Bản án số 67/2025/DS-PT ngày 06/05/2025 của TAND tỉnh Bắc Giang về tranh chấp hợp đồng vay tài sản

  • Thuộc tính
  • Nội dung
  • VB gốc
  • VB liên quan
  • Lược đồ
  • Đính chính
  • Án lệ
  • BA/QĐ cùng nội dung
  • Tải về
Tải văn bản
Báo lỗi
  • Gửi liên kết tới Email
  • Chia sẻ:
  • Chế độ xem: Sáng | Tối
  • Thay đổi cỡ chữ:
    17

Thuộc tính Bản án 67/2025/DS-PT

Tên Bản án: Bản án số 67/2025/DS-PT ngày 06/05/2025 của TAND tỉnh Bắc Giang về tranh chấp hợp đồng vay tài sản
Quan hệ pháp luật: Tranh chấp hợp đồng vay tài sản
Cấp xét xử: Phúc thẩm
Tòa án xét xử: TAND tỉnh Bắc Giang
Số hiệu: 67/2025/DS-PT
Loại văn bản: Bản án
Ngày ban hành: 06/05/2025
Lĩnh vực: Dân sự
Áp dụng án lệ:
Đã biết

Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để xem áp dụng án lệ. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!

Đính chính:
Đã biết

Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để xem đính chính. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!

Thông tin về vụ/việc: Bà T khởi kiện đồi bà V tiền vay, lãi. Toà án cấp sơ thẩm chấp nhận yêu cầu khởi kiện. Bà V kháng cáo. Tại cấp phúc thẩm HĐXX chấp nhận một phần kháng cáo sửa bản án sơ thẩm
Tóm tắt Bản án

Nội dung tóm tắt đang được cập nhật, Quý khách vui lòng quay lại sau!

Tải văn bản

1
TÒA ÁN NHÂN DÂN
TỈNH BẮC GIANG
Bản án số: 67/2025/DS-PT
Ngày 06 - 5 - 2025
“V/v tranh chấp hợp đồng vay tài sản”
CỘNG HÒA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM
Độc lập - Tự do - hạnh phúc
NHÂN DANHNƯỚC CỘNG HÒA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM
TÒA ÁN NHÂN DÂN TỈNH BẮC GIANG
- Thành phần Hội đồng xét xử phúc thẩm gồm có:
Thẩm phán - Chủ tọa phiên tòa: Bà Nguyễn Thị Hằng
Các Thẩm phán: Ông Hà Văn Nâu
Bà Phạm Thị Chuyền
- Thư ký phiên tòa: Bà Nguyễn Ngọc Thương Hiền - Thư ký Tòa án nhân dân
tỉnh Bắc Giang
- Đại diện Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Bắc Giang tham gia phiên toà:
Ngô Thị Vân Anh - Kiểm sát viên trung cấp.
Trong ngày 06 tháng 5 năm 2025, tại điểm cầu trung tâm Trụ sở Tòa án nhân
dân tỉnh Bắc Giang và điểm cầu thành phần Toà án nhân dân huyện Lục Nam, tỉnh
Bắc Giang xét xử phiên toà trực tuyến ng khai vụ án dân sự phúc thẩm thụ lý số:
36/2025/TLPT- DS ngày 18 tháng 3 năm 2025 về “Tranh chấp hợp đồng vay tài
sản”, do bản án dân sự sơ thẩm số 05/2025/DS-ST ngày 13 tháng 02 năm 2025 của
Tòa án nhân dân huyện Lục Nam bị kháng cáo.
Theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử phúc thẩm số: 45/2025/QĐ-PT ngày 10
tháng 4 năm 2025; Quyết định hoãn phiên tòa số 65/2025/QĐ-PT ngày 25 tháng 4
năm 2025 giữa các đương sự:
1. Nguyên đơn: Nguyễn Thị T, sinh năm 1964; địa chỉ: Thôn T, L,
huyện L, tỉnh Bắc Giang (có mặt).
2. Bị đơn: Thị V, sinh năm 1971; địa chỉ: Thôn C, L, huyện L, tỉnh
Bắc Giang (có mặt).
Người bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp của bị đơn: Luật Quốc N -Thuộc
công ty L cộng sự - Đoàn luật thành phố H. Địa chỉ: Số E, nB, phố Đ,
phường T, quận C, thành phố Hà Nội (có mặt)
3. Người quyền lợi, nghĩa vụ liên quan: Ông Nguyễn Văn V1, sinh năm
1963; địa chỉ: Thôn T, xã L, huyện L, tỉnh Bắc Giang (vắng mặt).
Người kháng cáo: Bị đơn Vũ Thị V
NỘI DUNG VỤ ÁN
Theo Bn án dân s thẩm s 05/2025/DS-ST ngày 13 tháng 02 năm 2025
của Toà án nhân dân huyện Lục Nam, tnh Bc Giang thì ni dung v án như sau:
2
Nguyên đơn Nguyễn Thị T trình bày: Do quan hệ quen biết hội nên
đã cho Thị V vay tiền nhiều lần với tổng stiền 780.000.000 đồng (bảy
trăm tám mươi triệu đồng), cụ thể như sau:
+ Ngày 01/01/2019, bà V vay số tiền 730.000.000 (bảy trăm ba mươi triệu)
đồng.
+ Ngày 11/01/2019, bà V vay số tiền 20.000.000 (hai mươi triệu) đồng.
+ Ngày 14/02/2019, bà V vay số tiền 30.000.000 (ba mươi triệu) đồng.
Các lần vay tiền trên V trực tiếp vay, viết “Giấy vay tiền”. Hai bên
thỏa thuận lãi suất 3.000 đồng/triệu/ngày nhưng không viết vào giấy vay
không thỏa thuận thời hạn vay. đã giao tiền đầy đủ cho V. Sau đó, đã
nhiều lần yêu cầu bà V trả tiền vay nhưng V không trả. Do vậy, khởi kiện
yêu cầu V trả cho số tiền vay gốc 780.000.000 (bảy trăm m mươi triệu)
đồng tiền lãi của số tiền trên theo mức 10%/năm kể tngày 01/3/2019 cho đến
ngày xét xử. Đâykhoản tiền riêng của bà, không liên quan đến ông Nguyễn Văn
V1 chồng bà nên yêu cầu bà V trả tiền cho riêng bà.
Đối với việc V khai khoản tiền viết trong giấy vay ngày 01/01/2019, do
cộng gốc, lãi của các khoản vay ngày 25/6/2018, ngày 07/8/2018, ngày
26/12/2018, tổng cộng gốc là 450.000.000 đồng, lãi 280.000.000 đồng thành số
tiền 730.000.000 đồng; các lần viết giấy vay khác là tiền nợ lãi không trả được nên
V viết giấy vay khi cho vay đã trừ tiền lãi luôn vào tiền vay gốc không
đúng. Đối với số tiền 20.000.000 đồng V đã chuyển qua tài khoản trả cho
năm 2022 thì bà nhất trí trừ số tiền này vào tiền lãi phải trả.
Bị đơn bà Thị V trình bày: quen biết với Nguyễn Thị T, hỏi vay
tiền của bà T để làm ăn, các lần vay cụ thể như sau:
+ Ngày 25/6/2018 vay của T 105.000.000 đồng, thoả thuận lãi suất
3.000 đồng/01 triệu/01 ngày, không thoả thuận thời hạn trả nợ. Khi vay hai bên
thoả thuận trừ 3.150.000 đồng tương ứng khoản tiền lãi của 10 ngày vào tiền vay
gốc, bà được nhận thực tế số tiền là 101.850.000 đồng.
+ Ngày 07/8/2018 vay của T 330.000.000 đồng, thoả thuận lãi suất
3.000 đồng/01 triệu/01 ngày, không thoả thuận thời hạn trả nợ. Khi vay hai bên
thoả thuận trừ 9.900.000 đồng tương ứng với tiền lãi của 10 ngày vào tiền gốc
bà được nhận thực tế số tiền 320.100.000 đồng.
+ Ngày 26/12/2018 vay của T 15.000.000 đồng, lãi thoả thuận 3.000
đồng/01 triệu/01 ngày, không thoả thuận thời hạn trả. Lần vay y không thoả
thuận trừ tiền lãi, số tiền thực nhận là 15.000.000 đồng.
Ngày 01/01/2019 bà viết và ký giấy vay tiền với số tiền 730.000.000 đồng. Số
tiền này bao gồm 450.000.000 đồng gốc của ba lần vay năm 2018 280.000.000
đồng tiền lãi. Bà thống nhất với bà T số tiền này bà vay bà T xác định lãi suất là
3000 đồng/01 triệu/01 ngày.
+ Ngày 11/01/2019 vay của T 20.000.000 đồng, lãi suất thoả thuận
3.000 đồng/01 triệu/01 ngày, không trừ tiền lãi, số tiền thực nhận 20.000.000
đồng.
3
+ Ngày 14/02/2019 phải trả cho T số tiền lãi còn thiếu 30.000.000
đồng, tuy nhiên do không tiền trả nên đã viết và ký giấy vay số tiền
30.000.000 đồng để trả khoản tiền lãi còn nợ tính đến ngày 14/02/2019.
người viết giấy, không bị ép buộc, lừa dối. Hai bên có thoả thuận lãi 3.000 đồng/01
triệu/01 ngày.
+ Ngày 02/6/2019 phải trả cho T số tiền lãi 15.000.000 đồng, do chưa
có tiền trả nên bà đã viết và ký giấy vay tiền với số tiền 15.000.000 đồng để trả cho
khoản tiền lãi nợ đến ngày 02/6/2019. Hai bên thoả thuận lãi suất 3.000 đồng/01
triệu/01 ngày.
Bà bắt đầu trả tiền lãi cho bà T từ khi bắt đầu vay lần thứ nhất ngày 25/6/2018
cho đến tháng 5 năm 2024 đã trả đầy đủ cho T, tuy nhiên không lập văn bản
giấy t gì. thừa nhận đã viết, các giấy vay tiền ngày 01/01/2019, ngày
11/01/2019, ngày 14/02/2019 không bị ép buộc hay đe doạ, lừa dối. T yêu
cầu bà trả tiền gốc theo ba giấy vay trên, không đồng ý trả số tiền 730.000.000
đồng ghi trong giấy vay ghi ngày 01/01/2019, còn các khoản tiền ghi trong giấy
vay ngày 11/01/2019, ngày 14/02/2019 đồng ý. đồng ý trả bà T số tiền gốc
515.000.000 đồng và tiền lãi từ 01/3/2024 đến ngày xét xử với lãi suất theo quy
định của pháp luật. Đối với các lần trả tiền lãi cho T do không chứng cứ nên
không ý kiến gì, đồng ý coi như chưa trả. Riêng số tiền 20.000.000 đồng trả
ngày 09/11/2022 bà chuyển khoản trả bà V là tiền gốc nên đề nghị xem xét đối trừ.
Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan ông Nguyễn Văn V1 trình bày: Ông là
chồng của Nguyễn Thị T, ông chỉ biết bà Thị V người cùng xã, không
quan hệ họ hàng thân thích. Khi bà T cho bà V vay tiền năm 2018, 2019 ông không
biết, đến khi T khởi kiện bà V đòi số tiền 780.000.000 đồng ông mới biết việc
bà T cho bà V vay tiền. Khoản tiền bà T cho bà V vay là tiền riêng của bà T, không
liên quan đến ông, do đó ông không có ý kiến gì. Ông đề nghị Toà án cho vắng mặt
trong quá trình xét xử, giải quyết vụ án.
Với nội dung trên, Bản án dân sự thẩm số 05/2025/DS-ST ngày
13/02/2025 của Toà án nhân dân huyện Lục Nam, tỉnh Bắc Giang đã căn cứ: Điều
385, điều 463, khoản 1 Điều 466, Điều 468 Bộ luật dân sự; khoản 3 Điều 26, Điều
35, Điều 39, khoản 1 Điều 147, Điều 150, Điều 227, Điều 228; Điều 271 Điều
273 Bộ luật tố tụng dân sự; Điều 26, Điều 27 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14
ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội, quy định về mức thu, miễn,
giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí, lệ phí Tòa án. Xử:
Chấp nhận yêu cầu khởi kiện của Nguyễn Thị T. Buộc Thị V phải
nghĩa vụ trả cho bà Nguyễn Thị T tổng số tiền 1.224.099.200 đồng (Trong
đó: Tổng số tiền nợ gốc 780.000.000 đồng tổng số tiền nợ lãi là 444.099.200
đồng). Ngoài ra án thẩm còn tuyên về án phí, quyền kháng cáo, quyền yêu cầu
thi hành án cho các bên đương sự.
Ngày 24/02/2025, Thị V kháng cáo toàn b bản án thm vi do
kết lun ca Bn án không phù hp vi nhng tình tiết khách quan ca v án, gây
thit hại đến quyn, li ích hp pháp của đương sự, vi phm nghiêm trng th
tc t tụng làm cho đương sự không thc hiện được quyền, nghĩa vụ ca mình dn
đến quyn, li ích hợp pháp không đưc bo v theo đúng quy đnh ca pháp lut,
đề ngh Tòa án phúc thm xét x li v án theo quy đnh ca pháp luật, đề ngh sa
4
mt phn bn án, không chp nhn mt phn yêu cu khi kin ca bà T.
Tại phiên tòa phúc thẩm, V không rút kháng cáo, T không rút yêu cầu
khởi kiện, các đương sự không thỏa thuận được với nhau về việc giải quyết vụ án.
V trình bày: Trong các khoản vay T yêu cầu, đồng ý với hai khoản
vay ngày 11/01/2019 và ngày 14/02/2019. Đối với khoản tiền 730.000.000 đồng tại
giấy vay ghi ngày 01/01/2019 bao gồm khoản tiền nợ gốc của ba khoản vay năm
2018 450.000.000 đồng, cộng tiền lãi tính từ ngày vay đến ngày 01/01/2019,
mức lãi tính 3.000đ/01 triệu/01 ngày, tổng lãi 280.000.000 đồng. thừa nhận
tổng số tiền gốc vay T 515.000.000 đồng đến nay chưa trả, đã trả toàn
bộ tiền lãi cho T theo mức lãi thoả thuận đến tháng 5 năm 2024, tuy nhiên khi
trả lãi chỉ một lần chuyển khoản chứng từ giao nộp, còn lại đều không
giấy tờ, chứng cứ nào khác chng minh. Tại phiên toà, T thừa nhận bà còn trả
được hai lần tiền lãi 15.000.000 đồng một lần 350.000 đồng không ý
kiến . không nhất trí với yêu cầu khởi kiện của bà T. Do T lấy lãi cao, đã
vi phạm pháp luật, quá trình xét xử thẩm không thực hiện giám định chữ ký,
chữ viết trong tài liệu giao nộp, đã không đảm bảo quyền lợi ích hợp pháp của
nên đề nghị Hội đồng xét xử (viết tắt HĐXX) tuyên huỷ toàn bộ bản án
thẩm và chuyển hồ sơ cho cơ quan cảnh sát điều tra để xử lý hành vi vi phạm pháp
luật của bà T về tội cho vay lãi nặng trong giao dịch dân sự.
T trình bày: Các khoản tiền bà V vay năm 2018, V đã thanh toán trả
cho bà xong gốc, lãi, thời điểm thanh toán bà không nhớ. Khoản vay ngày
01/01/2019 không liên quan đến các khoản vay năm 2018 như bà V khai khi
V vay đã nói với vay cho cháu gái mua đất. Cả ba khoản vay năm 2019
đều giao tiền mặt, bà V đã nhận đủ số tiền 780.000.000 đồng. Bà V khai đã trả toàn
bộ tiền lãi đến tháng 5 năm 2024 không đúng. V thoả thuận với
nhau tính lãi 3.000 đồng/01 triệu/01 ngày, tuy nhiên V không trả tiền lãi đúng
như thoả thuận. Bà thừa nhận bà V đã trả tiền lãi được cho bà gồm: một lần chuyển
khoản 20.000.000 đồng bà V đã cung cấp tài liệu và được Toà án cấp sơ thẩm chấp
nhận, nay bà xác nhận còn hai lần trả tiền lãi được ghi trong thư gửi cho
V, trong đó một lần 5.000.000 đồng và một lần 10.000.000 đồng, ngoài ra
khi cháu cấp cứu, đòi thì V đưa cho được 350.000 đồng. Số tiền V
đã trả trên bà đồng ý trừ vào tiền lãi cho bà V.
Luật sư bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp cho bà Thị V trình bày, tranh luận:
Quá trình giải quyết vụ án cấp thẩm đã không đánh giá đúng tình tiết, chứng
cứ, không thực hiện giám định chữ viết của T tại các tài liệu do V cung cấp,
trong đó thể hiện nội dung T tính cộng số tiền gốc, lãi của từng khoản vay
năm 2018 thành số tiền 730.000.000 đồng để ghi trong giấy vay ngày 01/01/2019,
không xem xét việc T thừa nhận V đã trả được số tiền 43.000.000 đồng tính
đến ngày 27/8/2019. Lời khai của V, T cũng như tài liệu, chứng cứ xác định
T tính lãi rất cao khi cho bà V vay tiền V đã thanh toán trả hết cho T,
tuy nhiên, Toà án cấp sơ thẩm không chuyển hồ sơ cho cơ quan điều tra để xem xét
hành vi vi phạm pháp luật của T. Do đó đề nghị HĐXX huỷ bản án dân sự
thẩm, chuyển hồ cho quan cảnh sát điều tra thẩm quyền để xem xét hành
vi cho vay lãi nặng trong giao dịch dân sự đối với bà Nguyễn Thị T.
5
Tham gia phiên tòa, đại diện Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Bắc Giang phát biểu
ý kiến: Quá trình giải quyết vụ án từ khi thụ đến khi mphiên tòa tại phiên
tòa, HĐXX, thư ký đã thực hiện đúng, đủ quy định của Bộ luật tố tụng dân sự (viết
tắt là: BLTTDS). Sau khi xem xét yêu cầu kháng cáo của bà Vũ Thị V, các tài liệu,
chứng cứ các bên cung cấp, đại diện Viện kiểm sát xác định không căn cứ để
huỷ Bản án sơ thẩm theo đề nghị của luật sư và bà Thị V, đề nghị HĐXX phúc
thẩm: áp dụng khoản 2 Điều 308 Bộ luật tố tụng dân sự, xử: Chấp nhận một phần
đơn kháng cáo của Thị V, sửa bản án dân sự thẩm số 05/2025/DS-ST
ngày 13/02/2025 và Thông báo sửa chữa, bổ sung bản án thẩm số 02/2025/TB-
TA ngày 13/3/2025 của Tòa án nhân dân huyện Lục Nam theo hướng buộc V
phải trả cho T số tiền gốc lãi 1.208.749.200 đồng. V phải chịu án phí
dân sự sơ thẩm 48.262.476 đồng. V không phải chịu án phí dân sự phúc
thẩm.
NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN:
Sau khi nghiên cứu các tài liệu trong hồ vụ án được thẩm tra tại phiên
toà và căn cứ vào kết quả tranh luận tại phiên toà, Hội đồng xét xử nhận định:
[1]. Về tố tụng: Tại phiên tòa nguyên đơn, bị đơn và người bảo vệ quyền lợi
ích hợp pháp cho bị đơn mặt, người quyền lợi, nghĩa vụ liên quan vắng mặt
tại phiên toà lần thứ hai không do, HĐXX căn cứ Điều 296 Bộ luật ttụng
dân sự xét xử vụ án theo quy định.
[2]. Vũ Thị V kháng cáo trong thời hạn, thực hiện đúng nghĩa vụ nộp tiền
tạm ứng án phí, HĐXX chấp nhận xem xét kháng cáo của bà V theo quy định.
[3]. Xét kháng cáo của bà Vũ Thị V:
[4]. Về nội dung tranh chấp: Nguyễn Thị T yêu cầu Thị V, trả số
tiền vay gốc 780.000.000 đồng gồm các khoản vay: Ngày 01/01/2019 cho vay
730.000.000 đồng; Ngày 11/01/2019 cho vay 20.000.000 đồng; Ngày 14/02/2019
cho vay 30.000.000 đồng và toàn bộ tiền lãi trên số nợ gốc tính theo mức 10%/năm
từ ngày 01/3/2019 đến ngày xét xử thẩm đồng ý trừ số tiền V đã trả vào
tiền lãi. Quá trình xét xử, bà Thị V xác định tổng số tiền gốc vay T
515.000.000 đồng đến nay chưa trả T, tiền lãi đã trả hết đến tháng 5 năm 2024
nên không đồng ý với yêu cầu khởi kiện của bà T, đề nghị huỷ bản án do cấp
thẩm không giám định chữ ký, chữ viết của T, do T hành vi cho vay lãi
nặng nhưng Toà án cấp sơ thẩm không chuyển hồ sơ cho cơ quan điều tra xem xét.
Xét lời khai của nguyên đơn, lời khai của bị đơn các tài liệu, chứng cứ các bên
cung cấp, giao nộp thì thấy:
[5]. Đối với khoản tiền vay 20.000.000 đồng ngày 11/01/2019 khoản tiền
vay 30.000.000 đồng ngày 14/02/2019, tại phiên toà phúc thẩm, bà V thừa nhận
vay hai khoản vay này, giấy vay tiền lập vào hai ngày trên do V viết trên
sở tự nguyện, đồng thời V cũng thừa nhận chưa thanh toán. Như vậy lời khai
của bđơn phù hợp với lời khai của nguyên đơn tài liệu, chứng cứ nguyên đơn
giao nộp, do đó T yêu cầu V trả số tiền vay gốc theo hai giấy vay ngày
11/01/2019 ngày 14/2/2019 đã nêu trên với tổng số tiền 50.000.000 (năm mươi
triệu) đồng là hoàn toàn có căn cứ.
6
[6]. Đối với khoản vay ghi ngày 01/01/2019, số tiền vay 730.000.000 đồng,
bà V thừa nhận giấy vay tiền bà T giao nộp là do bà viết, trên cơ sở tự nguyện. Tuy
nhiên, bà V xác định số tiền trên xuất phát từ các khoản vay của bà V với bà T năm
2018, cụ thể: Lần 1: Ngày 25/6/2018 vay 105.000.000 đồng; lần 2: Ngày
07/8/2018 vay 330.000.000 đồng; lần 3: Ngày 26/12/2018 vay 15.000.000 đồng,
tổng cộng ba lần vay 450.000.000 đồng, lãi suất thoả thuận 3.000 đồng/01
triệu/01 ngày, tính từ ngày vay của mỗi khoản vay đến ngày 01/01/2019 bà T tính
số lãi V nợ 280.000.000 đồng, cộng cả gốc lãi là 730.000.000 đồng, do
T yêu cầu nên bà đồng ý viết giấy vay nợ T số tiền nợ trên. Bà V không đồng ý
số nợ gốc theo giấy vay ngày 01/01/2019 mà chỉ chấp nhận số nợ gốc 450.000.000
đồng. Lời khai trên của bà V không được bà T thừa nhận.
Quá trình giải quyết vụ án tại cấp thẩm, V giao nộp bản phô ghi nội
dung tổng cộng gốc và lãi (tại bút lục số 59) và xác định do bà T viết, đến nayV
không nộp lại giấy gốc. T đã được xem tài liệu do V giao nộp thừa nhận
đây giấy do viết, tuy nhiên xác định đây là các khoản tiền cho V vay
năm 2018, V đã trả xong, không liên quan đến khoản vay ngày 01/01/2019. Xét
nội dung tài liệu do V nộp thì thấy trong giấy trên không ghi ngày, tháng năm
viết giấy, thể hiện số tiền vay gốc tiền lãi của từng khoản vay tính từ ngày
vay đến ngày 30/01/2019, số đã trả và số nợ còn lại. Mặc trong giấy này ghi
các khoản nợ gốc, lãi cộng thành 730.000.000 đồng, nhưng thời gian nội dung
ghi tính đến ngày 30/01/2019, nội dung ghi “ngày 27/8/2019 đưa 1 triệu, tổng
cộng đã đưa được 43 triệu đồng tổng còn nợ đến ngày hôm nay 730 triệu
đồng”, như vậy thời gian tính này còn sau ngày viết giấy vay ngày 01/01/2019, do
đó không căn cứ nào để xác định các khoản vay ghi trong giấy trên chính
khoản tiền được ghi trong giấy vay ngày 01/01/2019. Ngoài ra, V cũng không
đưa ra được tài liệu, chứng cứ nào khác để chứng minh. Do vậy, căn cứ lời khai, tài
liệu chứng cứ do bà T cung cấp có cơ sở xác định ngày 01/01/2019 bà V đã vay bà
T stiền 730.000.000 đồng, Toà án cấp thẩm chấp nhận yêu cầu khởi kiện của
T về số tiền này căn cứ. Việc V trình bày xác định tổng số tiền nợ gốc
theo giấy vay này là 450.000.000 đồng là không có căn cứ.
[7]. Về tiền lãi: Bà T bà V đều khai trong giấy vay không ghi nhưng hai
bên thoả thuận tính lãi 3.000 đồng/01 triệu/01 ngày. Tuy nhiên, nay T chỉ
yêu cầu V trả lãi các khoản tiền vay nh tngày 01/3/2019 đến ngày xét xử
theo mức lãi suất 10%/năm. V đồng ý mức lãi suất 10%/năm nhưng xác định đã
trả lãi đến tháng 5 năm 2024, do đó chỉ đồng ý tính lãi từ tng 5 năm 2024 đến
khi xét xử thẩm. Xét thấy, ngoài lời khai trên, bị đơn không tài liệu, chứng
cứ nào khác chng minh việc đã thanh toán hết toàn bộ tiền lãi đến tháng 5 năm
2024. Do đó, T yêu cầu bị đơn trả lãi theo mức lãi suất, thời gian như trên, Toà
án thẩm đã chấp nhận tính số tiền lãi là: (780.000.000 đồng x 10%/năm) x 5
năm 11 tháng 12 ngày = 464.099.200 đồng, HĐXX thấy phù hợp.
[8]. Như vậy, nh tổng số tiền gốc, lãi V phải thanh toán trả T
780.000.000 đồng + 464.099.200 đồng = 1.244.099.200 đồng phù hợp, Toà án
cấp sơ thẩm chấp nhận yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn có căn cứ.
[9]. Về việc thực hiện nghĩa vụ thanh toán:
7
Quá trình xét xử thẩm, nguyên đơn bị đơn đều xác nhận V đã tr
20.000.000 đồng tiền lãi cho T, do đó Toà án thẩm đã chấp nhận trừ số
tiền bà V thanh toán cho bà T vào số tiền lãi phải trả là phù hợp.
Tại phiên toà phúc thẩm, T thừa nhận ngoài khoản tiền trên, bị đơn đã trả
được thêm được số tiền 15.000.000 đồng tiền lãi được ghi trong tài liệu viết
gửi cho V yêu cầu trả tiền (bút lục số 60), đồng thời còn một lần V đưa
cho bà số tiền 350.000 đồng khi cháu bị bệnh, nay bà T đồng ý trừ số tiền trên vào
tiền lãi bà V phải trả. Do V xác định toàn bộ số tiền vay gốc chưa trả T,
không ý kiến đối với lời khai của T về số tiền lãi đã thanh toán trên.
HĐXX xác định đây tình tiết mới tại cấp phúc thẩm, cần chấp nhận trừ số tiền
15.350.000 đồng vào tiền lãi V phải thanh toán trả T, do đó chấp nhận một
phần kháng cáo của bà V theo hướng sửa một phần bản án dân sự thẩm. Số tiền
gốc, lãi V còn phải thanh toán trả T là: 1.244.099.200 đồng 20.000.000
15.350.000 đồng = 1.208.749.200 đồng (trong đó gốc 780.000.000 đồng, lãi
428.749.200 đồng).
[10]. Tại phiên toà luật sư bảo vệ quyền lợi ích hợp pháp cho V và bà V có
ý kiến về việc quá trình giải quyết vụ án tại cấp thẩm Toà án không trưng cầu
giám định chữ ký, chữ viết trong các tài liệu V giao nộp thiếu sót, vi phạm.
HĐXX xét thấy tài liệu V giao nộp không phải tài liệu, chứng cứ gốc chỉ
bản phô (bút lục số 59, 60 trong hồ sơ), T cũng thừa nhận đó chữ viết của
bà, do đó không cần thiết phải thực hiện việc giám định chữ viết, chữ ký đối với tài
liệu bà V giao nộp.
[11]. Luật sư và bà V xác định trong tài liệu bà V giao nộp (Bút lục số 59) còn
thể hiện T xác nhận V đã thanh toán được khoản tiền lãi 43.000.000 đồng.
Tuy nhiên, T xác định khoản vay m 2018 V đã thanh toán xong không
liên quan đến các khoản vay trong ba giấy viết năm 2019 bà khởi kiện, không phải
tiền lãi đã trả của các khoản vay năm 2019. Do bị đơn không xuất trình được tài
liệu, chứng cứ xác định đã thanh toán khoản tiền trên vào tiền lãi của các khoản
vay năm 2019, cũng như không căn cứ xác định được khoản tiền vay ngày
01/01/2019 là các khoản tiền vay năm 2018 cộng dồn thành, do đó không sở
để xác định V đã trả số tiền lãi 43.000.000 đồng cho các khoản vay năm 2019.
[12]. Luật V xác định T hành vi cho vay lãi nặng trong giao
dịch dân sự yêu cầu HĐXX xem xét huỷ bản án thẩm, chuyển hồ cho
quan cảnh sát điều tra xem xét. HĐXX thấy đối với các khoản vay năm 2018, bà T
xác định V đã thanh toán xong T không yêu cầu giải quyết; khoản tiền
cho V vay năm 2019 thoả thuận lãi suất 3.000 đồng/01 triệu/01 ngày, tuy
nhiên V mới trả được số tiền lãi 35.350.000 đồng. V không giao nộp được
tài liệu, chng cứ chứng minh việc đã thanh toán toàn bộ tiền lãi cho T theo
mức lãi thoả thuận đến tháng 5 năm 2024, do đó không sở xác định T
dấu hiệu vi phạm pháp luật nh sự để Toà án chuyển hồ cho quan cảnh sát
điều tra xem xét. Do vậy, XX không chấp nhận các ý kiến, tranh luận trên của
luật sư cũng như bà V.
[13]. Từ những phân tích trên, HĐXX phúc thẩm thấy Tòa án cấp thẩm đã
chấp nhận yêu cầu khởi kiện của bà Nguyễn Thị T đối với số tiền gốc, lãi là có căn
cứ theo quy định tại điều 463, điều 465, điều 466; điều 468 Bộ luật dân sự. Q
8
trình giải quyết vụ án, Tòa án thẩm thụ lý, giải quyết vụ án đúng thẩm quyền,
xác định đúng, đủ người tham gia ttụng, tiến hành các thủ tục tố tụng đầy đủ,
đảm bảo. vậy không căn cứ chấp nhận kháng cáo của Thị V về việc
huỷ bản án dân sự sơ thẩm, HĐXX sửa một phần bản án đối với phần nghĩa vụ của
bị đơn như ý kiến của đại diện Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Bắc Giang tại phiên
toà.
[14]. Về án phí: Căn cứ điều 147; khoản 2 điều 148 BLTTDS; khoản 2 Điều
29 Nghị quyết 326/NQ-UBTVQH ngày 30/12/2016 của Uỷ ban thường vụ Quốc
Hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí
Tòa án.
Do HĐXX sửa một phần bản án sơ thẩm nên bà Vũ Thị V không phải chịu án
phí dân sự phúc thẩm. Đối với án phí dân sự thẩm V phải chịu được
HĐXX xem xét sửa trên cơ sở nghĩa vụ bị đơn phải chịu.
Vì các lẽ trên.
QUYẾT ĐỊNH:
1. Căn cứ khoản 2 Điều 308 của BLTTDS. Chấp nhận một phần kháng cáo
của Thị V. Sửa bản án dân sự thẩm số 05/2025/DS-ST ngày 13/02/2025
Thông báo sửa chữa, bổ sung bản án thẩm số 02/2025/TB-TA ngày
13/3/2025 của Toà án nhân dân huyện Lục Nam, tỉnh Bắc Giang.
2. Căn cứ điều 147; khoản 2 điều 148 BLTTDS; Điều 463; Điều 465; Điều
466; Điều 468 Bộ luật dân sự năm 2015; Khoản 2 Điều 29 Nghị quyết 326/NQ-
UBTVQH ngày 30/12/2016 của Uỷ ban thường vụ Quốc Hội quy định về mức thu,
miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án.
Buộc Thị V phải trả bà Nguyễn Thị T số tiền nợ gốc, lãi là:
1.208.749.200 đồng (một tỷ, hai trăm linh tám triệu, bẩy trăm bốn mươi chín
nghìn, hai trăm đồng). Trong đó: nợ gốc: 780.000.000 đồng (bảy trăm tám mươi
triệu đồng); nợ lãi: 428.749.200 đồng (bốn trăm hai mươi tám triệu, bẩy trăm bốn
mươi chín nghìn, hai trăm đồng).
3. Về án phí: Thị V không phải chịu án phí dân sphúc thẩm. V
phải chịu 48.262.476 đồng (bốn mươi tám triệu, hai trăm sáu ơi hai nghìn, bốn
trăm bảy mươi sáu đồng) án phí dân sự sơ thẩm.
Số tiền 300.000 đồng V đã nộp tạm ứng án phí dân sự phúc thẩm tại biên
lai thu số 0004652 ngày 24/02/2025 của Chi cục thi hành án dân sự huyện Lục
Nam, tỉnh Bắc Giang được khấu trừ vào tiền án phí dân sự sơ thẩmV phải chịu.
4. Kể từ ngày Bản án hiệu lực pháp luật (đối với các trường hợp quan
thi hành án quyền chủ động ra quyết định thi hành án) hoặc k từ ngày đơn
yêu cầu thi hành án của người được thi hành án (đối với các khoản tiền phải trả cho
người được thi hành án) cho đến khi thi hành án xong, tất cả các khoản tiền, hàng
tháng bên phải thi hành án còn phải chịu khoản tiền lãi của số tiền còn phải thi
hành án theo mức lãi suất quy định tại khoản 2 Điều 468 Bộ luật dân sự.
5. Trường hợp bản án được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật Thi hành
án thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thoả
thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng
9
chế thi hành án theo qui định tại các Điều 6, 7, 7a, 7b 9 Luật Thi hành án dân
sự; thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật Thi hành
án dân sự.
6. Bản án phúc thẩm có hiệu lực pháp luật kể từ ngày tuyên án.
Nơi nhận:
- VKSND tỉnh Bắc Giang;
- TAND, Chi cục THADS cấp sơ
thẩm;
- Các đương sự;
- Lưu HS; VP.
TM. HỘI ĐỒNG XÉT XỬ PHÚC THẨM
Thẩm phán - Chủ toạ phiên toà
Nguyễn Thị Hằng
Tải về
Bản án số 67/2025/DS-PT Bản án số 67/2025/DS-PT

Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để tải file. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!

Bản án số 67/2025/DS-PT Bản án số 67/2025/DS-PT

Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để tải file. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!

Bản án/ Quyết định cùng đối tượng

Bản án cùng lĩnh vực

Bản án mới nhất