Bản án số 789/2024/HC-PT ngày 25/07/2024 của TAND cấp cao tại TP.HCM
- Thuộc tính
- Nội dung
- VB gốc
- VB liên quan
- Lược đồ
- Đính chính
- Án lệ
- BA/QĐ cùng nội dung
- Tải về
Tải văn bản
-
Bản án số 789/2024/HC-PT
Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để tải file. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!
-
Bản án số 789/2024/HC-PT
Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để tải file. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!
Báo lỗi
Thuộc tính Bản án 789/2024/HC-PT
Tên Bản án: | Bản án số 789/2024/HC-PT ngày 25/07/2024 của TAND cấp cao tại TP.HCM |
---|---|
Quan hệ pháp luật: | |
Cấp xét xử: | Phúc thẩm |
Tòa án xét xử: | TAND cấp cao tại TP.HCM |
Số hiệu: | 789/2024/HC-PT |
Loại văn bản: | Bản án |
Ngày ban hành: | 25/07/2024 |
Lĩnh vực: | Hành chính |
Áp dụng án lệ: |
Đã biết
Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để xem áp dụng án lệ. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây! |
Đính chính: |
Đã biết
Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để xem đính chính. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây! |
Thông tin về vụ án: | Khiếu kiện quyết định hành chính trong lĩnh vực quản lý thuế |
Tóm tắt Bản án
Nội dung tóm tắt đang được cập nhật, Quý khách vui lòng quay lại sau!
Tải văn bản
TÒA ÁN NHÂN DÂN CẤP CAO
TẠI THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH
Bản án số: 789/2024/HC-PT
Ngày 25 – 7 – 2024
V/v: “Khiếu kiện quyết định hành chính
trong lĩnh vực quản lý thuế”.
CỘNG HÒA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM
Độc lập – Tự do – Hạnh phúc
NHÂN DANH
NƯỚC CỘNG HÒA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM
TÒA ÁN NHÂN DÂN CẤP CAO TẠI THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH
- Thành phần Hội đồng xét xử phúc thẩm gồm có:
Thẩm phán – Chủ tọa phiên tòa:
Ông Lê Thành Long
Các Thẩm phán:
Bà Huỳnh Thanh Duyên
Ông Hà Huy Cầu
- Thư ký phiên tòa: Ông Nguyễn Tấn Duy Minh - Thư ký Tòa án nhân dân
cấp cao tại Thành phố Hồ Chí Minh.
- Đại diện Viện kiểm sát nhân dân cấp cao tại Thành phố Hồ Chí Minh
tham gia phiên tòa: Ông Nguyễn Văn Đảm - Kiểm sát viên.
Ngày 22 và 25 tháng 7 năm 2024, tại trụ sở Tòa án nhân dân cấp cao tại Thành
phố Hồ Chí Minh xét xử phúc thẩm công khai vụ án hành chính thụ lý số:
155/2024/TLPT-HC ngày 01 tháng 03 năm 2024 về việc “Khiếu kiện quyết định
hành chính trong lĩnh vực quản lý thuế”.
Do Bản án hành chính sơ thẩm số 73/2023/HC-ST ngày 14 tháng 12 năm 2023
của Tòa án nhân dân tỉnh Bình Dương bị kháng cáo.
Theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử phúc thẩm số 2212/2024/QĐPT-HC ngày
10 tháng 7 năm 2024, giữa các đương sự:
- Người khởi kiện: Công ty TNHH B1; địa chỉ: lô A-5C-CN, khu công nghiệp
M, phường C, thị xã B, tỉnh Bình Dương.
Người đại diện theo ủy quyền của người khởi kiện: Ông Nguyễn Đăng K (vắng
mặt) và bà Nguyễn Ngọc Tuyết V (có mặt); cùng địa chỉ: phòng E, tầng B, Tòa nhà
Bitexco F, số B, H, phường B, Quận A, Thành phố Hồ Chí Minh.
Người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của người khởi kiện: bà Dương Bá
Ánh D, sinh năm 1977; địa chỉ: Công ty L1 (“LNT”) - phòng 5, tầng B, Tòa nhà
Bitexco F, số B, H, phường B, Quận A, Thành phố Hồ Chí Minh (có mặt).
- Người bị kiện: Cục trưởng Cục Thuế tỉnh B; địa chỉ: số C, Đại lộ B, phường
P, thành phố T, tỉnh Bình Dương.
Người đại diện hợp pháp của người bị kiện: ông Nguyễn Mạnh Đ, chức vụ:
phó Cục trưởng Cục Thuế tỉnh B (văn bản ủy quyền ngày 01/10/2023); có đơn đề
nghị xét xử vắng mặt.
2
Người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của người bị kiện: ông Phạm Văn T,
chức vụ: Trưởng Phòng Thanh tra – kiểm tra số 2; ông Trần Mạnh H, chức vụ:
Trưởng Phòng nghiệp vụ-dự toán-pháp chế; ông Trần Minh Q; chức vụ: công chức
phòng Thanh tra – kiểm tra số 2; đề nghị xét xử vắng mặt.
- Người kháng cáo: Người khởi kiện công ty TNHH B1.
NỘI DUNG VỤ ÁN:
Theo đơn khởi kiện ngày 28/3/2023, đơn khởi kiện sửa đổi bổ sung ngày
16/5/2023, ngày 17/5/2023 và lời khai trong quá trình tố tụng, người đại diện hợp
pháp của người khởi kiện trình bày:
Công ty TNHH B1 (gọi tắt B1) là doanh nghiệp 100% vốn nước ngoài, mã số
doanh nghiệp: 3700798566, đăng ký lần đầu ngày 11/5/2007, đăng ký thay đổi lần
thứ 9 ngày 10/4/2017; trụ sở công ty: Lô A-5C-CN, khu công nghiệp M, thị xã B,
tỉnh Bình Dương.
BK VINA do Bumkoo Industrial C., LTD (gọi tắt B) thành lập với vốn điều
lệ là 1.970.000 đô la Mỹ tương đương 31.539.700.000 đồng và vốn đầu tư là
5.650.000 đô la Mỹ tương đương 90.456.500.000 đồng theo Giấy chứng nhận đầu tư
số 462045000161 do Ban quản lý các khu công nghiệp B cấp lần đầu ngày 11/5/2007.
Ngày 30/5/2008, B đăng ký tăng vốn điều lệ và vốn đầu tư của BK VINA theo giấy
chứng nhận đầu tư thay đổi lần 1; theo đó, vốn điều lệ của B1 là 3.210.000 đô la Mỹ
(vốn góp của B là 100% bằng 3.210.000 đô la Mỹ), tương đương 51.392.100.000
đồng. Tại báo cáo tài chính của BK VINA do Công ty K3., L lập ngày 14/3/2016 thì:
Bumkoo đã góp đủ vốn điều lệ vào BK VINA, thời điểm năm 2015 tài sản của
Bumkoo trị giá 52.450.194.671 đồng.
Ngày 16/11/2016, B đã chuyển nhượng cho bà Eun S Debbie Kim 10% vốn
góp của B trong BK VINA với giá chuyển nhượng là 5.268.390.000 đồng (tương
đương 233.321,08 đô la Mỹ; tỷ giá 1USD = 22.580VNĐ) theo hợp đồng chuyển
nhượng vốn góp số 01/HĐCTVG/2016; và chuyển nhượng cho ông Peter Kim 1 vốn
góp của B trong BK VINA theo hợp đồng chuyển nhượng vốn góp số
02/HĐCTVG/2016 với giá chuyển nhượng là 5.268.390.000 đồng (tương đương
233.321, 08 đô la Mỹ; tỷ giá 1USD = 22.580VNĐ).
Ngày 27/12/2016, B1 đã thay mặt Bumkoo thực hiện nghĩa vụ kê khai thuế
thu nhập phát sinh từ hoạt động chuyển nhượng vốn góp đối với 02 hợp đồng chuyển
nhượng số 01/HĐCTVG/2016 và 02/HĐCTVG/2016, số tiền thuế phải nộp là
54.192.000 đồng.
Ngày 21/3/2022, Cục Thuế tỉnh B kiểm tra thanh tra thuế tại B1 về việc chuyển
nhượng vốn góp của BK VINA. Theo hai biên bản làm việc cùng ngày, Cục Thuế
tỉnh B cho rằng: BK VINA là bên chuyển nhượng vốn cho ông, bà D1 và ông P theo
hai hợp đồng số 01/HĐCTVG/2016 và 02/HĐCTVG/2016, đồng thời áp đặt giá vốn
và ấn định thuế không đúng như sau:
- Vốn góp 20% trong BK VINA trị giá là 7.494.791.220 đồng;
-Giá chuyển nhượng vốn góp 20% trong BK VINA của 02 hợp đồng chuyển
nhượng là 10.536.779.972 đồng;
3
- Khấu trừ giá vốn và giá chuyển nhượng thì thu nhập chịu thuế là
3.041.988.752 đồng, số thuế phải nộp bằng 20% thu nhập chịu thuế bằng
608.397.751đồng.
Ngày 23/5/2022, căn cứ vào biên bản làm việc ngày 21/3/2022, Cục Thuế tỉnh
B đã ban hành Thông báo tạm tính nộp thuế thu nhập doanh nghiệp số 8758/TB-
CTBDU thông báo BK VINA phải nộp số tiền là 1.009.760.303 đồng, bao gồm tiền
thuế thu nhập doanh nghiệp từ hoạt động chuyển nhượng vốn (608.397.751đồng),
tiền phạt do kê khai sai, và tiền thuế chậm nộp.
Ngày 16/9/2022, BK VINA có thư khiếu nại số 0901/CV/BKVN/2022 gửi
Cục Thuế về cách tính thuế thu nhập doanh nghiệp tại thông báo số 8758 là chưa
đúng pháp luật.
Ngày 27/9/2022, Cục Thuế tỉnh B ban hành Thông báo số 15329/TB-CTBDU
với nội dung thư khiếu nại số 0901/CV/BKVN/2022 không đủ điều kiện thụ lý giải
quyết vì hết thời hiệu khiếu nại (trên 90 ngày) mà không có lý do chính đáng.
Ngày 17/10/2022, Cục Thuế tỉnh B ban hành Thông báo số 15996/TN-
CTBDU xác nhận thông báo tạm tính số 8758 là quyết định hành chính và khiếu nại
của B1 không đủ điều kiện thụ lý giải quyết.
Ngày 16/5/2023, B1 nộp đơn khởi kiện Cục Thuế tỉnh B với yêu cầu Tòa án
hủy Thông báo tạm tính nộp thuế thu nhập doanh nghiệp số 8758/TB-CTBDU ngày
23/5/2022, với các lý do sau:
- Cục Thuế tỉnh B xác định sai đối tượng chịu thuế theo quy định tại điểm c
khoản 2 Điều 2 của Luật Thuế thu nhập doanh nghiệp năm 2008 và khoản 1 Điều 14
của Thông tư số 78/2014/TT-BTC; vì bên chuyển nhượng vốn góp là B không phải
BK VINA, BK VINA chỉ thực hiện khai báo nộp thuế thay cho B.
- Giá chuyển nhượng 10% phần vốn góp của BK VINA là 5.268.390.000
đồng, thời điểm chuyển nhượng năm 2016, giá trị tài sản của BK VINA theo báo cáo
tài chính (đã nộp cho cơ quan thuế) ở thời điểm năm 2015 là 52.450.194.671 đồng;
do đó, thu nhập chịu thuế được bằng giá chuyển nhượng trừ đi giá vốn mới đúng.
Cục Thuế tự ý ấn định giá vốn mà không căn cứ vào báo cáo tài chính của BK VINA,
tự ấn định vốn góp chuyển nhượng tiền Việt sang USD để tính thuế là không đúng.
- Thời hiệu xử phạt vi phạm hành chính đối với hành vi kê khai sai thuế dẫn
đến thiếu số tiền thuế phải nộp là 05 năm, kể từ ngày thực hiện hành vi vi phạm đến
ngày ra quyết định xử phạt. Hợp đồng chuyển nhượng vốn của B phát sinh từ ngày
16/11/2016 và thời hạn BK VINA nộp hồ sơ kê khai thuế sẽ hết vào ngày 27/11/2016
(khoản 7 Điều 12 của Thông tư số 156/2013/TT-BTC, sửa đổi Điều 16 của Thông tư
151/2014/TT-BTC). Do đó, thời hiệu 05 năm tính từ ngày 27/11/2016 đến ngày
27/11/2021 nên phần nội dung xử phạt do kê khai thuế sai tại Thông báo tạm tính
nộp thuế thu nhập doanh nghiệp số 8758/TB-CTBDU ngày 23/5/2022 là đã hết thời
hiệu.
Ngoài ra, khoản 3 Điều 65 của Luật Xử lý vi phạm hành chính năm 2012 và
khoản 34 Điều 1 của Luật Xử lý vi phạm hành chính (sửa đổi năm 2020) thì thời hạn
ra quyết định xử phạt là 07 ngày làm việc kể từ ngày lập biên bản vi phạm hành
chính. Biên bản làm việc ngày 21/3/2022 của Cục T xác định BK VINA vi phạm về
4
kê khai nộp thuế do chuyển nhượng vốn góp nhưng đến ngày 23/5/2022 Cục Thuế
mới ban hành Thông báo số 8758/TB-CTBDU có nội dung xử phạt vi phạm hành
chính trong lĩnh vực thuế là đã hết thời hạn xử phạt.
Người bị kiện Cục trưởng Cục Thuế tỉnh B và người đại diện hợp pháp trình
bày (Văn bản số 18475/CTBDU-TTKT2 ngày 09/8/2023):
Thu nhập tính thuế từ chuyển nhượng vốn được xác định tại điểm a, khoản 2,
Điều 14 của Thông tư 78/2014/TT-BTC ngày 18 tháng 06 năm 2014 như sau:
Thu nhập tính thuế = Giá chuyển nhượng – giá mua của phần vốn chuyển
nhượng - chi phí chuyển nhượng.
Doanh nghiệp có chuyển nhượng một phần vốn góp trong doanh nghiệp mà
giá chuyển nhượng không phù hợp theo giá thị trường thì cơ quan thuế có quyền
kiểm tra và ấn định lại toàn bộ giá trị của doanh nghiệp tại thời điểm chuyển nhượng
để xác định lại giá chuyển nhượng tương ứng với tỷ lệ phần vốn góp chuyển nhượng.
Điều 8 của Thông tư số 96/2015/TT-BTC ngày 22/6/2015 và điểm a khoản 2
Điều 14 của Thông tư số 78/2014/TT-BTC quy định:
Nếu là chuyển nhượng vốn góp thành lập doanh nghiệp là giá trị phần vốn góp
lũy kế đến thời điểm chuyển nhượng vốn trên cơ sở sổ sách, hồ sơ, chứng từ kế toán
và được các bên tham gia đầu tư vốn hoặc tham gia hợp đồng hợp tác kinh doanh xác
nhận, hoặc kết quả kiểm toán của công ty K4 đối với doanh nghiệp 100% vốn nước
ngoài.
Nếu là phần vốn do mua lại thì giá mua là giá trị vốn tại thời điểm mua. Giá
mua được xác định căn cứ vào hợp đồng mua lại phần vốn góp, chứng từ thanh toán.
Trường hợp doanh nghiệp đủ điều kiện hạch toán kế toán bằng đồng ngoại tệ
và thực hiện theo đúng quy định của pháp luật về chế độ kế toán có chuyển nhượng
vốn góp bằng ngoại tệ thì giá chuyển nhượng và giá mua của phần vốn chuyển
nhượng được xác định bằng đồng ngoại tệ. Trường hợp doanh nghiệp hạch toán kế
toán bằng đồng Việt Nam có chuyển nhượng vốn góp bằng ngoại tệ thì giá chuyển
nhượng phải được xác định bằng đồng Việt Nam theo tỷ giá mua vào của Ngân hàng
thương mại nơi doanh nghiệp mở tài khoản tại thời điểm chuyển nhượng.
Về yêu cầu khởi kiện của BK VINA:
- Giấy chứng nhận đầu tư ghi nhận việc góp vốn của Công ty B2 vào Việt
Nam để thành lập BK VINA với số ngoại tệ là 3.210.000 USD (100% vốn góp); BK
VINA hoạt động và hạch toán kế toán bằng đồng Việt Nam nên giá chuyển nhượng
làm căn cứ tính thuế được xác định bằng đồng Việt Nam.
Đối với hai hợp đồng chuyển nhượng vốn 01/HDCTVG/2016 ngày
16/11/2016 và 02/HDCTVG/2016 ngày 16/11/2016: Giá chuyển nhượng 10% vốn
góp bằng 233.321,08 USD tương đương 5.268.390.000 VNĐ là chưa phù hợp. Do
đó, Cục Thuế xác định lại như sau:
Vốn của BK VINA là 3.210.000USD, 10% vốn bằng 321.000 USD; chuyển
nhượng 10% vốn bằng 233.321,08 USD x 22.580VND = 5.268.390.000 VND (giá
trên hợp đồng). Báo cáo tài chính năm 2017 thì nguồn vốn theo số dư năm 2016 là
52.450.194.671 đồng, chi tiết vốn góp của BK VINA và tình hình góp vốn điều lệ
5
theo giấy chứng nhận đầu tư là 3.210.000 USD tương đương 52.450.194.671 đồng
(quy ra tỷ giá theo VNĐ là 52.450.194.671 đồng/3.210.000USD = 16.339,62 đồng).
Do đó, giá vốn Cục thuế quy ra VNĐ theo thời điểm góp vốn tỷ giá 16.089 đồng để
làm căn cứ tính thuế là phù hợp.
- BK VINA phải nộp thuế thay cho BUMKOO là đúng pháp luật.
Điểm b, Điều 16, Thông tư 151/2014/TT-BTC ngày 10/10/2014 sửa đổi Điều
12, Thông tư 156/2013/TT-BTC như sau:
“7. Khai thuế thu nhập doanh nghiệp đối với hoạt động chuyển nhượng vốn:
b) Tổ chức nước ngoài kinh doanh tại Việt Nam hoặc có thu nhập tại Việt
Nam (gọi chung là nhà thầu nước ngoài) mà tổ chức này không hoạt động theo Luật
Đầu tư, Luật Doanh nghiệp có hoạt động chuyển nhượng vốn thì khai thuế thu nhập
doanh nghiệp theo từng lần phát sinh. Tổ chức, cá nhân nhận chuyển nhượng vốn có
trách nhiệm xác định, kê khai, khấu trừ và nộp thay tổ chức nước ngoài số thuế thu
nhập doanh nghiệp phải nộp. Trường hợp bên nhận chuyển nhượng vốn cũng là tổ
chức nước ngoài không hoạt động theo Luật Đầu tư, Luật Doanh nghiệp thì doanh
nghiệp thành lập theo P1 nơi các tổ chức nước ngoài đầu tư vốn có trách nhiệm kê
khai và nộp thay số thuế thu nhập doanh nghiệp phải nộp từ hoạt động chuyển nhượng
vốn của tổ chức nước ngoài.”
Căn cứ quy định nêu trên, BUMKOO, ông Peter K1 và bà Eun Seung Debbie
K2 đều là tổ chức và cá nhân không có trụ sở, cư trú tại Việt Nam ở thời điểm chuyển
nhượng. BUMKOO là chủ đầu tư của B1, góp 100% vốn thành lập BK VINA tại
Việt Nam; do dó, cơ sở thường trú của BUMKOO tại Việt Nam là BK VINA, theo
Điều 5 Hiệp định giữa Chính phủ nước C1 và Chính phủ Đại Hàn dân quốc về tránh
đánh thuế hai lần và ngăn ngừa việc trốn lậu thuế giữa hai nhà nước thì BK VINA
phải kê khai và nộp thuế thay cho B.
- Về xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực thuế quá thời hiệu:
Khoản 1 Điều 66 của Luật Xử lý vi phạm hành chính số 15/2012/QH13 ngày
20/06/2012 quy định:
“ Người có thẩm quyền xử phạt vi phạm hành chính phải ra quyết định xử
hành chính thời hạn 07 ngày, kể từ ngày lập biên bản vi phạm. Đối với vụ việc có
nhiều tình tiết phức tạp mà không thuộc trường hợp xử phạt vi phạm hành chính
trong thời hạn 07 ngày, kể từ ngày lập biên bản vi phạm hoặc đối với vụ việc thuộc
trường hợp giải trình theo quy định tại khoản 2 và khoản 3 Điều 61 của Luật này thì
thời hạn ra quyết định xử phạt tối đa là 30 ngày, kể từ ngày lập biên bản…”.
Cục thuế tỉnh B đã nhiều lần gia hạn thời gian để BK VINA chứng minh thực
tế không phát sinh hoạt động chuyển nhượng nhưng BK VINA không chứng minh
được. Theo Biên bản làm việc giữa đại diện Phòng Thanh tra kiểm tra số 2 và BK
VINA ngày 07/04/2022, BK VINA vẫn không đồng ý việc tính thuế chuyển nhượng
vốn của cơ quan thuế theo Biên bản làm việc ngày 21/3/2022. Đến ngày 23/5/2022,
Cục thuế tỉnh B ban hành thông báo nộp thuế, xử phạt vi phạm hành chính đối với
BK VINA.
Cục trưởng Cục thuế tỉnh B không đồng ý với yêu cầu khởi kiện của BK
VINA.
6
Tại Bản án hành chính sơ thẩm số 73/2023/HC-ST ngày 14 tháng 12 năm
2023 của Tòa án nhân dân tỉnh Bình Dương, quyết định:
Căn cứ khoản 1 và 2 Điều 3, Điều 30, khoản 3 và khoản 4 Điều 32, điểm a
khoản 2 Điều 116, Điều 164, điểm b khoản 2 Điều 193, Điều 194, Điều 204, Điều
206, Điều 348 của Luật Tố tụng hành chính năm 2015; khoản 2 Điều 137 của Luật
Quản lý thuế năm 2019; khoản 1 Điều 66 của Luật Xử lý vi phạm hành chính năm
2012 (được sửa đổi, bổ sung năm 2020);
Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường
vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí
và lệ phí Tòa án.
1. Chấp nhận yêu cầu khởi kiện của Công ty TNHH B1 đối với Cục trưởng
Cục thuế tỉnh B về việc yêu cầu hủy Thông báo tạm tính nộp thuế thu nhập doanh
nghiệp số 8758/TB-CTBDU ngày 23/5/2022;
2. Tuyên hủy Thông báo tạm tính nộp thuế thu nhập doanh nghiệp số 8758/TB-
CTBDU ngày 23/5/2022 của Cục trưởng Cục Thuế tỉnh B.
Buộc Cục trưởng Cục thuế tỉnh B phải giải quyết lại nghĩa vụ nộp thuế thu
nhập doanh nghiệp phát sinh từ 02 Hợp đồng chuyển nhượng vốn góp số
01/HĐCTVG/2016 ngày 16/11/2016 và số 02/HĐCTVG/2016 ngày 16/11/2016 theo
đúng quy định của pháp luật.
Ngoài ra bản án sơ thẩm còn tuyên về phần án phí, thi hành án và quyền kháng
cáo theo luật định.
Ngày 18/12/2023, người bị kiện Công ty TNHH B1 kháng cáo một phần bản
án sơ thẩm. Yêu cầu cấp phúc thẩm sửa bản án sơ thẩm theo hướng chấp nhận toàn
bộ yêu cầu khởi kiện của người khởi kiện.
Tại phiên tòa phúc thẩm,
Người đại diện theo ủy quyền của người khởi kiện Công ty TNHH B1 giữ
nguyên nội dung kháng cáo.
Người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của người khởi kiện trình bày: Công
ty B1 không phải là đối tượng kê khai và nộp thuế thu nhập doanh nghiệp phát sinh
từ hoạt động chuyển nhượng vốn góp số 01/HĐCTVG/2016 và 02/ HĐCTVG/2016
cùng ngày 16/11/2016. Do đó Công ty B1 cũng không vi phạm pháp luật về xử lý vi
phạm hành chính và pháp luật về quản lý thuế. Vì thế đề nghị Hội đồng xét xử chấp
nhận kháng cáo của người khởi kiện, sửa bản án sơ thẩm theo hướng chấp nhận toàn
bộ yêu cầu khởi kiện.
Đại diện Viện kiểm sát nhân dân cấp cao tại Thành phố Hồ Chí Minh phát
biểu quan điểm giải quyết vụ án như sau:
Về việc tuân theo pháp luật: Kể từ khi thụ lý vụ án đến thời điểm xét xử phúc
thẩm, Thẩm phán và Hội đồng xét xử đã tuân thủ đúng các quy định của Luật tố tụng
hành chính.
Về nội dung: Sau khi phân tích, đánh giá các tài liệu, chứng cứ có trong hồ sơ
vụ án và kết quả tranh luận tại phiên tòa, xét thấy tòa án cấp sơ thẩm xét xử là có căn
7
cứ, đúng pháp luật. Tại phiên tòa phúc thẩm, người kháng cáo không cung cấp thêm
được tài liệu, chứng cứ nào mới chứng minh cho yêu cầu kháng cáo của mình. Vì
vậy, đề nghị Hội đồng xét xử bác kháng cáo của Công ty B1 và giữ nguyên bản án
sơ thẩm.
NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN:
Sau khi nghiên cứu các tài liệu có trong hồ sơ vụ án đã được thẩm tra tại
phiên tòa; Căn cứ kết quả tranh luận tại phiên tòa; xét đề nghị của Đại diện Viện
Kiểm sát, Hội đồng xét xử nhận định:
[1] Về tố tụng:
[1.1] Đơn kháng cáo của Công ty TNHH B1 đúng về hình thức, nội dung và
nộp trong thời hạn luật định nên hợp lệ.
[1.2] Người đại diện hợp pháp của người bị kiện có đơn xin xét xử vắng mặt
nên Hội đồng xét xử tiến hành xét xử vắng mặt theo quy định tại Điều 225 Luật tố
tụng hành chính.
[1.3] Ngày 23/5/2022 Cục Thuế tỉnh B đã ban hành Thông số 8758/TB-
CTBDU thông báo BK VINA phải nộp số tiền là 1.009.760.303 đồng, bao gồm tiền
thuế thu nhập doanh nghiệp từ hoạt động chuyển nhượng vốn (608.397.751đồng),
tiền phạt do kê khai sai, và tiền thuế chậm nộp. Do đó Tòa sơ thẩm xác định Thông
báo số 8758/TB-CT là quyết định hành chính và thụ lý, giải quyết là đúng quy định
tại các khoản 1, 2 Điều 3, Điều 30, Điều 32 và Điều 116 của Luật Tố tụng hành chính.
[2] Về nội dung:
Cục trưởng Cục thuế tỉnh B ban hành Thông báo tạm tính nộp thuế thu nhập
doanh nghiệp số 8758/TB-CTBDU ngày 23/5/2022 yêu cầu Công ty B1 phải nộp
thuế thu nhập do chuyển nhượng vốn góp, tiền chậm nộp thuế và tiền phạt do kê khai
sai trong lĩnh vực thuế. Không đồng ý với Thông báo số 8758/TB-CTBDU, Công ty
B1 khiếu nại.
Ngày 17/10/2022, Cục Thuế tỉnh B ban hành Thông báo số 15996/TN-
CTBDU xác định khiếu nại của B1 không đủ điều kiện thụ lý giải quyết và Thông
báo số 8758/TB-CTBDU là quyết định hành chính, BK VINA có quyền khởi kiện
vụ án hành chính theo quy định của pháp luật.
Ngày 16/5/2023, Công ty B1 VINA nộp đơn khởi kiện yêu cầu hủy Thông báo
số 8758/TB-CTBDU, đồng thời yêu cầu Cục trưởng Cục thuế tỉnh B trả lại số tiền
thuế (và lãi suất chậm trả) mà Công ty B1 đã nộp theo Thông báo số 8758/TB-
CTBDU.
[3] Xét yêu cầu kháng cáo, Hội đồng xét xử nhận thấy:
[3.1] Về đối tượng nộp thuế:
Bumkoo là doanh nghiệp nước ngoài không hoạt động theo Luật Đầu tư, Luật
Doanh nghiệp Việt Nam nhưng góp 100% vốn để thành lập Công ty B1 và Công ty
này hoạt động theo Luật Đầu tư, Luật Doanh nghiệp Việt Nam. Tuy nhiên, B có hoạt
động chuyển nhượng vốn cho 2 cá nhân có địa chỉ thường trú tại nước ngoài là bà E
và ông P nên cũng phải nộp thuế. Theo hợp đồng chuyển nhượng vốn góp ngày
8
16/11/2016, B là bên chuyển nhượng, còn bên nhận chuyển nhượng vốn là bà E và
ông P.
- Căn cứ điểm d khoản 2 Điều 2 Luật thuế TNDN số 14/2008/QH12 của Quốc
hội quy định:
“Điều 2. Người nộp thuế
2. Doanh nghiệp có thu nhập chịu thuế quy định tại Điều 3 của Luật này phải
nộp thuế thu nhập doanh nghiệp như sau:
d) Doanh nghiệp nước ngoài không có cơ sở thường trú tại Việt Nam nộp thuế
đối với thu nhập chịu thuế phát sinh tại Việt Nam.”
- Căn cứ khoản 1 Điều 1 Nghị định số 12/2015/NĐ-CP12/2/2015 của Chính
phủ sửa đổi, bổ sung khoản 3 Điều 3 Nghị định số 218/2013/NĐ-CP:
“3 Thu nhập chịu thuế phát sinh tại Việt Nam của các doanh nghiệp nước
ngoài quy định tại các Điểm c, d Khoản 2 Điều 2 Luật Thuế thu nhập doanh nghiệp
là thu nhập nhận được có nguồn gốc từ Việt Nam từ hoạt động cung ứng dịch vụ,
cung cấp và phân phối hàng hóa, cho vay vốn, tiền bản quyền cho tổ chức cá nhân
Việt Nam hoặc cho tổ chức, cá nhân nước ngoài đang kinh doanh tại Việt Nam hoặc
từ chuyển nhượng vốn, dự án đầu tư, quyền góp vốn, quyền tham gia các dự án đầu
tư, quyền thăm dò, khai thác, chế biến tài nguyên khoáng sản tại Việt Nam, không
phụ thuộc vào địa điểm tiến hành kinh doanh.”
- Căn cứ Thông tư số 78/2024/TT-BTC ngày 18/6/2014 của Bộ T1 hướng dẫn
thi hành Nghị định số 218/2013/NĐ-CP26/12/2013 của Chính phủ quy định và
hướng dẫn thi hành luật Thuế thu nhập doanh nghiệp:
+ Tại khoản 2 Điều 2 quy định về người nộp thuế:
“2. Tổ chức nước ngoài sản xuất kinh doanh tại Việt Nam không theo Luật
Đầu tư, Luật Doanh nghiệp hoặc có thu nhập phát sinh tại Việt Nam nộp thuế thu
nhập doanh nghiệp theo hướng dẫn riêng của Bộ T1. Các tổ chức này nếu có hoạt
động chuyển nhượng vốn thì thực hiện nộp thuế thu nhập doanh nghiệp theo hướng
dẫn tại Điều 14 Chương IV Thông tư này.”
+ Tại Điều 14 quy định về thu nhập từ chuyển nhượng vốn:
“Điều 14. Thu nhập từ chuyển nhượng vốn
1. Phạm vi áp dụng:
Thu nhập từ chuyển nhượng vốn của doanh nghiệp là thu nhập có được từ
chuyển nhượng một phần hoặc toàn bộ số vốn của doanh nghiệp đã đầu tư cho một
hoặc nhiều tổ chức, cá nhân khác (bao gồm cả trường hợp bán doanh nghiệp). Thời
điểm xác định thu nhập từ chuyển nhượng vốn là thời điểm chuyển quyền sở hữu vốn.
...2. Căn cứ tính thuế:
...c) Đối với tổ chức nước ngoài kinh doanh tại Việt Nam hoặc có thu nhập tại
Việt Nam mà tổ chức này không hoạt động theo Luật Đầu tư, Luật Doanh nghiệp
(gọi chung là nhà thầu nước ngoài) có hoạt động chuyển nhượng vốn thì thực hiện
kê khai, nộp thuế như sau:
9
Tổ chức, cá nhân nhận chuyển nhượng vốn có trách nhiệm xác định, kê khai,
khấu trừ và nộp thay tổ chức nước ngoài số thuế thu nhập doanh nghiệp phải nộp.
Trường hợp bên nhận chuyển nhượng vốn cũng là tổ chức nước ngoài không hoạt
động theo Luật Đầu tư, Luật Doanh nghiệp thì doanh nghiệp thành lập theo P1 nơi
các tổ chức nước ngoài đầu tư vốn có trách nhiệm kê khai và nộp thay số thuế thu
nhập doanh nghiệp phải nộp từ hoạt động chuyển nhượng vốn của tổ chức nước
ngoài.
Việc kê khai thuế, nộp thuế được thực hiện theo quy định tại các văn bản quy
phạm pháp luật về quản lý thuế.”
Căn cứ Thông tư số 96/2015/TT-BTC ngày 22/06/2015 của Bộ T1 hướng dẫn
về thuế thu nhập doanh nghiệp tại Nghị định số 12/2015/NĐ-CP ngày 12/2/2015 của
Chính phủ quy định chi tiết thi hành Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của các Luật
về thuế và sửa đổi bổ sung một số điều của các Nghị định về thuế và sửa đổi, bổ sung
một số điều của Thông tư số 78/2014/TT-BTC ngày 18/6/2014, Thông tư số
119/2014/TT-BTC ngày 25/8/2014, Thông tư số 151/2014/TT-BTC ngày
10/10/2014 của Bộ T1.
+ Tại Điều 8 sửa đổi, bổ sung gạch đầu dòng thứ hai điểm a Khoản 2 Điều 14
Thông tư số 78/2014/TT-BTC như sau:
“- Giá mua của phần vốn chuyển nhượng được xác định đối với từng trường
hợp như sau:
+ Nếu là chuyển nhượng vốn góp thành lập doanh nghiệp là giá trị phần vốn
góp lũy kế đến thời điểm chuyển nhượng vốn trên cơ sở so sánh, hồ sơ, chứng từ kế
toán và được các bên tham gia đầu tư vốn hoặc tham gia hợp đồng hợp tác kinh
doanh xác nhận, hoặc kết quả kiểm toán của công ty K4 đối với doanh nghiệp 100%
vốn nước ngoài.
+ Nếu là phần vốn do mua lại thì giá mua là giá trị vốn tại thời điểm mua.
Giá mua được xác định căn cứ vào hợp đồng mua lại phần vốn góp, chứng từ thanh
toán.
Trường hợp doanh nghiệp đủ điều kiện hạch toán kế toán bằng đồng ngoại tệ
và thực hiện theo đúng quy định của pháp luật về chế độ kế toán có chuyển nhượng
vốn góp bằng ngoại tệ thì giá chuyển nhượng và giá mua của phần vốn chuyển
nhượng được xác định bằng đồng ngoại tệ; Trường hợp doanh nghiệp hạch toán kế
toán bằng đồng Việt Nam có chuyển nhượng vốn góp bằng ngoại tệ thì giá chuyển
nhượng phải được xác định bằng đồng Việt Nam theo tỷ giá mua vào của Ngân hàng
thương mại nơi doanh nghiệp mở tài khoản tại thời điểm chuyển nhượng”.
Như vậy, theo quy định nêu trên thì doanh nghiệp có thu nhập từ chuyển
nhượng vốn thì khoản thu nhập này được xác định là khoản thu nhập khác và kê khai
vào thu nhập chịu thuế khi tính thuế thu nhập doanh nghiệp. Đồng thời do đây là
trường hợp cả bên chuyên nhượng và bên nhận chuyển nhượng đều không hiện diện
tại Việt Nam, không hoạt động theo Luật Đầu tư, Luật Doanh nghiệp cho nên người
có trách nhiệm thực hiện kê khai và và nộp thay số thuế thu nhập doanh nghiệp phải
nộp từ hoạt động chuyển nhượng vốn của tổ chức nước ngoài là doanh nghiệp có
phần vốn được chuyển nhượng.
10
Do đó Cục T xác định Công ty B1 là bên chuyển nhượng vốn góp theo hai
hợp đồng nêu trên và thông báo Công ty này phải nộp thuế là không đúng quy định
mà Công ty B1 chỉ là tổ chức có trách nhiệm kê khai và nộp thuế thay cho B trong
02 hợp đồng chuyển nhượng vốn góp.
[3.2] Về thời hiệu, thời hạn xử phạt vi phạm hành chính đối với hành vi trốn
thuế, kê khai sai thuế:
Theo quy định tại điểm b Khoản 7 Điều 16 Thông tư số 151/2014/TT-BTC
(sửa đổi bổ sung Điều 12 Thông tư số 156/2013/TT-BTC) của Bộ T1 quy định về
thời hạn nộp hồ sơ kê khai thuế:
“Thời hạn nộp hồ sơ khai thuế là ngày thứ 10 (mười) kể từ ngày cơ quan có
thẩm quyền chuẩn y việc chuyển nhượng vốn, hoặc ngày thứ 10 (mười) kể từ ngày
các bên thỏa thuận chuyển nhượng vốn tại hợp đồng chuyển nhượng vốn đối với
trường hợp không phải chuẩn y việc chuyển nhượng vốn.”
Theo quy định tại Khoản 2 Điều 137 của Luật Quản lý thuế năm 2019 quy
định thời hiệu xử phạt vi phạm hành chính về quản lý thuế:
“Đối với hành vi trốn thuế chưa đến mức truy cứu trách nhiệm hình sự, hành
vi khai sai dẫn đến thiếu số tiền thuế phải nộp hoặc tăng số tiền thuế được miễn,
giảm, hoàn, không thu thì thời hiệu xử phạt là 05 năm kể từ ngày thực hiện hành vi
vi phạm.”
Theo các quy định nêu trên thì Hợp đồng chuyển nhượng vốn của B phát sinh
từ ngày 16/11/2016 và thời hạn BK VINA nộp hồ sơ kê khai thuế sẽ hết vào ngày
27/11/2016. Tuy nhiên đến ngày 21/3/2022 Cục Thuế tỉnh B mới lập Biên bản làm
việc với BK VINA trong đó xác định BK VINA có hành vi kê khai thuế sai là quá
thời hạn 05 năm. Đồng thời theo quy định theo quy định tại Điều 66 của Luật Xử lý
vi phạm hành chính, thời hạn tối đa sau khi được gia hạn của người có thẩm quyền
thì không quá 60 ngày kể từ ngày lập biên bản vi phạm hành chính, người có thẩm
quyền phải ra quyết định xử phạt. Nhưng đến ngày 23/5/2022 (áp dụng cách tính thời
hạn theo quy định tại Điều 147 và 148 của Bộ luật Dân sự là 62 ngày), Cục thuế tỉnh
B mới ban hành Thông báo số 8758/TB-CTBDU có nội dung xử phạt hành chính đối
với Công ty B1 là quá thời hạn theo quy định của Luật xử lý vi phạm hành chính.
[3.3] Về tỷ giá ngoại tệ quy đổi để tính thuế:
Căn cứ Thông tư số 26/2015/TT-BTC ngày 27/02/2015 của Bộ T1 hướng dẫn
về thuế giá trị gia tăng và quản lý thuế tại Nghị định số 12/2015/NĐ-CP ngày
12/02/2015 của Chính phủ quy định chi tiết thi hành Luật sửa đổi, bổ sung một số
điều của các Luật về thuế và sửa đổi, bổ sung một số điều của các Nghị định về thuế
và sửa đổi, bổ sung một số điều của Thông tư số 39/2014/TT-BTC ngày 31/3/2014
của Bộ T1 về hóa đơn bán hàng hóa, cung ứng dịch vụ.
+ Tại Khoản 4 Điều 2 sửa đổi, bổ sung Điều 27 Thông tư số 156/2013/TT-
BTC ngày 6/11/2013 của Bộ T1 như sau:
"3. Trường hợp phát sinh doanh thu, chi phí, giá tính thuế bằng ngoại tệ thì
phải quy đổi ngoại tệ ra đồng Việt Nam theo tỷ giá giao dịch thực tế theo hướng dẫn
của Bộ T1 tại Thông tư số 200/2014/TT-BTC ngày 22 tháng 12 năm 2014 hướng dẫn
về chế độ kế toán doanh nghiệp như sau:
11
- Tỷ giá giao dịch thực tế để hạch toán doanh thu là tỷ giá mua vào của Ngân
hàng thương mại nơi người nộp thuế mở tài khoản.
- Tỷ giá giao dịch thực tế để hạch toán chi phí là tỷ giá bán ra của Ngân hàng
thương mại nơi người nộp thuế mở tài khoản tại thời điểm phát sinh giao dịch thanh
toán ngoại tệ.
- Các trường hợp cụ thể khác thực hiện theo hướng dẫn của Bộ T1 tại Thông
tư số 200/2014/TT-BTC ngày 22 tháng 12 năm 2014.”
Như nhận định ở trên [3.1] Bumkoo thực hiện chuyển nhượng phần góp vốn
trong BK Vina cho cá nhân nước ngoài không hiện diện tại Việt Nam thì hoạt động
này thuộc diện phải kê khai và nộp thuế thu nhập doanh nghiệp từ hoạt động chuyển
nhượng vốn tại Việt Nam.
Công ty B1 có trách nhiệm kê khai và nộp thay số thuế thu nhập doanh nghiệp
phải nộp đối với thu nhập phát sinh từ giao dịch chuyển nhượng vốn của Công ty B2
theo hướng dẫn tại Điều 14 Thông tư số 78/2014/TT-BTC ngày 18/06/2014; Điều 8
Thông tư số 96/2015/TT-BTC ngày 22/06/2015 và Điều 16 Thông tư số
151/2014/TT-BTC ngày 10/10/2014 của Bộ T1.
Về tỷ giá quy đổi từ ngoại tệ sang đồng Việt Nam thì thực hiện theo hướng
dẫn tại Khoản 4 Điều 2 Thông tư số 26/2015/TT-BTC ngày 27/02/2015 của Bộ T1.
Do đó Cục thuế tỉnh B quy đổi từ ngoại tệ sang đồng Việt Nam là đúng quy định.
Tuy nhiên Hợp đồng chuyển nhượng vốn góp ngày 16/11/2016 với nội dung:
chuyển nhượng 10% vốn góp với giá 5.268.390.000 đồng, tương đương 233.321, 08
đô la Mỹ. Tỷ giá thời điểm tháng 11/2016 là 1USD = 22.580VND. Do đó, trường
hợp cơ quan thuế tính theo tỷ giá thì phải tính thời điểm tháng 11/2016 là thời điểm
phát sinh thu nhập chịu thuế.
Cục T quy đổi số tiền chuyển nhượng 5.268.390.000 đồng vào thời điểm 2016
(22.580VND = 1USD) sang USD ở thời điểm 2008 (16.339,62 VND= 1USD) , sau
đó quy đổi sang VNĐ để làm căn cứ tính thuế là chưa đúng pháp luật.
Do đó Tòa sơ thẩm tuyên hủy Thông báo số 8758/TB-CTBDU ngày 23/5/2022
của Cục trưởng Cục T. Đồng thời chưa giải quyết đối với yêu cầu của Công ty B1
VINA về việc Cục thuế tỉnh B phải trả lại toàn bộ số tiền thuế mà Công ty B1 đã nộp
(theo Thông báo số 8758/TB-CTBDU) và lãi suất chậm trả mà sau khi Cục thuế tỉnh
B giải quyết lại nếu hai bên còn tranh chấp thì Tòa án sẽ giải quyết bằng một vụ án
khác là đúng quy định.
Vì vậy yêu cầu kháng cáo của Công ty B1 đề nghị sửa bản án sơ thẩm theo
hướng chấp nhận toàn bộ yêu cầu khởi kiện không được Hội đồng xét xử chấp nhận.
[4] Quan điểm của đại diện Viện Kiểm sát nhân dân cấp cao tại Thành phố Hồ
Chí Minh phù hợp với nhận định của Hội đồng xét xử.
[5] Các phần khác của Bản án sơ thẩm không có kháng cáo, kháng nghị có
hiệu lực pháp luật kể từ ngày hết thời hạn kháng cáo, kháng nghị.
[6] Về án phí hành chính phúc thẩm: Do kháng cáo không được chấp nhận
nên Công ty TNHH B1 phải chịu án phí hành chính phúc thẩm.
12
Vì các lẽ trên.
QUYẾT ĐỊNH:
Căn cứ khoản 1 Điều 241 Luật Tố tụng hành chính năm 2015;
[1] Không chấp nhận kháng cáo của Công ty TNHH B1.
Giữ nguyên bản án hành chính sơ thẩm số 73/2023/HC-ST ngày 14 tháng 12
năm 2023 của Tòa án nhân dân tỉnh Bình Dương.
Căn cứ khoản 1 và 2 Điều 3, Điều 30, khoản 3 và khoản 4 Điều 32, điểm a
khoản 2 Điều 116, Điều 164, điểm b khoản 2 Điều 193, Điều 194, Điều 204, Điều
206, Điều 348 của Luật Tố tụng hành chính năm 2015; khoản 2 Điều 137 của Luật
Quản lý thuế năm 2019; khoản 1 Điều 66 của Luật Xử lý vi phạm hành chính năm
2012 (được sửa đổi, bổ sung năm 2020); Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày
30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu,
nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án.
[2] Tuyên xử:
1. Chấp nhận một phần yêu cầu khởi kiện của Công ty TNHH B1 đối với Cục
trưởng Cục thuế tỉnh B về việc yêu cầu hủy Thông báo tạm tính nộp thuế thu nhập
doanh nghiệp số 8758/TB-CTBDU ngày 23/5/2022;
2. Tuyên hủy Thông báo tạm tính nộp thuế thu nhập doanh nghiệp số 8758/TB-
CTBDU ngày 23/5/2022 của Cục trưởng Cục Thuế tỉnh B.
Buộc Cục trưởng Cục thuế tỉnh B phải giải quyết lại nghĩa vụ nộp thuế thu
nhập doanh nghiệp phát sinh từ 02 Hợp đồng chuyển nhượng vốn góp số
01/HĐCTVG/2016 ngày 16/11/2016 và số 02/HĐCTVG/2016 ngày 16/11/2016 theo
đúng quy định của pháp luật.
[3] Các phần khác của Bản án sơ thẩm không có kháng cáo, kháng nghị có
hiệu lực pháp luật kể từ ngày hết thời hạn kháng cáo, kháng nghị.
[4] Về án phí hành chính phúc thẩm: Công ty TNHH B1 phải chịu 300.000
đồng, nhưng được khấu trừ 300.000 đồng vào tiền tạm ứng án phí hành chính phúc
thẩm đã nộp theo Biên lai thu tiền số 0000040 ngày 26/12/2023 của Cục Thi hành
án dân sự tỉnh Bình Dương.
[5] Bản án hành chính phúc thẩm có hiệu lực pháp luật kể từ ngày tuyên án.
Nơi nhận:
- Tòa án nhân dân tối cao;
- VKSNDCC tại TP Hồ Chí Minh;
- TAND tỉnh Bình Dương;
- VKSND tỉnh Bình Dương
- Cục THADS tỉnh Bình Dương
- NKK;
- NBK;
- Lưu VT (6), HS (2) T.15 (BA 36)
(1)
(1)
(1)
(1)
(1)
(1)
(1)
TM. HỘI ĐỒNG XÉT XỬ PHÚC THẨM
THẨM PHÁN - CHỦ TỌA PHIÊN TÒA
Lê Thành Long
Tải về
Bản án số 789/2024/HC-PT
Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để tải file. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!
Bản án số 789/2024/HC-PT
Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để tải file. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!
Bản án/ Quyết định cùng đối tượng
1
Ban hành: 14/01/2025
Cấp xét xử: Phúc thẩm
2
Ban hành: 10/01/2025
Cấp xét xử: Phúc thẩm
3
Ban hành: 10/01/2025
Cấp xét xử: Phúc thẩm
4
Ban hành: 07/01/2025
Cấp xét xử: Phúc thẩm
5
Ban hành: 07/01/2025
Cấp xét xử: Phúc thẩm
6
Ban hành: 07/01/2025
Cấp xét xử: Phúc thẩm
7
Ban hành: 06/01/2025
Cấp xét xử: Phúc thẩm
8
Ban hành: 06/01/2025
Cấp xét xử: Phúc thẩm
9
Ban hành: 06/01/2025
Cấp xét xử: Phúc thẩm
10
Ban hành: 06/01/2025
Cấp xét xử: Phúc thẩm
11
Ban hành: 02/01/2025
Cấp xét xử: Phúc thẩm
12
Ban hành: 02/01/2025
Cấp xét xử: Phúc thẩm
13
Ban hành: 31/12/2024
Cấp xét xử: Phúc thẩm
14
Ban hành: 31/12/2024
Cấp xét xử: Phúc thẩm
15
Ban hành: 31/12/2024
Cấp xét xử: Phúc thẩm
16
Ban hành: 30/12/2024
Cấp xét xử: Phúc thẩm
17
Ban hành: 30/12/2024
Cấp xét xử: Phúc thẩm
18
Ban hành: 30/12/2024
Cấp xét xử: Phúc thẩm
19
Ban hành: 30/12/2024
Cấp xét xử: Phúc thẩm
20
Ban hành: 30/12/2024
Cấp xét xử: Phúc thẩm