Bản án số 79/2024/DS-ST ngày 26/09/2024 của TAND huyện Đức Trọng, tỉnh Lâm Đồng về tranh chấp hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất
- Thuộc tính
- Nội dung
- VB gốc
- VB liên quan
- Lược đồ
- Đính chính
- Án lệ
- BA/QĐ cùng nội dung
- Tải về
Tải văn bản
-
Bản án số 79/2024/DS-ST
Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để tải file. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!
-
Bản án số 79/2024/DS-ST
Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để tải file. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!
Báo lỗi
Thuộc tính Bản án 79/2024/DS-ST
Tên Bản án: | Bản án số 79/2024/DS-ST ngày 26/09/2024 của TAND huyện Đức Trọng, tỉnh Lâm Đồng về tranh chấp hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất |
---|---|
Quan hệ pháp luật: | Tranh chấp hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất |
Cấp xét xử: | Sơ thẩm |
Tòa án xét xử: | TAND huyện Đức Trọng (TAND tỉnh Lâm Đồng) |
Số hiệu: | 79/2024/DS-ST |
Loại văn bản: | Bản án |
Ngày ban hành: | 26/09/2024 |
Lĩnh vực: | Dân sự |
Áp dụng án lệ: |
Đã biết
Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để xem áp dụng án lệ. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây! |
Đính chính: |
Đã biết
Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để xem đính chính. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây! |
Thông tin về vụ/việc: | chấp nhận yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn |
Tóm tắt Bản án
Nội dung tóm tắt đang được cập nhật, Quý khách vui lòng quay lại sau!
Tải văn bản
TÒA ÁN NHÂN DÂN
HUYỆN Đ
TỈNH LÂM ĐỒNG
Bản án số: 79/2024/DS - ST
Ngày: 26-9-2024
V/v:“tranh chấp hợp đồng chuyển
nhượng quyền sử dụng đất”
CỘNG HÒA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM
Độc lập - Tự do - Hạnh phúc
NHÂN DANH
NƯỚC CỘNG HÒA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM
TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN Đ, TỈNH LÂM ĐỒNG
- Thành phần Hội đồng xét xử sơ thẩm gồm có:
Thẩm phán - Chủ tọa phiên tòa: bà Lê Thị Thanh Vũ
Các Hội thẩm nhân dân: 1. Ông Cao Đình Nhân
2. Bà Đinh Thị Phúc
- Thư ký phiên tòa: ông Phạm Văn Hoàng - Thư ký của Tòa án nhân dân
huyện Đ, tỉnh Lâm Đồng.
- Đại diện viện kiểm sát nhân dân huyện Đ, tỉnh Lâm Đồng tham gia
phiên tòa: bà Nguyễn Thị Phương - Kiểm sát viên.
Ngày 26 tháng 9 năm 2024, tại trụ sở Tòa án nhân dân huyện Đ, xét xử
sơ thẩm công khai vụ án thụ lý số 165/2022/TLST- DS ngày 02 tháng 6 năm 2022
về tranh chấp hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất theo Quyết định đưa
vụ án ra xét xử số 165/2024/QĐXXST-DS ngày 19 tháng 8 năm 2024 và quyết
định hoãn phiên tòa số 165/2024/QĐST-DS ngày 06 tháng 9 năm 2024 giữa
các đương sự:
- Nguyên đơn: ông Vũ Xuân M, sinh năm 1962; Địa chỉ: thôn DL, xã DL,
huyện Đ, tỉnh Lâm Đồng.
Ông Vũ Xuân M ủy quyền cho ông Nguyễn Ngọc L; địa chỉ: 47 thôn DL,
xã DL, huyện Đ, tỉnh Lâm Đồng tham gia tố tụng (theo văn bản ủy quyền ngày
27/11/2020);
Bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp cho ông Vũ Xuân M, bà Lê Thị Kim H:
Luật sư Huỳnh Nguyễn Bảo D – Văn phòng Luật sư NT, thuộc Đoàn Luật sư tỉnh
Lâm Đồng;
- Bị đơn: ông Ya CH, sinh năm 1969, bà Ma H, sinh năm 1973
Địa chỉ: thôn M, xã DL, huyện Đ, tỉnh Lâm Đồng.
- Người có quyền lợi và nghĩa vụ liên quan:
1. Bà Ma E
Địa chỉ: thôn M, xã DL, huyện Đ, tỉnh Lâm Đồng.
2
2. Bà Ma U
Địa chỉ: thôn M, xã DL, huyện Đ, tỉnh Lâm Đồng.
3. Bà Ma HU
Địa chỉ: thôn M, xã DL, huyện Đ, tỉnh Lâm Đồng.
4. Bà Lê Thị Kim H, sinh năm 1964
Địa chỉ: thôn M, xã DL, huyện Đ, tỉnh Lâm Đồng.
Bà Lê Thị Kim H ủy quyền cho ông Nguyễn Ngọc L; địa chỉ: 47 thôn DL,
xã DL, huyện Đ, tỉnh Lâm Đồng tham gia tố tụng (theo văn bản ủy quyền ngày
27/11/2020);
5. Ông Nguyễn Ngọc L, bà Trần Thị Thanh L
Địa chỉ: 47 thôn DL, xã DL, huyện Đ, tỉnh Lâm Đồng.
(Đại diện ủy quyền của nguyên đơn, đại diện theo uỷ quyền của người có
quyền lợi nghĩa vụ liên quan bà Lê Thị Kin H và cũng là người liên quan ông
Nguyễn Ngọc L có mặt; bà Trần Thị Thanh Lcó đơn xin xét xử vắng mặt; còn bị
đơn và những người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan khác vắng mặt)
NỘI DUNG VỤ ÁN:
Trong đơn khởi kiện và trong quá trình thu thập chứng cứ cũng như tại
phiên tòa, đại diện theo ủy quyền của nguyên đơn trình bày:
Ngày 24/08/2008, vợ cH ông Ya CH, bà Ma H có chuyển nhượng cho ông
Vũ Xuân M một miếng đất có chiều dài theo đường là 25m, chiều sâu xuống ruộng
giáp mương khoảng 40m, diện tích khoảng 1.000m
2
, thuộc một phần thửa
164/1340m
2
tờ bản đồ số 40 tại thôn M, xã DL, huyện Đ, tỉnh Lâm Đồng; đất đã
được cấp Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất và cập nhật sang tên Ya CH, Ma
H. Ngày 24/8/2008, hai bên có lập giấy sang nhượng đất viết tay, có chữ ký Ya
CH, Ma H; giá chuyển nhượng 75.000.000đồng, ông M đã giao đủ số tiền
75.000.000đồng cho Ya CH, Ma H và đã tiếp quản diện tích đất khoảng 1.000m
2
trên, đất không có tranh chấp với ai nhưng ông M yêu cầu vợ cH Ya CH, Ma H
tiến hành tách thửa, sang tên giấy chứng nhận quyền sử dụng đất nhưng chưa thực
hiện.
Trước đây, ông M làm đơn khởi kiện yêu cầu Tòa án buộc vợ cH ông Ya CH,
bà Ma H phải tiếp tục thực hiện hợp đồng sang nhượng quyền sử dụng đất cho vợ
cH ông M theo giấy sang nhượng đất ký kết ngày 24/8/2008 đối với diện tích
khoảng 1.000m
2
thuộc một phần thửa 164/1340m
2
tờ bản đồ số 40 tại thôn M, xã
DL, huyện Đ, tỉnh Lâm Đồng. Tuy nhiên, quá trình giải quyết tại Tòa án, có họa
đồ đo đạc ngày 12/10/2022 và chú thích họa đồ ngày 20/6/2024 và ngày 08/5/2024
của Chi nhánh Văn phòng đăng ký đất đai huyện Đ thể hiện diện tích đất tranh
3
chấp ngoài thực địa theo mốc giới mà ông Ya CH, bà Ma H xác định với ông M
thể hiện như sau: diện tích tổng khu đất tranh chấp được ký hiệu là A/848.2m²
tương ứng 275.1m² thuộc một phần thửa 82; 555m² thuộc một phần thửa 89,
18.1m² thuộc một phần thửa 81, tờ bản đồ 59 (2013), xã DL. Qua đối chiều bản
đồ 299: thửa đất A tương ứng 471.2m² thuộc một phần thứa 164; 77.3m² thuộc
một phần thửa 165; 29.3m² thuộc một phần thửa163, 144.4m² thuộc đường đi trên
bản đồ 299, tờ bản đồ 40 (299), xã DL và 126m
2
chưa được đo đạc bản đồ 299,
xã DL. Theo Mục kê quản lý tại Chi nhánh Văn phòng đăng ký đất đai huyện Đ
thì thửa đất số 163, 164 tờ bản đồ số 40 (299), xã DL tên đăng ký là Ya CH và thể
hiện đã cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất; thửa đất số 165, tờ bản đồ số 40
(299), xã DL tên đăng ký là Ya CH và không thể hiện nội dung cấp giấy chứng
nhận quyền sử dụng đất. Nay, nguyên đơn yêu cầu sửa đổi, bổ sung yêu cầu khởi
kiện: đề nghị Tòa án xem xét tuyên hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất
viết tay ngày 24/8/2008 giữa ông Ya CH, bà Ma H và ông Vũ Xuân M là vô hiệu;
buộc ông Ya CH, bà Ma H phải thanh toán lại giá trị quyền sử dụng đất cho vợ
chồng ông Mng theo giá trị thẩm định giá của chứng thư thẩm định giá ngày
23/6/2023 của Công ty thẩm định giá Năm Thành Viên là 1.000.761.000đồng
(một tỷ bảy trăm sáu mươi mốt ngàn đồng) vì ông Mng đã thanh toán đủ số tiền
chuyển nhượng cho vợ chồng ông Ya CH, bà Ma H và đã được gia đình ông Ya
CH cm mốc, giao đất cho ông Mng; nhưng sau đó, do đất có tranh chấp và chưa
tiến hành làm thủ tục sang tên giấy chứng nhận quyền sử dụng đất được nên ông
M cũng không quản lý, sử dụng diện tích đất này.
* Bị đơn ông Ya CH và bà Ma H trình bày tại biên bản lấy lời khai đối chất
ngày 13/6/2022: ông bà không đồng ý với yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn vì
giữa Ya CH, Ma H và ông Vũ Xuân M không có việc chuyển nhượng đất xảy ra
mà chỉ là bt lấy đất để tr nợ. Cụ thể, năm 2008, vợ cH ông bà có thuê ông Vũ
Xuân M đổ đất để làm đường, tổng số tiền ông bà phải thanh toán cho ông M là
hơn 160.000.000đồng và sau khi thanh toán tiền còn nợ lại 75.000.000đồng và
ông M yêu cầu ông bà viết thành giấy bán đất vào ngày 24/8/2008. Đất ông bà
vẫn chưa giao cho ông Vũ Xuân M và thực tế, ông bà cũng không có nhận tiền
mua bán đất của ông M.
Nay ông bà yêu cầu hủy việc chuyển nhượng đất theo giấy sang nhượng
đất ngày 24/8/2008 giữa ông bà và ông Vũ Xuân M, ông bà sẽ trả lại tiền nợ đổ
đất cho ông M theo quy định.
*Người có quyền lợi và nghĩa vụ liên quan ông Nguyễn Ngọc L, bà Trần
Thị Thanh Ldo ông L đại diện trình bày: ngày 25/7/2009, vợ cH ông bà có nhận
sang nhượng của ông Vũ Xuân M, bà Lê Thị Kim H diện tích đất khoảng 1000m
2
4
thuộc một phần thửa 164/1340m
2
tờ bản đồ số 40 tại thôn M, xã DL, huyện Đ,
tỉnh Lâm Đồng đã được cấp Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất và cập nhật sang
tên Ya CH, Ma H; đất có chiều ngang mặt đường là 25m, chiều dài xuống giáp
mương khoảng 40m (có tứ cận: hướng đông giáp ruộng, hướng tây giáp đường
liên xã DL – Ninh Loan, nam giáp nhà Ya CH, Ma H); với giá tiền
75.000.000đồng; khi chuyển nhượng đất thì ông M bà H có ghi là chuyển cho ông
bà 18m ngang còn ông M để lại cho ông Tấp 07m nhưng sau đó đã thỏa thuận lại
là chuyển nhượng cho ông bà toàn bộ 25m ngang mặt đường đúng bằng diện tích
ông M nhận chuyển nhượng của ông Ya CH, bà Ma H; đất này là ông M nhận
chuyển nhượng của vợ cH ông Ya CH, bà Ma H t năm 2008, mới viết giấy tay
sang nhượng quyền sử dụng đất nhưng chưa sang tên ông M; do đất này ông Ya
CH, bà Ma H chưa chịu giao đất cho ông M mặc dù ông M đã giao đủ tiền cho
ông Ya CH, bà Ma H nên ông M cũng chưa giao đất cho ông bà sử dụng.
Nay, đối với yêu cầu khởi kiện tranh chấp hợp đồng chuyển nhượng quyền
sử dụng đất của ông M với ông Ya CH, bà Ma H thì trước đây ông bà yêu cầu Tòa
án giải quyết công nhận hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất ngày
24/8/2008 của ông M với ông Ya CH bà Ma H, để ông M có đất chuyển nhượng
cho ông bà như đã thỏa thuận. Tuy nhiên, nay ông M sửa đổi yêu cầu khởi kiện,
yêu cầu tuyên bố hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất viết tay ngày
24/8/2008 giữa ông Ya CH, bà Ma H và ông Vũ Xuân M là vô hiệu; buộc ông Ya
CH, bà Ma H phải thanh toán lại giá trị quyền sử dụng đất cho vợ chồng ông
Mng theo giá trị thẩm định giá của chứng thư thẩm định giá ngày 23/6/2023 của
Công ty thẩm định giá Năm Thành Viên là 1.000.761.000đồng thì ông bà cũng
đồng ý với yêu cầu của ông M về việc yêu cầu tuyên hợp đồng chuyển nhượng
quyền sử dụng đất viết tay ngày 24/8/2008 giữa ông Ya CH, bà Ma H và ông Vũ
Xuân M là vô hiệu và ông bà không yêu cầu Tòa án xem xét giải quyết hợp đồng
chuyển nhượng quyền sử dụng đất của ông M, bà H với vợ cH ông bà (ông L, bà
Lan); ông bà (ông L, bà Lan) và ông M, bà H sẽ tự thỏa thuận giải quyết đối với
việc sang nhượng quyền sử đất này.
Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan: bà Ma E, bà Ma U, bà Ma HU:
vng mặt trong toàn bộ tiến trình tố tụng tại Tòa án cấp sơ thẩm, đồng thời không
thể hiện ý kiến bằng văn bản đối với nội dung tranh chấp trong vụ án.
Tòa án đã tiến hành phiên họp để kiểm tra việc giao nộp, tiếp cận, công khai
chứng cứ và hòa giải nhưng bị đơn và những người có quyền lợi và nghĩa vụ liên
quan vng mặt nên không tiến hành hòa giải được.
Tại phiên tòa:
5
Nguyên đơn vẫn giữ nguyên yêu cầu khởi kiện, đề nghị Tòa án xem xét tuyên
hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất viết tay ngày 24/8/2008 giữa ông Ya
CH, bà Ma H và ông Vũ Xuân M là vô hiệu; buộc ông Ya CH, bà Ma H phải
thanh toán lại giá trị quyền sử dụng đất cho ông Mng theo giá trị thẩm định giá
của chứng thư thẩm định giá ngày 23/6/2023 của Công ty thẩm định giá Năm
Thành Viên nhưng giảm bớt cho bị đơn một phần nên yêu cầu bị đơn thanh toán
lại cho nguyên đơn số tiền 800.000.000đồng (tám trăm triệu đồng); hiện nay, do
diện tích đất trên có tranh chấp nên nguyên đơn ông M không quản lý, sử dụng
đất mà gia đình ông Ya CH, bà Ma H đang quản lý, sử dụng đất.
Người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp cho ông Vũ Xuân M, bà Lê Thị Kim
H: Luật sư Huỳnh Nguyễn Bảo D – Văn phòng Luật sư NT, thuộc Đoàn Luật sư
tỉnh Lâm Đồng phát biểu: đề nghị Tòa án xem xét tuyên hợp đồng chuyển nhượng
quyền sử dụng đất viết tay ngày 24/8/2008 giữa ông Ya CH, bà Ma H và ông Vũ
Xuân M là vô hiệu; do nguyên đơn đã thanh toán đủ giá trị chuyển nhượng quyền
sử dụng đất cho ông Ya CH, bà Ma H nên yêu cầu ông Ya CH, bà Ma H phải
thanh toán lại giá trị quyền sử dụng đất cho ông Mng theo giá trị thẩm định giá
của chứng thư thẩm định giá ngày 23/6/2023 của Công ty thẩm định giá Năm
Thành Viên nhưng giảm bớt cho bị đơn một phần nên yêu cầu bị đơn thanh toán
lại cho nguyên đơn số tiền 800.000.000đồng (tám trăm triệu đồng); hiện nay, do
diện tích đất trên có tranh chấp nên nguyên đơn ông M không quản lý, sử dụng
đất mà gia đình ông Ya CH, bà Ma H đang quản lý, sử dụng đất.
Đại diện Viện kiểm sát nhân dân huyện Đ tham gia phiên tòa phát biểu
kin về việc tuân theo pháp luật tố tụng của Thẩm phán, Thư k và Hội đồng xét
xử, cụ thể:
-Về việc chấp hành pháp luật tố tụng: thẩm phán đã chấp hành đúng các quy
định của Bộ luật tố tụng dân sự trong quá trình thụ lý và giải quyết vụ án. Tại
phiên tòa hôm nay, Hội đồng xét xử đã tuân thủ đúng trình tự phiên tòa sơ thẩm
theo quy định của Bộ luật tố tụng dân sự; đương sự có mặt tại phiên tòa đã chấp
hành đúng nội quy phiên tòa theo quy định của Bộ luật tố tụng dân sự.
- Về việc giải quyết vụ án, đề nghị Hội đồng xét xử căn cứ các Điều 121,
122, 124, 127, 134, 697, 698 của Bộ luật Dân sự năm 2005; căn cứ các Điều 106,
Điều 127 của Luật Đất đai năm 2003; căn cứ Điều 117 Nghị định 181 ngày
29/10/2004 của Chính phủ quy định chi tiết một số điều của Luật đất đai năm
2003;
Chấp nhận một phần yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn ông Vũ Xuân M về
vụ việc “tranh chấp về hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất”
6
Tuyên bố hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất lập ngày 24/8/2008
giữa ông Ya CH, bà Ma H và ông Vũ Xuân M là vô hiệu.
Buộc vợ cH ông Ya CH, bà Ma H có nghĩa vụ thanh toán cho ông M
75.000.000đồng đã nhận (khi chuyển nhượng quyền sử dụng đất) và
462.880.000đồng tiền chênh lệch giá trị quyền sử dụng đất; tổng cộng
537.880.000đồng (năm trăm ba mươi bảy triệu tám trăm tám mươi tám ngàn
đồng).
Không chấp nhận một phần yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn về việc yêu
cầu thanh toán phần chênh lệch giá trị quyền sử dụng đất 262.120.000đồng.
Về chi phí tố tụng: xét thấy, việc đo đạc, xem xét thẩm định tại chỗ và thẩm
định giá tài sản là cần thiết cho việc giải quyết vụ án và do không chấp nhận một
phần yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn nên cần buộc nguyên đơn ông M và bị
đơn ông Ya CH, bà Ma H cùng phải chịu, vì vậy, nguyên đơn ông M và bị đơn
ông Ya CH, bà Ma H mỗi bên phải chịu ½ chi phí tố tụng theo quy định;
Về án phí dân sự sơ thẩm: buộc bị đơn vợ cH ông Ya CH, bà Ma H phải chịu
án phí dân sự sơ thẩm đối với yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn được chấp nhận;
buộc nguyên đơn ông M phải chịu án phí dân sự sơ thẩm trên số tiền chênh lệch
giá trị quyền sử dụng đất không được chấp nhận.
NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN:
Qua nghiên cứu tài liệu, chứng cứ có trong hồ sơ vụ án và kết quả thẩm tra
tại phiên tòa cũng như ý kiến tranh luận của đương sự, ý kiến Kiểm sát viên, Hội
đồng xét xử nhận định như sau:
[1] Về thủ tục tố tụng:
[1.1] Về quan hệ pháp luật tranh chấp: xuất phát t việc ngày 24/08/2008,
vợ cH ông Ya CH, bà Ma H có chuyển nhượng cho ông Vũ Xuân M một miếng
đất có chiều dài theo đường là 25m, chiều sâu xuống ruộng giáp mương khoảng
40m, diện tích khoảng 1.000m
2
, thuộc một phần thửa 164/1340m
2
tờ bản đồ số 40
tại thôn M, xã DL, huyện Đ, tỉnh Lâm Đồng; hai bên có lập giấy sang nhượng đất
viết tay, ông M đã giao đủ số tiền 75.000.000đồng cho ông Ya CH, bà Ma H và
đã tiếp quản diện tích đất; nhưng khi ông M yêu cầu vợ cH Ya CH, Ma H tiến
hành tách thửa, sang tên giấy chứng nhận quyền sử dụng đất thì ông Ya CH, bà
Ma H không thực hiện; nay nguyên đơn khởi kiện, đề nghị Tòa án xem xét tuyên
hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất viết tay ngày 24/8/2008 giữa ông Ya
CH, bà Ma H và ông Vũ Xuân M là vô hiệu; buộc ông Ya CH, bà Ma H phải
thanh toán lại giá trị quyền sử dụng đất cho vợ chồng ông Mng theo giá trị thẩm
định giá của chứng thư thẩm định giá ngày 23/6/2023 của Công ty thẩm định giá
Năm Thành Viên là 1.000.761.000đồng. Do đó, căn cứ vào nội dung yêu cầu khởi
7
kiện của nguyên đơn, xác định quan hệ pháp luật tranh chấp trong vụ án là “tranh
chấp hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất” giữa nguyên đơn ông Vũ Xuân
M và bị đơn ông Ya CH, bà Ma H; người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan bà Ma
E, bà Ma U, bà Ma HU, bà Lê Thị Kim H và vợ cH ông Nguyễn Ngọc L, bà Trần
Thị Thanh Ltheo quy định tại khoản 3 Điều 26 của Bộ luật tố tụng dân sự.
[1.2] Về thẩm quyền giải quyt vụ án: bị đơn có địa chỉ cư trú tại: xã DL,
huyện Đ, tỉnh Lâm Đồng. Căn cứ vào khoản 1 Điều 35, khoản 1 Điều 39 của Bộ
luật tố tụng dân sự thì vụ án thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa án nhân dân
huyện Đ, tỉnh Lâm Đồng.
[1.3] Về việc xét xử vắng mặt đương sự: bị đơn ông Ya CH, bà Ma H và
người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan: bà Ma E, bà Ma U, bà Ma HU, vng mặt
tại phiên tòa dù đã được triệu tập hợp lệ lần thứ hai không vì sự kiện bất khả kháng
hoặc trở ngại khách quan; bà Trần Thị Thanh Lcó đơn xin vng mặt nên cần căn
cứ Điều 227, Điều 228 Bộ luật tố tụng dân sự, Tòa án xét xử vụ án vng mặt bị
đơn, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan theo thủ tục chung.
[2] Về nội dung tranh chấp và yêu cầu của đương sự:
[2.1] Xét yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn đề nghị xem xét tuyên hợp đồng
chuyển nhượng quyền sử dụng đất viết tay ngày 24/8/2008 giữa ông Ya CH, bà
Ma H và ông Vũ Xuân M là vô hiệu; buộc ông Ya CH, bà Ma H phải thanh toán
lại giá trị quyền sử dụng đất cho vợ chồng ông Mng theo giá trị thẩm định giá
của chứng thư thẩm định giá ngày 23/6/2023 của Công ty thẩm định giá Năm
Thành Viên là 1.000.761.000đồng (một tỷ bảy trăm sáu mươi mốt ngàn đồng) thì
thấy rằng: căn cứ vào chứng cứ là “giấy sang nhượng đất” lập ngày 24/8/2008
giữa ông Ya CH, bà Ma H và ông Vũ Xuân M về việc chuyển nhượng quyền sử
dụng diện tích đất khoảng 1000m
2
(có chiều dài theo đường là 25m, chiều sâu
xuống ruộng giáp mương khoảng 40m) thuộc một phần thửa 164/1340m
2
tờ bản
đồ số 40 tại thôn M, xã DL, huyện Đ, tỉnh Lâm Đồng.
Nguyên đơn khai, đã nhận chuyển nhượng quyền sử dụng diện tích đất trên
của ông Ya CH, bà Ma H vào ngày 24/8/2008 và có viết giấy tay sang nhượng
đất, đã giao đủ tiền nhận sang nhượng đất cho ông Ya CH, bà Ma H; còn bị đơn
ông Ya CH, bà Ma H khai, ông M lấy đất để tr nợ việc ông bà thuê ông Vũ Xuân
M đổ đất để làm đường, tổng số tiền ông bà phải thanh toán cho ông M là hơn
160.000.000đồng và sau khi thanh toán tiền còn nợ lại 75.000.000đồng và ông M
yêu cầu ông bà viết thành giấy bán đất vào ngày 24/8/2008; đã có đủ cơ sở kết
luận ngày 24/8/2004, ông M và ông Ya CH, bà Ma H có xác lập hợp đồng chuyển
nhượng quyền sử dụng đất khoảng 1000m
2
đất nêu trên là có thật.
8
Về quyền và nghĩa vụ của các bên mặc dù không được ghi cụ thể trong hợp
đồng, nhưng cũng đã thể hiện bên bán đã nhận đủ tiền và chịu trách nhiệm trước
pháp luật nếu có tranh chấp.
Xét về hình thức, hợp đồng đã được các bên lập thành văn bản nhưng chưa
có chứng nhận của công chứng Nhà nước là không phù hợp với quy định tại Điều
127 của Luật đất đai 2003.
Xét về nội dung của hợp đồng: trong hợp đồng thể hiện ông Ya CH, bà Ma H
chuyển nhượng quyền sử dụng đất cho ông M như sau: diện tích chuyển nhượng
có chiều dài theo đường là 25m, chiều sâu xuống ruộng giáp mương khoảng 40m,
đất chuyển nhượng do các bên thỏa thuận và chịu trách nhiệm trước pháp luật. Theo
quy định Điều 106 của Luật đất đai năm 2003 quy định: “1. Người sử dụng đất
được thực hiện các quyền chuyển nhượng, cho thuê, cho thuê lại, tặng cho, thế
chấp, góp vốn quyền sử dụng đất khi có Giấy chứng nhận...”. Căn cứ vào quy định
nêu trên, đối chiếu với trường hợp trên thì ông Ya CH, bà Ma H được quyền chuyển
nhượng sử dụng đất khi đứng tên quyền sử dụng thửa 164/1340m
2
tờ bản đồ số 40
tại thôn M, xã DL, huyện Đ; tuy nhiên nội dung của hợp đồng chuyển nhượng thể
hiện vị trí đất chuyển nhượng do các bên thỏa thuận có tứ cận cụ thể nhưng theo
quy định Điều 117 Nghị định 181 ngày 29/10/2004 của Chính phủ quy định chi tiết
một số điều của Luật đất đai quy định: trường hợp thực hiện quyền của người sử
dụng đất đối với một phần thửa đất thì người sử dụng đất đề nghị Văn phòng đăng
ký đất đai thực hiện đo đạc tách thửa đối với phần diện tích cần thực hiện quyền
của người sử dụng đất trước khi nộp hồ sơ thực hiện quyền của người sử dụng đất
và theo nội dung hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất ngày 24/8/2008 diện
tích đất chuyển nhượng giữa ông Ya CH, bà Ma H cho ông M chưa thực hiện đo
đạc tách thửa đối với phần diện tích cần thực hiện quyền của người sử dụng đất,
không có thửa đất cụ thể mà đã tiến hành lập hợp đồng chuyển nhượng;
Mặt khác, quá trình giải quyết tại Tòa án, họa đồ đo đạc ngày 12/10/2022 và
chú thích họa đồ ngày 20/6/2024 và ngày 08/5/2024 của Chi nhánh Văn phòng
đăng ký đất đai huyện Đ thể hiện diện tích đất tranh chấp ngoài thực địa theo mốc
giới mà ông Ya CH, bà Ma H xác định với ông M thể hiện như sau: Diện tích tổng
khu đất tranh chấp được ký hiệu là A/848.2m² tương ứng 75.1m² thuộc một phần
thửa 82; 555m² thuộc một phần thửa 89, 18.1m² thuộc một phần thửa 81, tờ bản
đồ 59 (2013), xã DL. Qua đối chiếu bản đồ 299: thửa đất A tương ứng 471.2m²
thuộc một phần thửa 164; 77.3m² thuộc một phần thửa 165; 29.3m² thuộc một
phần thửa 163, 144.4m² thuộc đường đi trên bản đồ 299, tờ bản đồ 40 (299), xã
DL và 126m
2
chưa được đo đạc bản đồ 299, xã DL. Theo Mục kê quản lý tại Chi
nhánh Văn phòng đăng ký đất đai huyện Đ thì thửa đất số 163, 164, tờ bản đồ số
9
40 (299), xã DL tên đăng ký là Ya CH và thể hiện đã cấp giấy chứng nhận quyền
sử dụng đất; thửa đất số 165, tờ bản đồ số 40 (299), xã DL tên đăng ký là Ya CH
và không thể hiện nội dung cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất.
Như vậy, việc sang nhượng đất giữa ông M và ông Ya CH, bà Ma H thực
hiện bằng hình thức là Giấy sang nhượng đất được xác lập bằng giấy tay, tại thời
điểm chuyển nhượng, có một phần diện tích đất chuyển nhượng chưa được cơ
quan nhà nước có thẩm quyền cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, không
đúng theo quy định tại Điều 106 Luật đất đai 2003.
T những phân tích, nhận định nêu trên thì giao dịch dân sự giữa vợ cH
ông Ya CH, bà Ma H và ông Vũ Xuân M không tuân thủ về hình thức và nội
dung theo quy định tại Điều 121, 122, 124, 127, 134 697, 698 của Bộ luật Dân
sự năm 2005 và Điều 106 Luật Đất đai năm 2003 nên giao dịch vô hiệu toàn
bộ.
Do đó, cần huỷ hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất lập ngày
24/8/2008 giữa ông Ya CH, bà Ma H và ông Vũ Xuân M đối với diện tích đất
khoảng 1000m
2
thuộc một phần thửa 164/1340m
2
tờ bản đồ số 40 (theo kết quả
đo đạc của Chi nhánh Văn phòng đăng ký đất đai huyện Đ thể hiện là 848.2m²
thuộc một phần các thửa 82, thửa 89, thửa 81, tờ bản đồ 59 (2013)) tại thôn M, xã
DL, huyện Đ, tỉnh Lâm Đồng là có căn cứ, đúng pháp luật.
[2.2] Do hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất lập ngày 24/8/2008
giữa ông Ya CH, bà Ma H và ông Vũ Xuân M đối với diện tích đất khoảng 1000m
2
thuộc một phần thửa 164/1340m
2
tờ bản đồ số 40 (theo kết quả đo đạc của Chi
nhánh Văn phòng đăng ký đất đai huyện Đ thể hiện là 848.2m² thuộc một phần
thửa 82; thuộc một phần thứa 89, thuộc một phần thửa 81, tờ bản đồ 59 (2013))
tại thôn M, xã DL, huyện Đ, tỉnh Lâm Đồng là hợp đồng vô hiệu nên không làm
phát sinh, thay đổi, chấm dứt quyền, nghĩa vụ dân sự của các bên kể t thời điểm
giao dịch được xác lập; Toà án buộc các bên khôi phục lại tình trạng ban đầu,
hoàn trả cho nhau những gì đã nhận. Tuy nhiên, trường hợp này, nguyên đơn ông
M chưa được nhận diện tích đất này; tại thời điểm Toà án tiến hành xem xét, thẩm
định tại chỗ thì diện tích đất trên gia đình ông Ya CH, bà Ma H đang quản lý, sử
dụng nên chỉ buộc bị đơn ông Ya CH, bà Ma H hoàn trả cho ông M số tiền
75.000.000đồng đã nhận khi chuyển nhượng đất; không buộc nguyên đơn ông M
hoàn trả cho bị đơn ông Ya CH, bà Ma H diện tích đất theo kết quả đo đạc của
Chi nhánh Văn phòng đăng ký đất đai huyện Đ là 848.2m² thuộc một phần thửa
82; thuộc một phần thửa 89, thuộc một phần thửa 81, tờ bản đồ 59 (2013), xã DL,
huyện Đ, tỉnh Lâm Đồng khi giải quyết vô hiệu hợp đồng chuyển nhượng quyền
sử dụng đất;
10
[2.3] Về giải quyết hậu quả pháp lý do giao dịch dân sự vô hiệu:
Theo quy định tại điểm c tiểu mục 2.3 mục 2 phần II của Nghị quyết số:
02/2004/NQ-HĐTP ngày 10/8/2004 của Hội đồng thẩm phán Tòa án nhân dân tối
cao về điều kiện để công nhận hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất được
xác lập t sau ngày 15/10/1993 thì:
“ c) Việc giải quyết hậu quả của hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng
đất vô hiệu.
c.1) Khi xác định hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất vô hiệu, thì
tuỳ tng trường hợp Toà án áp dụng quy định của điều luật tương ứng t Điều
136 đến Điều 138, t Điều 140 đến Điều 145 và Điều 146 của Bộ luật Dân sự để
xác định thời hạn yêu cầu Toà án tuyên bố hợp đồng chuyển nhượng quyền sử
dụng đất vô hiệu và xử lý hậu quả của hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng
đất vô hiệu.
c.2) Xác định lỗi, xác định trách nhiệm bồi thường thiệt hại.
Việc xác định lỗi, xác định trách nhiệm bồi thường thiệt hại được thực hiện
theo hướng dẫn tại điểm a và điểm b tiểu mục 2.4 mục 2 Phần I của Nghị quyết
số 01/2003/NQ-HĐTP ngày 16/4/2003 của Hội đồng Thẩm phán Toà án nhân dân
tối cao "Hướng dẫn áp dụng pháp luật trong việc giải quyết một số loại tranh chấp
dân sự, hôn nhân và gia đình".
c.3) Xác định thiệt hại.
- Khi tuyên bố hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất vô hiệu thì Toà
án cần xác định thiệt hại gồm:
Khoản tiền mà bên chuyển nhượng phải bỏ ra để khôi phục lại tình trạng ban
đầu của diện tích đất do bên nhận chuyển nhượng đã làm hủy hoại đất; khoản tiền
mà bên nhận chuyển nhượng đã đầu tư để cải tạo làm tăng giá trị quyền sử dụng
đất, giá trị công trình, tài sản, cây lâu năm... trên đất. Trong trường hợp hợp đồng
chuyển nhượng quyền sử dụng đất không có thoả thuận khác về việc áp dụng biện
pháp phạt vi phạm hợp đồng và bồi thường thiệt hại quy định tại Điều 379 Bộ luật
dân sự để bảo đảm thực hiện hợp đồng thì thiệt hại còn bao gồm khoản tiền chênh
lệch giá trị quyền sử dụng đất do các bên thoả thuận với giá trị quyền sử dụng đất
tại thời điểm xét xử sơ thẩm hoặc các thiệt hại khác, nếu có…”.
Tại phiên toà, nguyên đơn yêu cầu ông Ya CH, bà Ma H phải thanh toán lại
giá trị quyền sử dụng đất cho ông Mng theo giá trị thẩm định giá của chứng thư
thẩm định giá ngày 23/6/2023 của Công ty thẩm định giá Năm Thành Viên và
đồng ý giảm bớt cho bị đơn một phần nên yêu cầu bị đơn thanh toán lại cho nguyên
đơn ông M 800.000.000đồng; không đồng ý việc chia đôi số tiền trượt giá phần
11
chênh lệch vì nguyên đơn cho rằng khi nhận chuyển nhượng đã giao hết tiền nhận
chuyển nhượng quyền sử dụng đất cho bị đơn ông Ya CH, bà Ma H.
Tuy nhiên, khi giao kết hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất, xét về
lỗi làm cho hợp đồng vô hiệu, giữa vợ cH ông Ya CH, bà Ma H và ông Vũ Xuân
M thì hai bên đều có lỗi như nhau nên mỗi bên phải chịu ½ thiệt hại do hợp đồng
chuyển nhượng quyền sử dụng đất bị vô hiệu.
Xét về giá tại thời điểm chuyển nhượng quyền sử dụng đất: hai bên thỏa
thuận chuyển nhượng diện tích 1000m
2
đất thuộc một phần thửa 164/1340m
2
tờ
bản đồ số 40 tại thôn M, xã DL, huyện Đ, tỉnh Lâm Đồng là 75.000.000đồng;
Về giá trị quyền sử dụng đất theo thẩm định giá của chứng thư thẩm định giá
ngày 23/6/2023 của Công ty thẩm định giá Năm Thành Viên là
1.000.761.000đồng, thì thấy rằng:
Phần chênh lệch giá tài sản t thời điểm giao dịch đến thời điểm giải quyết hậu
quả hợp đồng vô hiệu là (1.000.761.000đồng – 75.000.000đồng) =
925.761.000đồng.
Và mỗi bên phải chịu ½ thiệt hại do hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng
đất bị vô hiệu là 925.761.000đ/2 = 462.880.000đồng
Ông M đã thanh toán đủ tiền nhận chuyển nhượng quyền sử dụng đất cho
ông Ya CH, bà Ma H là 75.000.000đồng, tức là 100% giá trị hợp đồng.
Do đó, chỉ chấp nhận một phẩn yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn, buộc vợ
cH ông Ya CH, bà Ma H có nghĩa vụ thanh toán cho ông Vũ Xuân M
75.000.000đồng (số tiền đã nhận khi chuyển nhượng quyền sử dụng đất) và
462.880.000đồng tiền chênh lệch giá trị quyền sử dụng đất do hợp đồng vô hiệu,
(tổng cộng 537.880.000đồng) là có căn cứ, đúng theo quy định của pháp luật.
Không chấp nhận một phần yêu khởi kiện của nguyên đơn về việc yêu cầu
thanh toán phần giá trị quyền sử dụng đất chênh lệch (800.000.000đ –
75.000.000đ - 462.880.000đ) = 262.120.000đồng.
[2.4] Về quyền sử dụng đất thực t và giá trị tài sản tranh chấp:
Theo kết quả đo đạc ngày 12/10/2022 và chú thích họa đồ ngày 20/6/2024
và ngày 08/5/2024 của Chi nhánh Văn phòng đăng ký đất đai huyện Đ thể hiện
diện tích đất tranh chấp ngoài thực địa theo mốc giới mà ông Ya CH, bà Ma H xác
định với ông M thể hiện như sau: Diện tích tổng khu đất tranh chấp được ký hiệu
là A/848.2m² tương ứng 75.1m² thuộc một phần thửa 82; 555m² thuộc một phần
thửa 89; 18.1m² thuộc một phần thửa 81, tờ bản đồ 59 (2013), xã DL. Qua đối
chiều bản đồ 299: thửa đất A tương ứng 471.2m² thuộc một phần thửa 164; 77.3m²
12
thuộc một phần thửa 165; 29.3m² thuộc một phần thửa 163, 144.4m² thuộc đường
đi trên bản đồ 299, tờ bản đồ 40 (299), xã DL và 126m
2
chưa được đo đạc bản đồ
299, xã DL. Theo Mục kê quản lý tại Chi nhánh Văn phòng đăng ký đất đai huyện
Đ thì thửa đất số 163, 164, tờ bản đồ số 40 (299), xã DL tên đăng ký là Ya CH và
thể hiện đã cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất; thửa đất số 165, tờ bản đồ số
40 (299), xã DL tên đăng ký là Ya CH và không thể hiện nội dung cấp giấy chứng
nhận quyền sử dụng đất. Nguyên đơn đồng ý với kết quả này, còn bị đơn và những
người có quyền lợi và nghĩa vụ liên quan không có ý kiến gì.
Theo kết quả thẩm định giá tại chứng thư thẩm định giá ngày 23/6/2023 của
Công ty TNHH thẩm định giá Năm Thành Viên thì: quyền sử dụng thửa đất
848.2m² nêu trên có giá trị là 1.000.761.000đồng. Nguyên đơn thống nhất theo
kết quả thẩm định giá tại chứng thư thẩm định giá ngày 23/6/2023 của Công ty
TNHH thẩm định giá Năm Thành Viên và đề nghị Tòa án căn cứ vào giá trị tài
sản này làm cơ sở cho việc giải quyết vụ án; còn bị đơn và những người có quyền
lợi và nghĩa vụ liên quan không có ý kiến gì. Do vậy, căn cứ Điều 104 Bộ luật Tố
tụng dân sự năm 2015, Tòa án căn cứ vào giá trị tài sản như trên để làm cơ sở cho
việc giải quyết vụ án là phù hợp.
[3] Đối với đề nghị của Đại diện Viện kiểm sát nhân dân huyện Đ phù hợp
với nhận định của Hội đồng xét xử nên được chấp nhận toàn bộ quan điểm của
đại diện viện kiểm sát tại phiên tòa.
[4] Đối với ý kiến phát biểu của người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp cho
ông Vũ Xuân M, bà Lê Thị Kim H thì Hội đồng xét xử chỉ chấp nhận một phần
yêu cầu khởi kiện về việc yêu cầu tuyên bố hợp đồng chuyển nhượng quyền sử
dụng đất ngày 24/8/2008 giữa ông Ya CH, bà Ma H và ông Vũ Xuân M và buộc
bị đơn ông Ya CH, bà Ma H thanh toán lại cho ông M 75.000.000đồng đã nhận
và ½ số tiền chênh lệch chênh lệch giá tài sản t thời điểm giao dịch đến thời điểm
giải quyết hậu quả hợp đồng vô hiệu là (1.000.761.000đồng – 75.000.000đồng) =
925.761.000đ/2 = 462.880.000đồng;
[5] Đối với việc chuyển nhượng quyền sử dụng đất giữa ông Vũ Xuân M, bà
Lê Thị Kim H và ông Nguyễn Ngọc L, bà Trần Thị Thanh Lngày 25/7/2009 đối
với diện tích đất khoảng 1000m
2
thuộc một phần thửa 164/1340m
2
tờ bản đồ số
40 tại thôn M, xã DL, huyện Đ, tỉnh Lâm Đồng nêu trên; quá trình giải quyết vụ
án và tại phiên toà, người có quyền lợi và nghĩa vụ liên quan ông Nguyễn Ngọc
L, bà Trần Thị Thanh Lkhông yêu cầu Tòa án xem xét giải quyết. Vì vậy, Hội
đồng xét xử không xem xét giải quyết, nếu sau này các đương sự có tranh chấp sẽ
giải quyết bằng một vụ án khác.
13
[6] Về chi phí tố tụng: tổng số tiền chi phí tố tụng cho việc giải quyết vụ án
bao gồm chi phí việc đo đạc, xem xét thẩm định tại chỗ và thẩm định giá tài sản
là 23.527.000đồng. Số tiền này đã được nguyên đơn ông M nộp đủ và đã được
quyết toán xong. Xét thấy, việc đo đạc, xem xét thẩm định tại chỗ và thẩm định
giá tài sản là cần thiết cho việc giải quyết vụ án và do không chấp nhận một phần
yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn nên cần buộc nguyên đơn ông M và bị đơn ông
Ya CH, bà Ma H cùng phải chịu, vì vậy, nguyên đơn ông M và bị đơn ông Ya
CH, bà Ma H mỗi bên phải chịu ½ chi phí tố tụng là 11.763.500đồng. Do đó, cần
buộc vợ cH ông Ya CH, bà Ma H phải thanh toán lại cho ông M số tiền là
11.763.500đồng.
[7] Về án phí: do chấp nhận một phần yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn về
việc yêu cầu tuyên bố hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất ngày
24/8/2007 giữa vợ cH ông Ya CH, bà Ma H và ông Vũ Xuân M và chấp nhận một
phần yêu cầu khởi kiện về việc buộc bị đơn thanh toán cho nguyên đơn
537.880.000đ phần giá trị quyền sử dụng đất chênh lệch và trả lại tiền chuyển
nhượng đất đã nhận, nên buộc bị đơn vợ cH ông Ya CH, bà Ma H phải chịu án
phí dân sự sơ thẩm đối với yêu cầu vô hiệu hợp đồng chuyển nhượng quyền sử
dụng đất 300.000đồng và phải chịu án phí trên số tiền phải thanh toán cho ông M
là 20.000.000đồng + (537.880.000đ - 400.000.000đ) x 4% = 25.515.200đồng,
tổng cộng là 25.815.200đồng (hai mươi lăm triệu tám trăm mười lăm ngàn hai
trăm đồng);
Buộc ông Vũ Xuân M phải chịu án phí dân sự sơ thẩm trên số tiền
262.120.000đ không được chấp nhận là 262.120.000đ x5% = 13.106.000đồng
(mười ba triệu một trăm lẻ sáu ngàn đồng)
Vì các lẽ trên;
QUYẾT ĐỊNH:
Căn cứ khoản 3 Điều 26, điểm a khoản 1 Điều 35, điểm a khoản 1 Điều 39,
các Điều 147, 217, 220, 227, 228, 232, 264, 266 và Điều 267 của Bộ luật Tố tụng
dân sự.
Căn cứ các Điều 121, 122, 124, 127, 128, 134, 697, 698 của Bộ luật Dân sự
năm 2005;
Căn cứ Điều 106, Điều 127 của Luật Đất đai năm 2003.
Căn cứ Điều 117 Nghị định 181 ngày 29/10/2004 của Chính phủ quy định
chi tiết một số điều của Luật đất đai năm 2003;
14
Căn cứ Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban
Thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử
dụng án phí và lệ phí Tòa án.
Xử:
1. Chấp nhận một phần yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn ông Vũ Xuân M
về việc “tranh chấp hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất”
Tuyên bố hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất lập ngày 24/8/2008
giữa ông Ya CH, bà Ma H và ông Vũ Xuân M đối với diện tích đất khoảng 1000m
2
(đất có chiều dài theo đường là 25m, chiều sâu xuống ruộng giáp mương khoảng
40m) thuộc một phần thửa 164/1340m
2
tờ bản đồ số 40 (theo kết quả đo đạc của
Chi nhánh Văn phòng đăng ký đất đai huyện Đ thể hiện là 848.2m² thuộc một
phần các thửa 82, thửa 89, thửa 81, tờ bản đồ 59 (2013)) tại thôn M, xã DL, huyện
Đ, tỉnh Lâm Đồng là vô hiệu.
Buộc vợ cH ông Ya CH, bà Ma H có nghĩa vụ thanh toán cho ông Vũ Xuân
M tổng cộng 537.880.000đồng (năm trăm ba mươi bảy triệu tám trăm tám mươi
tám ngàn đồng), (trong đó: 75.000.000đồng đã nhận khi chuyển nhượng quyền sử
dụng đất và 462.880.000đồng tiền chênh lệch giá trị quyền sử dụng đất);
Kể từ ngày có đơn yêu cầu thi hành án của người được thi hành án cho đn
khi thi hành án xong, bên phải thi hành án còn phải chịu khoản tiền lãi của số
tiền còn phải thi hành án theo mức lãi suất quy định tại Điều 357, Điều 468 của
Bộ luật Dân sự năm 2015, trừ trường hợp pháp luật có quy định khác”.
2. Không chấp nhận một phần yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn về việc yêu
cầu thanh toán phần chênh lệch giá trị quyền sử dụng đất 262.120.000đồng.
3. Về chi phí tố tụng: buộc vợ cH ông Ya CH, bà Ma H phải thanh toán lại
cho ông Vũ Xuân M số tiền 11.763.500đồng chi phí xem xét, thẩm định tại chỗ,
đo đạc và thẩm định giá tài sản tranh chấp.
4. Về án phí:
Buộc vợ cH ông Ya CH, bà Ma H phải chịu 25.815.200đồng (hai mươi lăm
triệu tám trăm mười lăm ngàn hai trăm đồng) án phí dân sự sơ thẩm;
Buộc ông Vũ Xuân M phải chịu 13.106.000đồng (mười ba triệu một trăm lẻ
sáu ngàn đồng) án phí dân sự sơ thẩm.
Trường hợp bản án, quyết định được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật
Thi hành án dân sự đã được sửa đổi bổ sung năm 2015 thì người được thi hành án
dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thỏa thuận thi hành án, quyền yêu
cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy
định tại các Điều 6, Điều 7, Điều 7a, Điều 7b và Điều 9 Luật Thi hành án dân sự
15
đã được sửa đổi bổ sung năm 2015; Thời hiệu thi hành án được thực hiện theo
quy định tại điều 30 Luật Thi hành án dân sự đã được sửa đổi bổ sung năm 2015.
Trong hạn 15 ngày kể t ngày tuyên án, nguyên đơn và người có quyền lợi
và nghĩa vụ liên quan ông Nguyễn Ngọc L, bà Lê Thị Kim H có mặt có quyền
kháng cáo để yêu cầu Tòa án nhân dân tỉnh Lâm Đồng xét xử phúc thẩm. Riêng
bị đơn và những người có quyền lợi và nghĩa vụ liên quan còn lại vng mặt có
quyền kháng cáo trong hạn 15 (mười lăm) ngày kể t ngày nhận được Bản án
hoặc kể t ngày Bản án được niE yết công khai theo quy định của pháp luật để
yêu cầu Tòa án nhân dân tỉnh Lâm Đồng xét xử phúc thẩm.
Nơi nhận:
- TAND tỉnh Lâm Đồng;
- VKS nhân dân huyện Đ;
- Chi cục THADS huyện Đ;
- Các đương sự;
- Lưu HS vụ án.
TM. HỘI ĐỒNG XÉT XỬ SƠ THẨM
THẨM PHÁN – CHỦ TỌA PHIÊN TÒA
Lê Thị Thanh Vũ
16
THÀNH VIÊN HỘI ĐỒNG XÉT XỬ
CHỦ TỌA PHIÊN TÒA
17
Buộc bà Lê Thị Mỹ có nghĩa vụ trả lại cho ông Nguyễn Văn Cư, bà Nguyễn
Thị Lội diện tích 3.500m
2
đất, thuộc 01 phần thửa đất số 81, tờ bản đồ số 16
(2013), xã Tà Hine, huyện Đ, tỉnh Lâm Đồng và tháo dỡ 01 hệ thống tưới nước tự
động, gồm ống âm đất và bồn nước 1.000m
3
và chân bồn nước trên diện tích
3.500m
2
đất, thuộc 01 phần thửa đất số 81, tờ bản đồ số 16 (2013), xã Tà Hine,
huyện Đ, tỉnh Lâm Đồng.
Tạm giao cho ông Nguyễn Văn Cư, bà Nguyễn Thị Lội quản lý, sử dụng diện
tích 3.500m
2
đất, thuộc 01 phần thửa đất số 81, tờ bản đồ số 16 (2013), xã Tà
Hine, huyện Đ, tỉnh Lâm Đồng.
Ông Nguyễn Văn Cư, bà Nguyễn Thị Lội có trách nhiệm liên hệ cơ quan nhà
nước có thẩm quyền để làm thủ tục cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất theo
quy định của pháp luật.
(Có hoạ đồ kèm theo).
Không chấp nhận đối với yêu cầu của bà Nguyễn Thị Lội về việc yêu cầu bà
Lê Thị Mỹ bồi thường cho bà Nguyễn Thị Lội 39.740.000đồng (400 cây x
198.700đồng/cây = 79.480.000đồng/2).
2. Chấp nhận một phần yêu cầu phản tố của bị đơn bà Lê Thị Mỹ.
Buộc ông Nguyễn Văn Cư, bà Nguyễn Thị Lội có nghĩa vụ liên đới trả cho
bà Lê Thị Mỹ số tiền 246.617.100 đồng giá trị cây trồng trên diện tích 3.500m
2
đất, thuộc 01 phần thửa đất số 81, tờ bản đồ số 16 (2013), xã Tà Hine, huyện Đ,
tỉnh Lâm Đồng (Trong đó phần của ông Nguyễn Văn Cư là 123.308.550 đồng,
phần của bà Nguyễn Thị Lội là 123.308.550 đồng).
Buộc ông Nguyễn Văn Cư có nghĩa vụ trả cho bà Lê Thị Mỹ số tiền
60.000.000 đồng và 1.195.000.000 đồng (tổng cộng là 1.255.000.000 đồng) giá
trị chênh lệch đối với diện tích 3.500m
2
đất, thuộc 01 phần thửa đất số 81, tờ bản
đồ số 16 (2013), xã Tà Hine, huyện Đ, tỉnh Lâm Đồng.
Đình chỉ xét xử đối với yêu cầu của bà Lê Thị Mỹ, về việc bà Lê Thị Mỹ yêu
cầu ông Nguyễn Văn Cư, bà Nguyễn Thị Lội có nghĩa vụ liên đới bồi thường cho
bà Lê Thị Mỹ 50.000.000đồng tiền chi phí đi lại.
3. Căn cứ Điều 357 của Bộ luật dân sự. Kể t ngày người được thi hành án
có đơn yêu cầu thi hành án, bên phải thi hành còn phải chịu số tiền lãi theo quy
định tại Điều 357 của Bộ luật dân sự.
4. Về chi phí tố tụng và án phí:
4.1. Về chi phí tố tụng: Buộc bà Lê Thị Mỹ có nghĩa vụ trả cho bà Nguyễn
Thị Lội số tiền 3.348.000 đồng chi phí xem xét, thẩm định tại chỗ và đo đạc.
4.2. Về án phí:
Bà Lê Thị Mỹ là người cao tuổi và có đơn xin miễn án phí nên miễn toàn bộ
án phí dân sự sơ thẩm cho bà Lê Thị Mỹ theo quy định tại Điều 12 của Nghị quyết
số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội quy
định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa
án.
18
Buộc ông Nguyễn Văn Cư, bà Nguyễn Thị Lội có nghĩa vụ liên đới phải chịu
12.330.850 đồng án phí dân sự sơ thẩm (Trong đó phần của ông Nguyễn Văn Cư
là 6.165.425 đồng, phần của bà Nguyễn Thị Lội là 6.165.425 đồng).
Buộc bà Nguyễn Thị Lội phải chịu 1.987.000 đồng án phí dân sự sơ thẩm,
được tr vào 300.000 đồng án phí bà Nguyễn Thị Lội đã tạm nộp theo biên L thu
tiền tạm ứng án phí, lệ phí Toà án số: 0007764 ngày 01/11/2021 của Chi cục Thi
hành án dân sự huyện Đ, tỉnh Lâm Đồng. Như vậy, bà Nguyễn Thị Lội còn phải
nộp 1.687.000 đồng án phí dân sự sơ thẩm.
Buộc ông Nguyễn Văn Cư phải chịu 49.650.000 đồng án phí dân sự sơ thẩm.
5. Trường hợp bản án, quyết định được thi hành theo quy định tại Điều 2
Luật Thi hành án dân sự đã được sửa đổi bổ sung năm 2015 thì người được thi
hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thỏa thuận thi hành án,
quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án
theo quy định tại các Điều 6, Điều 7, Điều 7a, Điều 7b và Điều 9 Luật Thi hành
án dân sự đã được sửa đổi bổ sung năm 2015; Thời hiệu thi hành án được thực
hiện theo quy định tại điều 30 Luật Thi hành án dân sự đã được sửa đổi bổ sung
năm 2015.
Trong hạn 15 ngày kể t ngày tuyên án các đương sự có quyền kháng cáo để
Tòa án nhân dân tỉnh Lâm Đồng xét xử phúc thẩm. Riêng ông Nguyễn Văn Cư,
vợ cH ông Đào H Sơn, bà Nguyễn Thị Nga có quyền kháng cáo trong hạn 15 ngày
kề t ngày nhận được bản án hoặc niE yết để Tòa án tỉnh Lâm Đồng xét xử phúc
thẩm.
THÀNH VIÊN HỘI ĐỒNG XÉT XỬ
CHỦ TỌA PHIÊN TÒA
Nơi nhận:
- Các đương sự;
- TAND tỉnh Lâm Đồng;
- VKSND huyện Đ;
- Chi cục THA DS huyện Đ;
- Lưu hồ sơ vụ án.
TM. HỘI ĐỒNG XÉT XỬ SƠ THẨM
THẨM PHÁN – CHỦ TỌA PHIÊN TÒA
19
20
Nơi nhận:
- TAND tỉnh Lâm Đồng;
- VKS nhân dân huyện Đ;
- Chi cục THADS huyện Đ;
- Các đương sự;
- Lưu HS vụ án.
TM. HỘI ĐỒNG XÉT XỬ SƠ THẨM
THẨM PHÁN – CHỦ TỌA PHIÊN TÒA
Lê Thị Thanh Vũ
21
22
Tải về
Bản án số 79/2024/DS-ST
Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để tải file. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!
Bản án số 79/2024/DS-ST
Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để tải file. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!
Bản án/ Quyết định cùng đối tượng
1
Ban hành: 17/12/2024
Cấp xét xử: Sơ thẩm
2
Ban hành: 17/12/2024
Cấp xét xử: Sơ thẩm
3
Ban hành: 10/12/2024
Cấp xét xử: Sơ thẩm
4
Ban hành: 09/12/2024
Cấp xét xử: Sơ thẩm
5
Ban hành: 09/12/2024
Cấp xét xử: Sơ thẩm
6
Ban hành: 29/11/2024
Cấp xét xử: Sơ thẩm
7
Ban hành: 27/11/2024
Cấp xét xử: Sơ thẩm
8
Ban hành: 25/11/2024
Cấp xét xử: Sơ thẩm
9
Ban hành: 25/11/2024
Cấp xét xử: Sơ thẩm
10
Ban hành: 22/11/2024
Cấp xét xử: Sơ thẩm
11
Ban hành: 22/11/2024
Cấp xét xử: Sơ thẩm
12
Ban hành: 19/11/2024
Cấp xét xử: Sơ thẩm
13
Ban hành: 19/11/2024
Cấp xét xử: Sơ thẩm
14
Ban hành: 18/11/2024
Cấp xét xử: Sơ thẩm
15
Ban hành: 18/11/2024
Cấp xét xử: Sơ thẩm
16
Ban hành: 13/11/2024
Cấp xét xử: Sơ thẩm
17
Ban hành: 12/11/2024
Cấp xét xử: Sơ thẩm
18
Ban hành: 11/11/2024
Cấp xét xử: Sơ thẩm
19
Ban hành: 11/11/2024
Cấp xét xử: Sơ thẩm
20
Ban hành: 11/11/2024
Cấp xét xử: Sơ thẩm