giá trị xây dựng 03 căn nhà.
Tại phiên tòa, các đương sự thống nhất, ngoài xây dựng 03 căn nhà liền
kề thì trước đó, anh T còn thực hiện công việc quản lý giám sát xây dựng dãy
nhà khác, có mua tài sản và chi phí khác cho Công ty. Các tài sản do anh T mua
có giá 140.000.000 đồng đã được hỏi ý kiến anh Đ trước khi mua (BL 63). Đồng
thời, tiền trả công 07 tháng với số tiền 70.000.000 đồng và chi phí còn lại cho
anh T ngoài 3 căn nhà cũng đã được đối chiếu theo bản kê chi phí xây dựng
thành số tiền tổng cộng bằng 208.000.000 đồng (BL71). Tại phiên tòa, anh Đ là
đại diện và chủ sở hữu công ty thừa nhận và không phản đối chứng cứ do
nguyên đơn cung cấp nên là tình tiết, sự kiện không phải chứng minh theo quy
10
định tại Điều 92 của Bộ luật tố tụng dân sự. Tuy nhiên, nguyên đơn tự nguyện
giảm 5.000.000 đồng nên tiền công và tiền mua tài sản ngoài 03 căn nhà mà
công ty phải trả cho anh T là 203.000.000 đồng.
[2.3] Tổng cộng, công ty có nghĩa vụ phải trả cho anh T là 665.735.700
đồng + 203.000.000 đồng = 868.735.700 đồng. Do chậm thanh toán nên bên có
nghĩa vụ còn phải chịu tiền lãi chậm trả với lãi suất và thời gian như Tòa án cấp
sơ thẩm xác định là có căn cứ, có điều chỉnh lại số tiền gốc như sau:
Đối với số tiền 203.000.000 đồng, tiền lãi là 203.000.000 đồng x
0,83%/tháng x 21 tháng = 35.382.900 đồng (tính từ ngày 04/4/2023 đến ngày
xét xử sơ thẩm 08/01/2025)
Đối với số tiền 665.735.700 đồng, tiền lãi là 665.735.700 đồng x 0,83% x
09 tháng = 49.730.000 đồng (tính từ 20/3/2024 đến ngày xét xử sơ thẩm
08/01/2025)
Như vậy, tiền lãi của số tiền gốc 868.735.700 đồng là 35.382.900 đồng +
49.730.000 đồng = 85,112,900 đồng.
[2.4] Về việc ông Đ yêu cầu được quyền sở hữu tải sản là 03 căn nhà cùng
tài sản khác nếu phải trả giá trị cho anh T.
Tòa án cấp sơ thẩm buộc Công ty TNHH T7 có nghĩa vụ trả giá trị xây
dựng cho anh T nhưng không xác định quyền sở hữu tài sản đối với 03 căn nhà
xây dựng theo hiện trạng tại biên bản nghiệm thu giữa các đương sự và các tài
sản khác theo biên bản xem xét thẩm định tại chỗ là chưa đảm bảo về nguyên tắc
xác lập, thời điểm xác lập quyền sở hữu, quyền khác về tài sản theo quy định tại
Điều 160, Điều 161 của Bộ luật dân sự nên sửa bản án sơ thẩm về nội dung này.
[2.5] Với cơ sở pháp lý và đánh giá chứng cứ như trên, kháng cáo của bị
đơn được chấp nhận một phần. Một phần quan điểm của kiểm sát viên có nội
dung phù hợp với quan điểm của Hội đồng xét xử nên được chấp nhận.
[3] Về án phí:
Án phí dân sự sơ thẩm được tính lại tương ứng với số tiền theo nghĩa vụ
phải trả 953.848.600 đồng (tiền gốc 868.753.700 đồng, tiền lãi 85.112.900
đồng) là 36.000.000 đồng + ( 153.848.600 đồng x 3%) = 40.615.500 đồng.
Án phí dân sự phúc thẩm: Do kháng cáo được chấp nhận một phần và sửa
bản án sơ thẩm nên người kháng cáo không phải chịu và được trả lại tiền tạm
ứng án phí dân sự phúc thẩm đã nộp.
[4] Các quyết định khác của bản án sơ thẩm không chấp nhận đề nghị của
11
nguyên đơn về việc buộc ông Mai Nhựt Đ liên đới trả nợ cùng với bị đơn. Chấp
nhận một phần yêu cầu phản tố của Công ty trách nhiệm hữu hạn T8. Buộc anh
Dương Văn T phải di dời các tài sản tại căn 1 thuộc 3 căn liền kề. Không chấp
nhận yêu cầu phản tố của Công ty trách nhiệm hữu hạn T8 buộc anh Dương Văn
T phải chấm dứt hành vi chiếm giữ căn láng trại trị giá 54.000.000 đồng; chi phí
tố tụng khác không có kháng cáo, không bị kháng nghị đã có hiệu lực pháp luật
kể từ ngày hết thời hạn kháng cáo, kháng nghị.
Vởi các lẽ trên,
QUYẾT ĐỊNH:
Căn cứ khoản 2 Điều 308 của Bộ luật Tố tụng dân sự;
Chấp nhận một phần yêu cầu kháng cáo của bị đơn Công ty trách nhiệm
hữu hạn T7. Sửa một phần bản án bản án dân sự sơ thẩm số 04/2025/DS -ST
ngày 08 tháng 01 năm 2025 của Tòa án nhân dân thành phố Vĩnh Long, tỉnh
Vĩnh Long.
Căn cứ các Điều 148, 157, khoản 1 Điều 228 Bộ luật tố tụng Dân sự; Điều
274, 275, 276, 280, 281, 351, 357, 385 Bộ luật dân sự năm 2015; Điều 12, 74,76
và Điều 77 Luật doanh nghiệp năm 2020; Điều 144 Luật xây dựng năm 2014;
Điều 26 Nghị Quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy Ban
thường vụ Quốc hội quy định mức thu, miễn, giảm, thu nộp quản lý và sử dụng
án phí, lệ phí Tòa án.
Tuyên xử:
1. Chấp nhận yêu cầu khởi kiện của anh Dương Văn T đối với Công ty
trách nhiệm hữu hạn T7.
2. Buộc Công ty trách nhiệm hữu hạn T7 do anh Phan Văn D là người đại
diện theo pháp luật và anh Mai Nhựt Đ là chủ sở hữu phải trả cho anh Dương
Văn T tiền công, tiền xây dựng 03 căn nhà liền kề theo hiện trạng tại biên bản
nghiệm thu và tài sản khác theo biên bản xem xét, thẩm định tại chỗ ngày
25/10/2024 của Tòa án nhân dân thành phố Vĩnh Long tổng cộng số tiền
953.848.600 đồng (chín trăm năm mươi ba triệu tám trăm bốn mươi tám nghìn
sáu trăm đồng). (trong đó, tiền gốc là 873.735.700 đồng và tiền lãi 85.984.700
đồng).
Kể từ ngày có đơn yêu cầu thi hành án của người được thi hành án (đối với
các khoản tiền phải trả cho người được thi hành án) cho đến khi thi hành án
xong tất cả các khoản tiền, hàng tháng bên phải thi hành án còn phải chịu khoản
12
tiền lãi của số tiền còn phải thi hành án theo mức lãi suất quy định tại khoản 2
Điều 468 Bộ luật Dân sự năm 2015.
Các tài sản theo biên bản xem xét, thẩm định tại chỗ ngày 25/10/2024 của
Tòa án nhân dân thành phố Vĩnh Long bao gồm:
- 03 căn nhà liền kề kết cấu móng đơn, 01 trệt 01 lầu, mái tole, hoàn thiện
mặt bên ngoài, bên trong chưa tô tường, lót nền.
- Đường điện chiếu sáng trong dự án Tấn Lộc H2 và bên ngoài, đường
điện thi công tổng chiều dài mỗi loại khoảng 380m, 04 tủ điện (loại nhựa), 11
bóng đèn và giá đỡ.
- Văn phòng, láng trại:
+ Văn phòng láng trại 1 kết cấu mái tole, vách tole bên ngoài, vách thạch
cao bên trong, sàn khung sắt lợp tấm xi măng, có cửa sắt, trần thạch cao và đèn
chiếu sáng, diện tích chiều ngang khoảng 6m, chiều dài khoảng 6m.
+ Văn phòng láng trại 2 kết cấu như văn phòng 1, kích thước chiều ngang
6m, chiều dài 10m.
+ Văn phòng láng trại 3 kết cấu mái tole, sàn khung sắt lợp tấm xi măng,
chiều dài 6m, chiều ngang 4m, hiện trạng để làm nhà kho.
- Láng trại bên ngoài để cho công nhân sinh hoạt kết cầu khung sắt, mái
tole, chiều dài 14m, chiều ngang khoảng 7m.
3. Công ty C1 do anh Phan Văn D là người đại diện theo pháp luật và anh
Mai Nhựt Đ là chủ sở hữu được quyền sở hữu 03 căn nhà liền kề và tài sản khác
đã trả tiền cho anh Trương Văn T5 tại mục 2 nêu trên.
4. Về án phí:
4.1. Án phí dân sự sơ thẩm: Bị đơn Công ty trách nhiệm hữu hạn T7 phải
chịu 40.615.500 đồng án phí dân sự sơ thẩm. Khấu trừ số tiền 1.350.000 đồng
tạm ứng án phí dân sự sơ thẩm đã nộp theo Biên lai số 0007466 ngày
25/11/2024 của Chi cục Thi hành án dân sự thành phố Vĩnh Long, Công ty trách
nhiệm hữu hạn T7 còn phải nộp tiếp số tiền 39.265.500 đồng án phí dân sự sơ
thẩm.
Anh Phan Văn T6 phải chịu 300.000 đồng án phí dân sự sơ thẩm. Khấu
trừ số tiền 19.406.000 đồng tạm ứng án phí dân sự sơ thẩm đã nộp theo Biên lai
số 0006962 ngày 04/6/2024 của Chi cục Thi hành án dân sự thành phố Vĩnh
Long, hoàn trả lại cho anh Phan Văn T6 số tiền 19.106.000 đồng
4.2. Án phí dân sự phúc thẩm: Công ty trách nhiệm hữu hạn T7 không
13
phải chịu án phí dân sự phúc thẩm. Hoàn trả lại cho Công ty TNHH T7 số tiền
300.000 đồng tạm ứng án phí dân sự phúc thẩm đã nộp theo biên lai thu số
0007655 ngày 07/02/2025 của Chi cục Thi hành án dân sự thành phố Vĩnh
Long.
5. Các quyết định khác của bản án sơ thẩm không chấp nhận đề nghị của
nguyên đơn về việc buộc ông Mai Nhựt Đ liên đới trả nợ cùng với bị đơn. Chấp
nhận một phần yêu cầu phản tố của Công ty trách nhiệm hữu hạn T8. Buộc anh
Dương Văn T phải di dời các tài sản tại căn 1 thuộc 3 căn liền kề. Không chấp
nhận yêu cầu phản tố của Công ty trách nhiệm hữu hạn T8 buộc anh Dương Văn
T phải chấm dứt hành vi chiếm giữ căn láng trại trị giá 54.000.000 đồng; chi phí
tố tụng khác không có kháng cáo, không bị kháng nghị đã có hiệu lực pháp luật
kể từ ngày hết thời hạn kháng cáo, kháng nghị.
Trường hợp bản án, quyết định được thi hành theo quy định tại Điều 2
Luật Thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành
án dân sự có quyền thỏa thuận thi hành án; quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện
thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các điều 6, 7, 7a, 7b
và 9 Luật Thi hành án dân sự; thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy
định tại điều 30 Luật thi hành án dân sự.
Bản án phúc thẩm có hiệu lực pháp luật kể từ ngày tuyên án./.
Nơi nhận:
- TAND cấp cao tại Tp.HCM;
- Chánh án;
- VKSND tỉnh Vĩnh Long;
- TAND Tp. Vĩnh Long;
- VKSND Tp. Vĩnh Long;
- CCTHADS Tp. Vĩnh Long;
- Đương sự;
- Lưu hồ sơ vụ án.
TM. HỘI ĐỒNG XÉT XỬ PHÚC THẨM
THẨM PHÁN – CHỦ TỌA PHIÊN TÒA
Lâm Triệu Hữu
Tải về
Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để tải file. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!
Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để tải file. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!
Bản án/ Quyết định cùng đối tượng
1
Ban hành: 01/04/2025
Cấp xét xử: Phúc thẩm
2
Ban hành: 25/03/2025
Cấp xét xử: Phúc thẩm
3
Ban hành: 20/03/2025
Cấp xét xử: Phúc thẩm
4
Ban hành: 19/03/2025
Cấp xét xử: Phúc thẩm
5
Ban hành: 19/03/2025
Cấp xét xử: Phúc thẩm
6
Ban hành: 14/03/2025
Cấp xét xử: Phúc thẩm
7
Ban hành: 12/03/2025
Cấp xét xử: Phúc thẩm
8
Ban hành: 10/03/2025
Cấp xét xử: Phúc thẩm
9
Ban hành: 06/03/2025
Cấp xét xử: Phúc thẩm
10
Ban hành: 25/02/2025
Cấp xét xử: Phúc thẩm
11
Ban hành: 20/02/2025
Cấp xét xử: Phúc thẩm
12
Ban hành: 14/02/2025
Cấp xét xử: Phúc thẩm
13
Ban hành: 06/02/2025
Cấp xét xử: Phúc thẩm
14
Ban hành: 17/01/2025
Cấp xét xử: Phúc thẩm
15
Ban hành: 16/01/2025
Cấp xét xử: Phúc thẩm
16
Ban hành: 15/01/2025
Cấp xét xử: Phúc thẩm
17
Ban hành: 15/01/2025
Cấp xét xử: Phúc thẩm
18
Ban hành: 15/01/2025
Cấp xét xử: Phúc thẩm
19
Ban hành: 13/01/2025
Cấp xét xử: Phúc thẩm