Bản án số 595/2024/DS-PT ngày 29/11/2024 của TAND cấp cao tại Hà Nội về tranh chấp đất đai
- Thuộc tính
- Nội dung
- VB gốc
- VB liên quan
- Lược đồ
- Đính chính
- Án lệ
- BA/QĐ cùng nội dung
- Tải về
Tải văn bản
-
Bản án số 595/2024/DS-PT
Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để tải file. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!
-
Bản án số 595/2024/DS-PT
Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để tải file. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!
Báo lỗi
Thuộc tính Bản án 595/2024/DS-PT
Tên Bản án: | Bản án số 595/2024/DS-PT ngày 29/11/2024 của TAND cấp cao tại Hà Nội về tranh chấp đất đai |
---|---|
Quan hệ pháp luật: | Tranh chấp đất đai |
Cấp xét xử: | Phúc thẩm |
Tòa án xét xử: | TAND cấp cao tại Hà Nội |
Số hiệu: | 595/2024/DS-PT |
Loại văn bản: | Bản án |
Ngày ban hành: | 29/11/2024 |
Lĩnh vực: | Dân sự |
Áp dụng án lệ: |
Đã biết
Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để xem áp dụng án lệ. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây! |
Đính chính: |
Đã biết
Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để xem đính chính. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây! |
Thông tin về vụ/việc: | Tranh chấp ngõ đi chung |
Tóm tắt Bản án
Nội dung tóm tắt đang được cập nhật, Quý khách vui lòng quay lại sau!
Tải văn bản
TÒA ÁN NHÂN DÂN CẤP CAO
TẠI HÀ NỘI
Bản án số: 595/2024/DS-PT
Ngày 29/11/2024
V/v tranh chấp ngõ đi chung
CỘNG HÒA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM
Độc lập - Tự do - Hạnh phúc
NHÂN DANH
NƯỚC CỘNG HÒA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM
TÒA ÁN NHÂN DÂN CẤP CAO TẠI HÀ NỘI
Thành phần Hội đồng xét xử phúc thẩm gồm có:
Thẩm phán - Chủ tọa phiên tòa: Bà Lê Thị Thúy Bình;
Các Thẩm phán: Bà Phan Thị Vân Hương;
Ông Hồ Sỹ Hưng.
Thư ký Tòa án: Bà Nguyễn Thị Bích Ngọc, Thẩm tra viên Tòa án nhân dân
cấp cao tại Hà Nội.
Đại diện Viện kiểm sát nhân dân cấp cao tại Hà Nội: Bà Vũ Thị Thúy,
Kiểm sát viên tham gia phiên tòa.
Ngày 29 tháng 11 năm 2024 tại trụ sở Tòa án nhân dân cấp cao tại Hà Nội mở
phiên tòa xét xử phúc thẩm công khai vụ án dân sự thụ lý số 427/2024/TLPT-DS
ngày 27 tháng 8 năm 2024 về việc “Tranh chấp ngõ đi chung”.
Do Bản án dân sự sơ thẩm số 48/2024/DS-ST ngày 17 tháng 5 năm 2024
của Toà án nhân dân thành phố Hải Phòng bị kháng cáo.
Theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 12668/2024/QĐ-PT ngày 12 tháng
11 năm 2024 giữa các đương sự:
1. Nguyên đơn: Bà Nguyễn Thị H1, sinh năm 1966; địa chỉ: Tổ dân phố số
XX, phường Đằng H2, quận Hải A, thành phố Hải Phòng; có mặt.
Người đại diện theo ủy quyền của nguyên đơn: Ông Phạm Văn Q1, sinh
năm 1962; địa chỉ: Số XC Hạ Đ1, phường Đông H4, quận Hải A, thành phố Hải
Phòng; có mặt.
2. Bị đơn: Ông Nguyễn Ngọc L1, sinh năm 1969; địa chỉ: Khu 3 Lũng Đ2,
phường Đằng H2, quận Hải A, thành phố Hải Phòng; có mặt.
Người đại diện theo ủy quyền của bị đơn: Bà Phạm Thanh Dạ Q2, sinh năm
1991; địa chỉ: Tòa nhà F, số XXA Phạm Hùng (ngõ Y Nguyễn H5), phường M,
quận N, thành phố Hà Nội; có mặt.
Người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của bị đơn: Luật sư Nguyễn Minh
T1 – Văn phòng Luật sư Vạn B thuộc Đoàn Luật sư thành phố Hà Nội; địa chỉ:
Phòng YYY, tầng Y tòa nhà V, phường T2, quận N, thành phố Hà Nội; có mặt.
3. Người có quyền lợi và nghĩa vụ liên quan:
2
3.1. Ủy ban nhân dân quận Hải A, thành phố Hải Phòng; vắng mặt.
3.2. Bà Lương Thị L2, sinh năm 1971; địa chỉ: Khu 3 Lũng Đ2, phường
Đằng H2, quận Hải A, thành phố Hải Phòng; có mặt.
3.3. Chị Nguyễn Thị L3; địa chỉ: Khu 3 Lũng Đ2, phường Đằng H2, quận
Hải A, thành phố Hải Phòng; vắng mặt.
NỘI DUNG VỤ ÁN:
Theo nguyên đơn là bà Nguyễn Thị H1 và người đại diện theo ủy quyền
thống nhất trình bày:
Năm 2021, bà Nguyễn Thị H1 nhận chuyển nhượng mảnh đất của bà
Nguyễn Thị H6 thửa đất số 139a2, tờ bản đồ số 05, diện tích 90,5m
2
, địa chỉ thửa
đất: Khu 3 Lũng Đ2, phường Đằng H2, quận Hải A, Hải Phòng; do UBND quận
Hải A cấp ngày 11/5/2011 cho bà Nguyễn Thị H6, số vào sổ cấp GCN CHO1923.
Sau khi nhận chuyển nhượng, ngày 08/12/2021 bà H1 đã làm thủ tục sang tên giấy
chứng nhận quyền sử dụng đất (GCNQSDĐ) theo quy định của pháp luật.
Theo sơ đồ tại GCNQSDĐ thì ngõ đi chung nằm về hướng Nam ghé Bắc
rộng 2m; phần ngõ đi chung này đi qua thửa đất của ông Nguyễn Ngọc L1 nằm
liền kề thửa đất của bà H1. Sau khi mua, bà H1 cho bà Nguyễn Thị H6 thuê lại nhà
đất 02 năm. Đến tháng 3/2023, bà H1 nhận lại nhà đất để sử dụng thì ông Nguyễn
Ngọc L1 tự ý rào ngõ đi chung không cho bà H1 đi. Do hai bên không hòa giải
được nên bà H1 đã làm đơn ra phường Đằng H2, quận Hải A đề nghị được giải
quyết. UBND phường Đằng H2 đã mời hai bên lên để tìm hướng giải quyết nhưng
không có kết quả.
Bà H1 khởi kiện yêu cầu: Buộc ông Nguyễn Ngọc L1 phải trả lại ngõ đi
chung cho hộ liền kề là bà Nguyễn Thị H1. Hủy GCNQSDĐ đã cấp cho ông
Nguyễn Ngọc L1.
Theo bị đơn là ông Nguyễn Ngọc L1 và người đại diện theo ủy quyền là bà
Lương Thị L2 trình bày:
Ông Nguyễn Ngọc L1 có bố là cụ Nguyễn Ngọc L4; cụ L4 có diện tích đất
thổ cư là 777m
2
tại phường Đằng H2, quận Hải A, Hải Phòng sử dụng từ trước
năm 1980. Ngày 10/10/2003, cụ L4 đã chia tách và làm thủ tục tặng cho con là
Nguyễn Ngọc L1 300m
2
, Nguyễn Ngọc L5 300m
2
, còn lại 177m
2
thì cụ L4 sử
dụng. Việc chia đất đã được Ủy ban nhân dân phường xác nhận, Ủy ban nhân dân
quận Hải A đã cấp GCNQSDĐ cho ông Nguyễn Ngọc L1 300m
2
đất ở, thửa đất số
140, tờ bản đồ số 05 GCNQSDĐ số 00752 cấp ngày 20/9/2004; Nguyễn Ngọc L5
300m
2
đất ở, thửa đất số 139a, tờ bản đồ số 05 GCNQSDĐ số 00751 cấp ngày
20/9/2004 và Nguyễn Ngọc L4 177m
2
đất ở, thửa đất số 139, tờ bản đồ số 05
GCNQSDĐ số 00753 cấp ngày 20/9/2004. Trên các GCNQSDĐ của cả 3 thửa đất
trên không thể hiện ngõ đi; trên thực tế cụ L4, ông L5 vẫn sử dụng lối đi qua nhà
của ông L1 như hiện trạng.
3
Sau này, ông L5 (anh ông L1) đã tặng cho lại thửa đất của ông L5 cho cụ L4
và cụ L4 đã tách thửa đất này thành 03 thửa khác nhau để tặng cho con gái là
Nguyễn Thị H6, Nguyễn Thị L3 và Nguyễn Thị H7. Sau khi tặng cho các con gái
thửa đất trên thì các chị em trong gia đình vẫn sử dụng lối đi qua nhà ông L1. Quá
trình sử dụng đất, bà L6 đã mở lối đi rộng khoảng 02m đi trên đất nông nghiệp
phía sau nhà. Khoảng năm 2021, bà H6 thì bán đất cho bà Nguyễn Thị H1. Đến
năm 2023, ông L1 đã rào lại ngõ đi qua phần đất của ông bởi vì ông L1 cho rằng
phần diện tích ngõ đi này đang nằm trên thửa đất ông đã được cấp GCNQSDĐ từ
năm 2003.
Ông L1 cho rằng, trước đây đều là người trong nhà nên ông vẫn đồng ý để
mọi người sử dụng lối đi này làm lối đi chung; bà H1 không phải là người trong
nhà nên ông L1 không đồng cho bà H1 sử dụng lối đi này. Trong trường hợp bắt
buộc phải cắt phần đất này làm ngõ đi chung thì ông L1 yêu cầu bà H1 phải bồi
thường cho ông L1 số tiền là 40.000.000 đồng/1m
2
lấy bao nhiêu đất nhà ông L1
làm ngõ đi chung thì phải bồi thường bấy nhiêu; ông L1 không yêu cầu bà L6 phải
trả tiền liên quan đến ngõ đi chung.
Theo người có quyền lợi và nghĩa vụ liên quan là Ủy ban nhân dân quận
Hải A trình bày:
- Về nguồn gốc và quá trình sử dụng đất.
Cụ Nguyễn Ngọc L4 có mảnh đất thổ cư tại phường Đằng H2 của gia đình
sử dụng từ trước năm 1980 có diện tích là 777m
2
. Trước khi làm thủ tục cấp
GCNQSDĐ đã chia tách cho các con Nguyễn Ngọc L1 300m
2
, Nguyễn Ngọc L5
300m
2
, còn lại 177m
2
. Giấy chia đất lập vào ngày 10/10/2003 và được Ủy ban
nhân dân phường xác nhận cùng ngày. Sau đó Ủy ban nhân dân quận Hải A đã cấp
GCNQSDĐ cho ông Nguyễn Ngọc L1 300m
2
đất ở, thửa đất số 140, tờ bản đồ số
05; GCNQSDĐ số 00752 cấp ngày 20/9/2004; Nguyễn Ngọc L5 300m
2
đất ở,
thửa đất số 139a, tờ bản đồ số 05 GCNQSDĐ số 00751 cấp ngày 20/9/2004 và
Nguyễn Ngọc L4 177m
2
đất ở, thửa đất số 139, tờ bản đồ số 05 GCNQSDĐ số
00753 cấp ngày 20/9/2004; cả 3 thửa đất nêu trên không thể hiện ngõ đi.
Sau đó, ông L5 tặng cho bố là cụ L4 toàn bộ quyền sử dụng đất được bố
chia nêu trên theo hợp đồng tặng cho quyền sử dụng đất được Ủy ban nhân dân
phường Đằng H2 xác nhận ngày 20/6/2009 và cụ L4 được Ủy ban nhân dân quận
Hải A cấp GCNQSDĐ (đối với thửa đất được tặng cho này) số CH 00757 ngày
23/8/2010. Khi lập hồ sơ cấp GCNQSDĐ cho cụ L4, Ủy ban nhân dân phường
Đằng H2 đã lập trích đo có thể hiện phần ngõ đi của thửa đất rộng 2m đi qua đất
của ông L1 và ông L1 cũng đã ký vào biên bản xác định ranh giới mốc giới thửa
đất. Tuy nhiên, từ đó đến nay ông L1 chưa làm thủ tục đăng ký biến động phần
diện tích đất làm ngõ đi trên thửa đất của mình.
Sau khi được cấp Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất đối với thửa đất nhận
tặng cho từ con trai Nguyễn Ngọc L5, ông Nguyễn Ngọc L4 tách thửa đất ra thành
3 thửa đất và sử dụng phần diện tích 14,3 x 2 = 28,6m
2
làm ngõ đi cho 3 thửa đất
4
được tách ra. Ba thửa đất được tách ra ông Nguyễn Ngọc L4 đã tặng cho 3 người
con gái Nguyễn Thị H6 90,5m
2
, được Ủy ban nhân dân quận Hải A cấp
GCNQSDĐ số CH 01923 ngày 11/5/2011; Nguyễn Thị L3 90,5m
2
được Ủy ban
nhân dân quận Hải A cấp GCNQSDĐ số CH 01921 ngày 11/5/2011; Nguyễn Thị
H7 90,4m
2
được Ủy ban nhân dân quận Hải A cấp GCNQSDĐ số CH 01922 ngày
11/5/2011.
Hiện tại chỉ có thửa đất của bà Nguyễn Thị H7 chưa có nhà trên đất còn lại
các thửa đất đã có nhà trên đất.
Bà Nguyễn Thị H1 nhận chuyển nhượng quyền sử dụng đất của bà Nguyễn
Thị H6, đã đăng ký biến động tại Chi nhánh Văn phòng đăng ký đất đai theo hồ sơ
số 003887.CN.003 ngày 08/12/2021.
Cụ L4 và các người con gái được tặng cho đất đều sử dụng ngõ đi chung đi
qua thửa đất của ông L1 từ trước đến nay không tranh chấp gì và hiện trạng vẫn là
ngõ đi chung. Các thửa đất này chỉ có một lối đi duy nhất là đi qua thửa đất của
ông L1. Vì vậy khi lập hồ sơ cấp GCNQSDĐ cho cụ L4 nhận tặng cho quyền sử
dụng đất của con trai ông Nguyễn Ngọc L5 thì Ủy ban nhân dân phường kiểm tra
hiện trạng là ngõ đi nên lập hồ sơ thêm phần ngõ đi theo hiện trạng mà không
kiểm tra phần diện tích đất ngõ đó đã được cấp GCNQSDĐ cho ông L1. Khi bà
Nguyễn Thị H1 có Đơn gửi Ủy ban nhân dân phường giải quyết ngõ đi, Ủy ban
nhân dân phường Đằng H2 mới phát hiện ra ngõ đi chung của 4 thửa đất hiện tại
nằm trong phần đất đã được cấp GCNQSDĐ.
Theo người có quyền lợi và nghĩa vụ liên quan đến vụ án là bà Nguyễn Thị
L3 trình bày: Bà L6 là chủ thửa đất số 139a1 và 139a, đều có diện tích 90,4m
2
; địa
chỉ thửa đất: Khu 3 Lũng Đ2, phường Đằng H2, quận Hải A, Hải Phòng. Các thửa
đất trên có nguồn gốc là của cụ L4 (bố bà L6) tách thửa 139a diện tích 300m
2
thành 3 thửa đất và sử dụng phần diện tích 14,3 x 2 = 28,6m
2
làm ngõ đi cho 3
thửa đất được tách ra. Ba thửa đất được tách ra cụ L4 đã tặng cho 3 người con gái
Nguyễn Thị H6 90,5m
2
, được Ủy ban nhân dân quận Hải A cấp GCNQSDĐ số
CH 01923 ngày 11/5/2011; Nguyễn Thị L3 90,5m
2
được Ủy ban nhân dân quận
Hải A cấp GCNQSDĐ số CH 01921 ngày 11/5/2011; Nguyễn Thị H7 90,4m
2
được Ủy ban nhân dân quận Hải A cấp GCNQSDĐ số CH 01922 ngày 11/5/2011.
Đến năm 2023, bà H7 đã làm thủ tục tặng cho thửa đất của mình cho bà L6; bà H6
đã chuyển nhượng thửa đất của mình cho bà Nguyễn Thị H1.
Trước đây, gia đình cụ L4 vẫn sử dụng lối đi chung qua nhà ông L1. Sau
này, bà L6 đã mở lối đi riêng vào thửa đất của mình. Bà L6 cho rằng lối đi của vào
các thửa đất của bà đang sử dụng không liên quan gì đến lối đi của thửa đất bà H1
và thửa đất của bà L6 không phải sử dụng lối đi qua thửa đất của ông L1. Bà L6 đề
nghị Tòa án không đưa bà tham gia tố tụng với tư cách người có quyền lợi và
nghĩa vụ liên quan, bà L6 đề nghị Tòa án giải quyết vắng mặt bà.
Theo kết quả xác minh tại Ủy ban nhân dân phường Đằng H2, quận Hải A,
Hải Phòng thể hiện:
5
Thửa đất số 139a2, tờ bản đồ số 05, diện tích 90,5m
2
, địa chỉ thửa đất: Khu
3 Lũng Đ2, phường Đằng H2, quận Hải A, Hải Phòng được ra tách thửa 139a diện
tích 300m
2
của cụ Nguyễn Ngọc L4.
Quá trình sử dụng thửa đất 139a, cụ L4 đã làm thủ tục chia thửa đất của
mình thành 3 thửa đất và sử dụng phần diện tích 14,3 x 2 = 28,6m
2
làm ngõ đi cho
3 thửa đất được tách ra. Cụ L4 đã tặng cho 3 người con gái Nguyễn Thị H6
90,5m
2
, được Ủy ban nhân dân quận Hải A cấp GCNQSDĐ số CH 01923 ngày
11/5/2011; Nguyễn Thị L3 90,5m
2
được Ủy ban nhân dân quận Hải A cấp
GCNQSDĐ số CH 01921 ngày 11/5/2011; Nguyễn Thị H7 90,4m
2
được Ủy ban
nhân dân quận Hải A cấp GCNQSDĐ số CH 01922 ngày 11/5/2011. Sau này bà
H6 đã chuyển nhượng thửa đất của mình cho bà H1; ngày 02/8/2023, bà H7 đã
tặng cho thửa đất của mình cho bà L6.
Thực tế, phần ngõ đi hiện trạng qua nhà ông L1 là ngõ đi chung của các thửa
đất 140, 139a, 139a1, 139a2. Việc bà L6 tự ý mở lối đi riêng để ra đường nội bộ
trong khu tái định cư điểm số 3 là không phù hợp với quy định của pháp luật; phần
đất này nằm trong quy hoạch dự án công viên cây xanh phường Đằng H2.
Quá trình giải quyết vụ án, Tòa án đã tiến hành thẩm định định giá tài sản:
Phần diện tích 200m
2
đất thổ cư có giá thị trường là 40.000.000 đồng/1m
2
; phần
diện tích 100m
2
ghi đất vườn tạp có giá là 140.000 đồng/1m
2
; giá trị vật kiến trúc
trên đất là 4.861.600 đồng.
Tại phiên tòa, đại diện theo ủy quyền của nguyên đơn có ý kiến: Giữ nguyên
yêu cầu khởi kiện buộc gia đình ông Nguyễn Ngọc L1 phải trả lại phần ngõ đi
chung của thửa đất. Rút yêu cầu hủy GCNQSDĐ của ông L1. Đồng ý hỗ trợ công
sức xây dựng tôn tạo ngõ đi chung cho gia đình ông L1 số tiền 50.000.000 đồng.
Tại phiên tòa sơ thẩm, đại diện theo ủy quyền của Ủy ban nhân dân quận
Hải A có ý kiến: Đối với nội dung khởi kiện của nguyên đơn đề nghị Hội đồng xét
xử xem xét giải quyết theo quy định của pháp luật theo hướng xác định các thửa
đất phía trong được đi ngõ rộng 02 m qua thửa đất nhà ông L1 như lịch sử để lại
cũng như các giấy chứng nhận quyền sử dụng đất đã cấp cho các hộ liền kề phía
trong. Mặc dù, phần ngõ đi chung nằm trong thửa đất nhà ông L1 đã được cấp
GCNQSDĐ. Trong trường hợp buộc ông L1 phải trả lại ngõ đi chung cũng không
cần phải hủy GCNQSDĐ mà chỉ cần yêu cầu Ủy ban nhân dân quận Hải A và cơ
quan có thẩm quyền chính lý biến động đất đai bằng việc cấp đổi lại GCNQSDĐ
theo quy định của pháp luật bởi vì căn cứ khoản 2 Điều 106 Luật đất đai năm
2013, trường hợp này không thuộc trường hợp phải thu hồi, hủy bỏ GCNQSDĐ.
Tại Bản án dân sự sơ thẩm số 48/2024/DS-ST ngày 17 tháng 5 năm 2024,
Tòa án nhân dân thành phố Hải Phòng đã quyết định: Căn cứ vào khoản 9 Điều
26; điểm a khoản 1 Điều 35; điểm a khoản 1 Điều 39; khoản 4 Điều 91; Điều 144;
Điều 147; Điều 217; khoản 2 Điều 224; khoản 2 Điều 227 và khoản 3 Điều 228
Bộ luật Tố tụng dân sự; các điều 245, 254 Bộ luật Dân sự; Điều 23, Điều 170,
Điều 171 Luật Đất đai; điểm đ khoản 1 Điều 12 Nghị quyết số
6
326/2016/UBTVQH14 ngày 30 tháng 12 năm 2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc
hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí
Tòa án.
Tuyên xử:
1. Đình chỉ xét xử sơ thẩm yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn về việc: Yêu
cầu hủy Giấy chứng nhận quyền sử dụng thửa đất số 140, tờ bản đồ số 05, diện
tích 300m
2
; tại địa chỉ: Khu 3 Lũng Đ2, phường Đằng H2, quận Hải A, Hải
Phòng; do Ủy ban nhân dân quận Hải A cấp cho ông Nguyễn Ngọc L1 có số vào
sổ 00752 ngày 20/9/2004.
2. Chấp nhận yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn:
- Xác định phần diện tích 28,6m
2
theo các mốc 1-1’-25’-25-1 (Có sơ đồ
hiện trạng kèm theo) tại thửa đất số 140, tờ bản đồ số 05, diện tích 300m
2
; tại địa
chỉ: Khu 3 Lũng Đ2, phường Đằng H2, quận Hải A, Hải Phòng; do Ủy ban nhân
dân quận Hải A cấp cho ông Nguyễn Ngọc L1 có số vào sổ 00752 ngày 20/9/2004
là ngõ đi chung của các thửa 140, 139a, 139a1, 139a2 tờ bản đồ số 5; địa chỉ thửa
đất: Khu 3 Lũng Đ2, phường Đằng H2, quận Hải A, Hải Phòng.
Các đương sự có quyền liên hệ Ủy ban nhân dân quận Hải A và cơ quan có
thẩm quyền cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất để đề nghị chỉnh lý biến động
đất đai bằng hình thức cấp mới giấy chứng nhận quyền sử dụng đất theo quy định
của pháp luật.
- Buộc gia đình ông Nguyễn Ngọc L1 phải tháo dỡ phần tường bao ngăn
cách ngõ tại các mốc 1-25 và không được cản trở việc đi lại của các hộ gia đình
giáp ranh với đoạn ngõ trên. (Có sơ đồ hiện trạng kèm theo).
- Chấp nhận sự tự nguyện của của bà Nguyễn Thị H1 thanh toán số tiền
50.000.000 đồng cho ông Nguyễn Ngọc L1.
Kể từ ngày bản án có hiệu lực pháp luật (đối với các trường hợp cơ quan thi
hành án có quyền chủ động ra quyết định thi hành án) hoặc kể từ ngày có đơn yêu
cầu thi hành án của người được thi hành án (đối với các khoản tiền phải trả cho
người được thi hành án) cho đến khi thi hành án xong, bên phải thi hành án còn phải
chịu khoản tiền lãi của số tiền còn phải thi hành án theo mức lãi suất quy định tại
Điều 357, Điều 468 của Bộ luật Dân sự, trừ trường hợp pháp luật có quy định khác.
Ngoài ra, Tòa án cấp sơ thẩm còn quyết định về án phí và thông báo quyền
kháng cáo theo quy định của pháp luật.
Ngày 12/6/2024, bị đơn là ông Nguyễn Ngọc L1 có đơn kháng cáo đề nghị
sửa bản án sơ thẩm theo hướng không chấp nhận yêu cầu khởi kiện của nguyên
đơn bà Nguyễn Thị H1.
Tại phiên tòa phúc thẩm: Các đương sự không thỏa thuận được với nhau về
việc giải quyết vụ án.
Bị đơn ông Nguyễn Ngọc L1 giữ nguyên yêu cầu kháng cáo. Bị đơn, người
đại diện theo ủy quyền của bị đơn và người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của
7
bị đơn đề nghị Hội đồng xét xử sửa bản án sơ thẩm, không chấp nhận yêu cầu khởi
kiện của nguyên đơn, xác định diện tích 28,6m
2
đất đang tranh chấp thuộc quyền
sở hữu hợp pháp của ông L1, trường hợp bà H1 muốn có ngõ đi thì buộc bà H1 bồi
thường cho ông L1 40.000.000đ/m
2
x 28,6m
2
, ông L1 có trách nhiệm đăng ký biến
động.
Nguyên đơn bà Nguyễn Thị H1 đề nghị bác yêu cầu kháng cáo và giữ
nguyên bản án sơ thẩm.
Đại diện Viện kiểm sát nhân dân cấp cao tại Hà Nội sau khi phân tích nội
dung vụ án, các tài liệu chứng cứ có trong hồ sơ vụ án và phát biểu quan điểm giải
quyết vụ án đề nghị Hội đồng xét xử không chấp nhận kháng cáo của bị đơn ông
Nguyễn Ngọc L1 và giữ nguyên bản án sơ thẩm.
NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN:
Sau khi nghiên cứu các tài liệu, chứng cứ có trong hồ sơ vụ án; ý kiến của
các đương sự; quan điểm của Kiểm sát viên về việc giải quyết vụ án. Hội đồng xét
xử phúc thẩm nhận định:
[1] Ngày 28/7/2023, bà Nguyễn Thị H1 có đơn khởi kiện đề nghị Tòa án
tuyên buộc ông Nguyễn Ngọc L1 phải phá dỡ tường rào, trả lại lối đi chung và đề
nghị hủy GCNQSDĐ có số vào sổ 00752 ngày 20/9/2004 do Ủy ban nhân dân
quận Hải A cấp cho ông Nguyễn Ngọc L1. Tòa án nhân dân thành phố Hải Phòng
thụ lý, giải quyết vụ án là đúng quy định tại khoản 9 Điều 26, khoản 4 Điều 34,
Điều 39 Bộ luật tố tụng Dân sự và khoản 4 Điều 32 Luật tố tụng hành chính.
Tại phiên tòa sơ thẩm, đại diện theo ủy quyền của nguyên đơn rút một phần
yêu cầu khởi kiện đề nghị Hủy GCNQSDĐ có số vào sổ 00752 ngày 20/9/2004 do
Ủy ban nhân dân quận Hải A cấp cho ông Nguyễn Ngọc L1 đối với thửa đất số
140, tờ bản đồ số 05, diện tích 300m
2
tại địa chỉ: Khu 3 Lũng Đ2, phường Đằng
H2, quận Hải A, Hải Phòng. Xét, yêu cầu của đại diện theo ủy quyền của nguyên
đơn là hoàn toàn tự nguyện và không trái quy định của pháp luật nên Tòa án cấp
sơ thẩm đình chỉ giải quyết một phần yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn là đúng
quy định tại khoản 2 Điều 244 Bộ luật Tố tụng dân sự.
[2] Xét yêu cầu khởi kiện của bà Nguyễn Thị H1 và yêu cầu kháng cáo của
ông Nguyễn Ngọc L1, Hội đồng xét xử thấy:
[2.1] Về nguồn gốc, quá trình sử dụng diện tích đất đang có tranh chấp:
Quá trình giải quyết vụ án, các đương sự đều thống nhất xác định: Nguồn gốc diện
tích đất tranh chấp nằm trong tổng diện tích 777m
2
tại phường Đằng H2, quận Hải
A, Hải Phòng có nguồn gốc là của cụ Nguyễn Ngọc L4 (bố đẻ ông Nguyễn Ngọc
L1). Ngày 10/10/2003, cụ L4 đã làm đơn tách hộ và chia đất cho các con, được Ủy
ban nhân dân phường Đằng H2 xác nhận cùng ngày; cụ thể: Cụ L4 sử dụng
177m
2
; tặng cho con trai là ông Nguyễn Ngọc L1 sử dụng 300m
2
; ông Nguyễn
Ngọc L5 sử dụng 300m
2
. Ủy ban nhân dân quận Hải A đã cấp Giấy chứng nhận
quyền sử dụng đất cho ông Nguyễn Ngọc L1 300m
2
đất thổ cư (trong đó có 200m
2
8
đất ở và 100m
2
đất vườn tạp), thửa đất số 140, tờ bản đồ số 05, Giấy chứng nhận
quyền sử dụng đất số 00752 cấp ngày 20/9/2004, Nguyễn Ngọc L5 300m
2
đất thổ
cư (trong đó có 200m
2
đất ở và 100m
2
đất vườn tạp), thửa đất số 139a, tờ bản đồ
số 05, Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất số 00751 cấp ngày 20/9/2004 và
Nguyễn Ngọc L4 177m
2
đất ở, thửa đất số 139, tờ bản đồ số 05, Giấy chứng nhận
quyền sử dụng đất số 00753 cấp ngày 20/9/2004. Trên giấy chứng nhận quyền sử
dụng đất của cả 3 thửa đất trên không thể hiện ngõ đi. Tuy nhiên, từ sau khi tách
đất cụ L4, ông L5 và ông L1 vẫn sử dụng lối đi có chiều rộng khoảng 02m qua
thửa đất nhà ông L1.
Sau đó ông Nguyễn Ngọc L5 tặng cho bố là cụ Nguyễn Ngọc L4 toàn bộ
quyền sử dụng đất được bố chia nêu trên theo hợp đồng tặng cho quyền sử dụng
đất được Ủy ban nhân dân phường Đằng H2 xác nhận ngày 20/6/2009 và cụ L4
được Ủy ban nhân dân quận Hải A cấp Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất (đối
với thửa đất số 139a, tờ bản đồ số 05) số CH 00757 ngày 23/8/2010. Trên giấy
chứng nhận quyền sử dụng đất của cụ L4 có thể hiện phần ngõ đi qua đất của gia
đình ông L1 có chiều rộng 2m.
Năm 2011, cụ L4 tách thửa đất số 139a, tờ bản đồ số 05 thành 3 thửa và
tặng cho 3 người con gái là: Nguyễn Thị H6 90,5m
2
được Ủy ban nhân dân quận
Hải A cấp Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất số CH 01923 ngày 11/5/2011;
Nguyễn Thị L3 90,5m
2
được Ủy ban nhân dân quận Hải A cấp Giấy chứng nhận
quyền sử dụng đất số CH 01921 ngày 11/5/2011; Nguyễn Thị H7 90,4m
2
được Ủy
ban nhân dân quận Hải A cấp Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất số CH 01922
ngày 11/5/2011. Trong các giấy chứng nhận trên chỉ thể hiện một lối đi duy nhất
qua thửa đất của ông L1 có chiều rộng 2m. Năm 2021, bà H6 bán nhà cho bà
Nguyễn Thị H1. Sau khi biết bà H1 mua lại đất của bà H6, ông L1 đã xây tường
rào phân chia thửa đất, bịt kín lối đi không cho bà H1 sử dụng lối đi qua thửa đất
của ông. Năm 2022, cụ Lê Thị Chi (vợ cụ L4) và bà Nguyễn Thị L3 đã mở đường
ra lối đi tuyến 4) không sử dụng lối đi qua nhà ông L1 nữa. Năm 2023, bà Nguyễn
Thị H7 đã làm thủ tục tặng cho thửa đất của mình cho bà Nguyễn Thị L3.
[2.2] Xét yêu cầu buộc ông Nguyễn Ngọc L1 phải phá dỡ tường và trả lại
lối đi chung của bà Nguyễn Thị H1:
Ông Nguyễn Ngọc L1 cho rằng phần diện tích đất tranh chấp theo kết quả
xem xét thẩm định, định giá tài sản ngày 22/12/2023 xác định có chiều rộng 02m,
dài 14,3m, diện tích là 28,6m
2
đã được Ủy ban nhân dân quận Hải A cấp giấy
chứng nhận quyền sử dụng đất cho gia đình ông. Trên giấy chứng nhận quyền sử
dụng thửa đất số 140 tờ bản đồ số 5 của ông Nguyễn Ngọc L1 không thể hiện lối
đi chung của các thửa 140, 139a, 139a1, 139a2 tờ bản đồ số 5 nên ông không đồng
ý mở lối đi chung theo yêu cầu của bà H1. Tuy nhiên, căn cứ vào lịch sử sử dụng
các thửa đất, lời khai của các đương sự và xác minh tại chính quyền địa phương
thì có căn cứ xác định: Kể từ khi cụ L4 chia tách thửa đất cho 02 con trai là
Nguyễn Ngọc L1 và Nguyễn Ngọc L5 vào năm 2003; thì cụ L4, ông L5, ông L1
9
đã sử dụng lối đi chung rộng 02m qua thửa đất nhà ông L1, phần ngõ đi chung qua
nhà ông L1 là lối đi duy nhất của các thửa đất. Tuy nhiên, do có thiếu sót trong
quá trình làm hồ sơ tách thửa, Ủy ban nhân dân quận Hải A đã không trừ phần đất
làm ngõ đi chung mà cấp liền vào diện tích đất cho ông Nguyễn Ngọc L1 và ông
Nguyễn Ngọc L5.
Năm 2009 sau khi ông L5 làm thủ tục chuyển nhượng lại thửa đất của mình
cho cụ L4. Trong quá trình làm thủ tục cấp đổi lại giấy chứng nhận quyền sử dụng
đất, ngày 15/11/2008 Ủy ban nhân dân phường Đằng H2 đã lập trích đo thể hiện
phần ngõ đi qua thửa đất của ông Nguyễn Ngọc L1 có chiều rộng 2m theo đúng
hiện trạng sử dụng đất và ông Nguyễn Ngọc L1 cũng đã ký vào biên bản xác định
ranh giới mốc giới thửa đất xác định có ngõ đi chung rộng 2m qua thửa đất của
ông đang sử dụng. Tuy nhiên, ông Nguyễn Ngọc L1 chưa làm thủ tục đăng ký
biến động phần diện tích đất làm ngõ đi trên thửa đất của mình.
Quá trình giải quyết vụ án, ông Nguyễn Ngọc L1 thừa nhận có ngõ đi chung
như hiện trạng kể từ khi chia tách đất năm 2003 chỉ khi mẹ và các anh, chị, em của
ông mở lối đi khác, không sử dụng lối đi này thì ông xây tường rào lại không đồng
ý cho bà H1 sử dụng. Bà Nguyễn Thị L3 xác định có mở một lối đi riêng cho các
thửa đất 139a1; 139a2 ra đường nội bộ trong khu tái định cư điểm số 3 và không
sử dụng lối đi chung qua thửa đất của ông L1. Tuy nhiên, Ủy ban nhân dân
phường Đằng H2 và Ủy ban nhân dân quận Hải A đều khẳng định lối đi do bà L6
tự ý mở nằm trên phần đất nông nghiệp chưa được chính quyền cho phép, không
phù hợp với quy hoạch và nằm trong dự án quy hoạch công viên cây xanh. Phần
ngõ đi chung qua thửa đất nhà ông Nguyễn Ngọc L1 như hiện trạng là lối đi duy
nhất của các thửa 140, 139a, 139a1, 139a2 tờ bản đồ số 05; địa chỉ: Khu 3, Lũng
Đ2, phường Đằng H2, quận Hải A, Hải Phòng.
Như vậy, Tòa án cấp sơ thẩm đã chấp nhận yêu cầu khởi kiện của bà
Nguyễn Thị H1 về việc: Buộc ông Nguyễn Ngọc L1 phải tháo tường ngăn giữa
thửa đất 140 và 139a2 để không cản trở việc đi lại vào các thửa 139a, 139a1,
139a2 tờ bản đồ số 05; địa chỉ: Khu 3, Lũng Đ2, phường Đằng H2, quận Hải A,
Hải Phòng có căn cứ, đúng pháp luật.
Do có cơ sở xác định diện tích đất 28,6m
2
thuộc diện tích ông L1 được cấp
giấy chứng nhận quyền sử dụng đất là ngõ đi chung nên cần điều chỉnh giấy chứng
nhận quyền sử dụng đất đã cấp cho ông L1. Các đương sự có quyền liên hệ Ủy
ban nhân dân quận Hải A và cơ quan có thẩm quyền cấp Giấy chứng nhận quyền
sử dụng đất để đề nghị chỉnh lý biến động đất đai bằng hình thức cấp mới giấy
chứng nhận quyền sử dụng đất theo quy định của pháp luật.
[2.3] Đối với yêu cầu của ông Nguyễn Ngọc L1 về việc buộc bà Nguyễn
Thị H1 phải bồi thường phần diện tích đất 28,6m
2
lối đi chung cho gia đình ông,
Hội đồng xét xử thấy:
Quá trình giải quyết vụ án, ông L1 đều thừa nhận ngõ đi chung được tạo lập
từ khi chia tách đất năm 2003 cho đến nay và gia đình ông vẫn đồng ý để cho cụ
10
L4 cùng các chị em là bà H6, bà H7, bà L6 sử dụng lối đi chung này không yêu
cầu những người này phải thanh toán cho gia đình ông L1 giá trị liên quan đến
việc sử dụng ngõ đi chung. Hiện đây là lối đi chung duy nhất của các thửa 140,
139a, 139a1, 139a2 tờ bản đồ số 5 địa chỉ: Khu 3, Lũng Đ2, phường Đằng H2,
quận Hải A, Hải Phòng. Các hộ gia đình ông L1, bà H1, bà L6 đều sử dụng phần
ngõ đi chung nên cùng phải có trách nhiệm đối với việc tạo dựng lối đi chung. Mặt
khác, tại phiên tòa sơ thẩm nguyên đơn bà Nguyễn Thị H1 tự nguyện hỗ trợ cho
gia đình ông Nguyễn Ngọc L1 số tiền 50.000.000 đồng. Xét thấy, đây là sự tự
nguyện của bà H1 cần ghi nhận, thể hiện một phần công sức của bà H1 đóng góp
vào việc tạo lập lối đi chung. Do đó, việc gia đình ông L1 yêu cầu bà H1 phải bồi
thường toàn bộ phần đất ngõ đi chung qua thửa đất của gia đình ông là không có
căn cứ chấp nhận.
Theo lời khai của các đương sự có trong hồ sơ đều thể hiện, phần tường bao
và phần ngõ bê tông qua thửa đất nhà ông L1 là do công sức xây dựng tôn tạo của
vợ chồng ông L1 nên những người sử dụng phần ngõ đi chung này cùng phải có
trách nhiệm thanh toán cho vợ chồng ông L1. Theo kết quả thẩm định, định giá tài
sản thì công sức xây dựng vật kiến trúc trên thửa đất của gia đình ông L1 là
4.861.600 đồng. Do các hộ ông L1, bà H1, bà L6 đều sử dụng phần ngõ đi chung
này nên mỗi người phải thanh toán 1/3 giá trị ngõ đi chung bằng 1.620.533 đồng.
Quá trình giải quyết vụ án, đại diện theo ủy quyền của ông L1 và bản thân ông L1
không yêu cầu bà L6 phải chi trả phần này. Xét yêu cầu này của bị đơn ông
Nguyễn Ngọc L1 và bà Lương Thị L2 là tự nguyện, không bị ai ép buộc nên cần
được chấp nhận.
[3] Tại phiên tòa phúc thẩm, ông Nguyễn Ngọc L1 không cung cấp được
tài liệu, chứng cứ mới cho yêu cầu kháng cáo của mình, nên không có căn cứ chấp
nhận đơn kháng cáo của ông Nguyễn Ngọc L1. Xét đề nghị của đại diện Viện
kiểm sát nhân dân cấp cao tại phiên tòa, không chấp nhận kháng cáo của ông
Nguyễn Ngọc L1, giữ nguyên bản án sơ thẩm là phù hợp, cần chấp nhận.
[4] Về án phí dân sự phúc thẩm: Do kháng cáo không được chấp nhận nên ông
Nguyễn Ngọc L1 phải chịu án phí dân sự phúc thẩm theo quy định của pháp luật.
[5] Các quyết định khác của bản án sơ thẩm không có kháng cáo, kháng
nghị đã có hiệu lực pháp luật kể từ ngày hết thời hạn kháng cáo, kháng nghị.
Vì các lẽ trên,
QUYẾT ĐỊNH:
Căn cứ khoản 1 Điều 308 Bộ luật Tố tụng dân sự; Nghị quyết số
326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội quy
định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án;
Không chấp nhận kháng cáo của bị đơn là ông Nguyễn Ngọc L1; Giữ
nguyên Bản án dân sự sơ thẩm số 48/2024/DS-ST ngày 17 tháng 5 năm 2024 của
Tòa án nhân dân thành phố Hải Phòng.
11
Về án phí dân sự phúc thẩm: Ông Nguyễn Ngọc L1 phải nộp 300.000 đồng,
được đối trừ theo Biên lai thu tiền tạm ứng án phí số 0000464 ngày 24/6/2024 của
Cục Thi hành án dân sự thành phố Hải Phòng.
Các quyết định khác của bản án sơ thẩm không có kháng cáo, kháng nghị đã
có hiệu lực pháp luật kể từ ngày hết thời hạn kháng cáo, kháng nghị.
Bản án phúc thẩm có hiệu lực pháp luật kể từ ngày tuyên án.
CÁC THẨM PHÁN
Phan Thị Vân Hương Hồ Sỹ Hưng
THẨM PHÁN-CHỦ TỌA PHIÊN TÒA
Lê Thị Thúy Bình
Nơi nhận:
- VKSNDCC tại Hà Nội;
- TAND thành phố Hải Phòng;
- VKSND thành phố Hải Phòng;
- Cục THADS thành phố Hải Phòng;
- Các đương sự (theo địa chỉ);
- Lưu HCTP, HSVA.
T.M HỘI ĐỒNG XÉT XỬ PHÚC THẨM
Thẩm phán - Chủ tọa phiên tòa
Lê Thị Thúy Bình
Tải về
Bản án số 595/2024/DS-PT
Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để tải file. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!
Bản án số 595/2024/DS-PT
Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để tải file. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!
Bản án/ Quyết định cùng đối tượng
1
Ban hành: 20/01/2025
Cấp xét xử: Phúc thẩm
2
Ban hành: 17/01/2025
Cấp xét xử: Phúc thẩm
3
Ban hành: 16/01/2025
Cấp xét xử: Phúc thẩm
4
Ban hành: 16/01/2025
Cấp xét xử: Phúc thẩm
5
Ban hành: 15/01/2025
Cấp xét xử: Phúc thẩm
6
Ban hành: 10/01/2025
Cấp xét xử: Phúc thẩm
7
Ban hành: 08/01/2025
Cấp xét xử: Phúc thẩm
8
Ban hành: 06/01/2025
Cấp xét xử: Phúc thẩm
9
Ban hành: 02/01/2025
Cấp xét xử: Phúc thẩm
10
Ban hành: 30/12/2024
Cấp xét xử: Phúc thẩm
11
Ban hành: 27/12/2024
Cấp xét xử: Phúc thẩm
12
Ban hành: 27/12/2024
Cấp xét xử: Phúc thẩm
13
Ban hành: 26/12/2024
Cấp xét xử: Phúc thẩm
14
Bản án số 89/2024/DS-ST ngày 24/12/2024 của TAND huyện Trần Đề, tỉnh Sóc Trăng về tranh chấp đất đai
Ban hành: 24/12/2024
Cấp xét xử: Phúc thẩm
15
Ban hành: 23/12/2024
Cấp xét xử: Phúc thẩm
16
Ban hành: 18/12/2024
Cấp xét xử: Phúc thẩm
17
Ban hành: 17/12/2024
Cấp xét xử: Phúc thẩm
18
Ban hành: 17/12/2024
Cấp xét xử: Phúc thẩm
19
Ban hành: 16/12/2024
Cấp xét xử: Phúc thẩm
20
Ban hành: 12/12/2024
Cấp xét xử: Phúc thẩm