Bản án số 46/2025/DS-PT ngày 15/05/2025 của TAND tỉnh Phú Thọ về tranh chấp quyền sử dụng đất

  • Thuộc tính
  • Nội dung
  • VB gốc
  • VB liên quan
  • Lược đồ
  • Đính chính
  • Án lệ
  • BA/QĐ cùng nội dung
  • Tải về
Tải văn bản
Báo lỗi
  • Gửi liên kết tới Email
  • Chia sẻ:
  • Chế độ xem: Sáng | Tối
  • Thay đổi cỡ chữ:
    17

Thuộc tính Bản án 46/2025/DS-PT

Tên Bản án: Bản án số 46/2025/DS-PT ngày 15/05/2025 của TAND tỉnh Phú Thọ về tranh chấp quyền sử dụng đất
Quan hệ pháp luật: Tranh chấp quyền sử dụng đất
Cấp xét xử: Phúc thẩm
Tòa án xét xử: TAND tỉnh Phú Thọ
Số hiệu: 46/2025/DS-PT
Loại văn bản: Bản án
Ngày ban hành: 15/05/2025
Lĩnh vực: Dân sự
Áp dụng án lệ:
Đã biết

Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để xem áp dụng án lệ. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!

Đính chính:
Đã biết

Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để xem đính chính. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!

Thông tin về vụ/việc: Bà Phạm Thị A khởi kiện bà Bùi Thị T về việc tranh chấp quyền sử dụng đất và được chấp nhận một phần yêu cầu khởi kiện
Tóm tắt Bản án

Nội dung tóm tắt đang được cập nhật, Quý khách vui lòng quay lại sau!

Tải văn bản

TÒA ÁN NHÂN DÂN
TỈNH PHÚ THỌ
Bản án số: 46/2025/DS-PT
Ngày 15-5-2025
V/v tranh chấp quyền sử dụng đất.
CỘNG A HỘI CH NGHĨA VIT NAM
Độc lp - Tdo - Hạnh phúc
NHÂN DANH
NƯỚC CỘNG HÒA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM
TÒA ÁN NHÂN DÂN TỈNH PHÚ THỌ
- Thành phần Hội đng xét xử phúc thẩm gồm:
Thẩm phán - Chủ tọa phiên tòa: Ông Trần Đình Chi
Các Thẩm phán: Ông Nguyễn Khắc Chiên
Ông Nguyễn Hán Hưởng
- Thư ký phiên tòa: Ông Bùi Trung Hiếu Thư Tòa án nhân dân tỉnh
Phú Thọ.
- Đại diện Viện Kiểm sát nhân dân tỉnh Phú Thọ tham gia phiên tòa:
Ông Trần Xuân Hùng - Kiểm sát viên.
Trong các ngày 15 tháng 01 15 tháng 5 năm 2025 tại Trụ sở Tòa án
nhân dân tỉnh Phú Thọ xét xử phúc thẩm công khai vụ án thụ số
124/2024/TLPT-DS ngày 11 tháng 11 năm 2024 về tranh chấp quyền sử dụng
đất.
Do Bản án dân sự thẩm số 10/2024/DS-ST ngày 24 tháng 9 năm 2024
của Tòa án nhân dân thị xã P T, tỉnh Phú Thọ bị kháng cáo.
Theo Quyết định đưa vụ án ra xét xphúc thẩm số 141/2024/PT-DS
ngày 26 tháng 12 năm 2024, Thông báo mở lại phiên tòa số 395/2025/TB-TA
ngày 21 tháng 4 năm 2025, giữa các đương sự:
- Nguyên đơn: Chị Phạm Thị A, sinh năm 1982, nơi đăng thường trú:
Khu X, H L, thị P T, tỉnh Phú Thọ, nơi ở hiện tại: Khu X, P H, thị P
T, tỉnh Phú Thọ.
- Bị đơn: Bùi Thị T, sinh năm 1974, địa chỉ: Khu X, P H, thị xã P
T, tỉnh Phú Thọ.
Người bảo vệ quyền lợi ích hợp pháp của bị đơn: Ông Văn C là
Luật Công ty TNHH H Đoàn Luật tỉnh Phú Thọ, địa chỉ: Tòa nhà L, số
nhà X Đại lộ H V, phường N T, thành phố V T, tỉnh Phú Thọ
- Người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan:
1. Anh Lê Tuấn A, sinh năm 1995, địa chỉ: Khu X, xã P H, thị xã P T, tỉnh
Phú Thọ.
2. Anh Lê Anh T , sinh năm 1999, địa chỉ: Khu X, xã P H, thị xã P T, tỉnh
Phú Thọ.
2
Người đại diện hợp pháp của Anh Tuấn A Anh Anh T: Bùi
Thị T, sinh năm 1974, địa chỉ: Khu X, xã P H, thị xã P T, tỉnh Phú Thọ, là người
đại diện theo y quyền theo các Giấy ủy quyền ngày 24/9/2024.
3. Ủy ban nhân dân thị P T, địa chỉ: Phường  C, thị P T, tnh Phú
Thọ.
Người đại diện hợp pháp của Ủy ban nhân dân thị xã P T: Ông Tạ Đức D
Phó trưởng phòng Tài nguyên và i trường, người đại diện theo y quyền
theo Giấy ủy quyền ngày 04/9/2024.
4. Ủy ban nhân dân P H, thị P T, địa chỉ: P H, thị xã P T, tỉnh
Phú Thọ.
Người đại diện hợp pháp của Ủy ban nhân dân xã P H: Ông Lê Minh T
cán bộ địa chính, người đại diện theo ủy quyền theo Giấy ủy quyền ngày
04/9/2024.
- Người kng cáo:
Bùi Thị T, là bị đơn.
NỘI DUNG VỤ ÁN:
Theo đơn khởi kiện, bản tự khai và tại phiên tòa, nguyên đơn Chị Phạm
Thị A trình bày:
Năm 2017, chị mua thửa đất số 54
-1
tờ bản đồ số 35, diện tích
402,1m
2
của vợ chồng anh Q, chị T H L, thị P T, tỉnh Phú Thọ, địa chỉ
thửa đất tại Khu X, P H, thị P T. Chị đã kiểm tra tại thực địa ô đất hộ
giáp ranh là gia đình Bà Bùi Thị T, ông Lê Văn Đ, trước thửa đất có lối đi chung
giữa đất của anh Q, chị T gia đình Bùi Thị T ra quốc lộ 2 giống như
phần đồ được vẽ trong giấy chứng nhận quyền sử dụng đất tên Mai Thị T
do UBND thị P T cấp năm 2007. Chị đã nhận chuyển nhượng đến ngày
21/9/2017, chị được UBND thị P T cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất
số CH 952689. Năm 2018, chị đến kiểm tra đất để chuẩn bị làm nhà thì thấy hộ
giáp ranh gia đình ông Đ, T đã xây tường bao quây vây bọc thửa đất của
chị với đất của nhà bà T vào làm một. Gia đình bà T đã chăn nuôi, trồng trọt trên
đất của chị. Chị đã yêu cầu vợ chồng T tháo dỡ công trình trên thửa đất của
chị thì T bảo chị tự tháo dỡ, hkhông sử dụng nữa. Khoảng 01 tháng sau khi
chị chở vật liệu đến làm nhà thì T ra cản trở nói đất của chị không lối
đi, không cho chị làm nhà trên thửa đất của chị chị đã phải đi thuê nhà ở từ
năm 2018 cho đến nay. Từ m 2018, chị đã rất nhiều lần liên hệ với UBND
P H yêu cầu ban địa chính giải quyết lấy lại lối đi cho chị nhưng gọi vợ
chồng T đến giải quyết đều bất thành. Năm 2021, khi UBND P H tiến
hành hòa giải hai bên đã yêu cầu giữa chị gia đình T hòa giải gia đình
T trả lại lối đi chung cho chị sử dụng nhưng gia đình bà T vẫn không thực
hiện.
Tại phiên tòa thẩm ChA thừa nhận trên thửa đất số 54
-1
tờ bản đồ số
35 của chị 01 chuồng lợn, một số cây cối lâm lộc khác, trên phần lối đi trước
đất của chị 01 nhà tạm, 01 cổng tạm làm bằng sắt và lưới B40, tường rào xây
bằng gạch xỉ do gia đình bà T trồng và xây dựng.
Chị không nhất t bán tha đất của ch cho bà T với giá 600.000.000đ và
3
cũng không mua lối đi mới như T đề nghị. Chị đồng ý hỗ trợ cho gia đình bà
T tiền công đổ đất để đường đi được như bây giờ là 40.000.000đ.
Chị tự nguyện chịu toàn bộ chi phí thẩm định, định giá tài sản, không yêu
cầu bị đơn và người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan phải thanh toán lại cho chị.
Chị đề nghị HĐXX buộc gia đình T tháo dỡ các tài sản do gia đình
T xây dựng, trồng trọt trên thửa đất số 54
-1
tờ bản đồ số 35 trên lối đi chung
để chị sử dng đất và lối đi chung.
Bị đơn là Bà Bùi Thị T trình bày:
thừa nhận vợ chồng chuyển nhượng cho vợ chồng ông Lại Anh
Q, Mai Thị T 01 thửa đất diện tích 402,1m
2
(trong đó đất 80m
2
, đất
vườn 322,1m
2
) thuộc Khu X, P H, thị P T, tỉnh Phú Thọ. Khi chuyển
nhượng, thửa đất của ông Q, T không có cổng ra, ông bà Q T cũng đồng ý để
mua lối đi sau. Thời điểm bán đất cho Q T do vợ chồng bà làm ăn gặp khó khăn
nên bán với giá rất rẻ. Sau này vợ chồng ông Q bà T bán lại cho Chị Phạm
Thị A thửa đất nêu trên (chính là thửa đất số 54
-1
, tờ bản đồ số 35). Khi bán cho
vợ chồng ông Q T, vợ chồng bà chỉ bán đất ở, đất vườn, không tách lối đi
chung. Năm 2022, chồng bà là ông Lê Văn Đ đã chết không có di chúc.
Quá trình giải quyết tại cấp thẩm Chị A yêu cầu trả lại lối đi chung
để Chị A cùng sử dụng bà không nhất trí vì các lý do sau: Bà không muốn Chị A
đi chung với lối đi của gia đình tránh phức tạp; không bán lối đi như
thế mất rất nhiều đất của gia đình bà. chấp nhận bán cho Chị A 01 lối đi
thẳng từ đất Chị A ra đường quốc lộ 2 với giá 600.000.000đ (Lối đi này bề
rộng 4m, chiều dài từ đất Chị A ra đến quốc lộ 2). Tại phiên tòa thẩm nhất
trí bán cho Ch A 01 lối đi thẳng từ đất Chị A ra đường quốc l 2 với giá
450.000.000đ (Lối đi này có bề rộng 3m, chiều dài từ đất Chị A ra đến quốc lộ 2
đất ruộng của gia đình bà). đã mất rất nhiều công sức mua đất ruộng
của dân (đoạn trước cổng nhà ra đến quốc lộ 2) rồi đổ đất để hiện trạng
bằng cao hơn mặt đường quốc lộ 2 như hiện nay. Chi phí bỏ ra không
cung cấp cho Tòa án cũng không đồng ý để Chị A trả cho một phần chi
phí đó để được đi chung. đồng ý với lối đi chung của gia đình của Chị
A chỉ trước phần đất của Chị A, không được phép đi sang hai bên đi
chung cổng của nhà hiện nay. không hiểu tại sao, tại phần ghi chú của
giấy chứng nhận quyền sử dụng đất của gia đình phần tách chuyển nhượng
cho nhà Q T lại ghi “và làm đường đi chung là 190,6m
2
”.
Bà thừa nhận sau khi chuyển nhượng đất cho nhà Q T cho đến nay vợ
chồng không khiếu nại đến quan thẩm quyền về việc tách đất của
làm lối đi chung như phần ghi chú đã ghi. không nhất trí với phần lối đi đã
thể hiện trong ghi chú đó. Bà đồng ý mua lại thửa đất của Chị A với giá
600.000.000đ.
Bà thừa nhận gia đình đã xây dựng chuồng trại chăn nuôi trên đất của
Chị A và có mt số cây cối lâm lộc bà trồng như Chị A trình bày và nhất t sẽ tự
tháo dỡ chuồng trại trả lại đất, lối đi trước đất của Chị A. Bà thừa nhận cổng nhà
bà làm bằng khung sắt có gắn lưới B40 nhưng không nhất trí tháo dỡ đcho Chị
A sử dụng lối đi chung.
Người quyền lợi, nghĩa vụ liên quan Anh Tuấn A, Anh T
4
trình bày: Các anh thừa nhận đã được T mẹ các anh thông báo về việc
TAND thị xã P T thụ vụ án, triệu tập đến Tòa án làm việc, hòa giải, thẩm
định, định giá tài sản... nhưng các anh bận làm ăn nên không đến Tòa án làm
việc được. Việc ông Đ T bố mẹ các anh chuyển nhượng đất tạo lối đi
chung cho đất của ông Q, T hay không thì các anh không biết khi đó các
anh còn nhỏ và sau này thì đi làm ăn xa nhà. Tại phiên tòa sơ thẩm Anh Lê Tuấn
A Anh T nhất trí ủy quyền cho T thay mặt họ tham gia tố tụng và
toàn quyền quyết định mi vấn đề liên quan đến vụ kiện. Các anh nhất trí với
quan điểm của bà T tại phiên tòa thẩm.
Đại diện theo ủy quyền của UBND thị P T ông Tạ Đức D vắng mặt
quan điểm: Nguồn gốc thửa đất số 54
-1
tờ bản đồ số 35, diện tích 402,1 m
2
tại
Khu X P H, thị xã P T của Phạm ThA được cấp GCNQSD đất do nhận
chuyển nhượng của Mai Th T m 2017; Mai ThLý T nhận chuyển
nhượng của ông Lê Văn Đ năm 2007.
Đối với lối đi qua đất A, trên GCNQSD đất ông Đ chuyn nhượng
Mai Thị Lý T thhiện ông Đ để 190,6 m
2
diện tích đường đi chung kết nối với
đường đi chung ra đưng Quốc lộ 2 (tại thời điểm tách làm đường đi chung ch
đường kết nối với Quốc lộ 2 qua thửa đất Mai Th T mua của ông Lê n
Đ). GCNQSD đất bà T, bà A thể hiện đường đi trước thửa đất kết nối với đường
ra Quốc lộ 2.
Từ các nội dung trên, xác định thửa đất số 54
-1
, tờ 35 diện tích 402.1 m
2
của
Phạm ThA được cấp GCNQSD đất có đường đi chung kết nối đường Quốc lộ
2 được nh thành từ khi ông n Đ chuyn nhượng cho Mai Th T m
2007. Đề nghị Tòa án Nhân dân thị xã P T giải quyết theo quy định pháp luật.
Đại diện theo ủy quyền của UBND P H, thị P T vắng mặt nhưng
quan điểm: Thống nhất với ý kiến trình bày của Ủy ban nhân dân thị P T
nêu trên. Tnăm 2007, vợ chồng ông Đ T đã tự nguyn cắt 190,6m
2
đất ờn
để làm lối đi chung, vậy phần diệnch này thuộc quyn quản lý của UBND xã. Đ
nghị Tòa án Nhân dân thị xã P T giải quyết theo quy định pháp luật.
Ông Vi Văn K nguyên cán bộ địa chính P H cho biết: Khoảng năm
2008, ông làm thủ tục chuyển nhượng quyền sử dụng đất giữa ông Đ, T cho
ông Q, T. Hồ chuyển nhượng đã làm đầy đcác thủ tục theo quy định
pháp luật, hai bên đã kiểm tra hiện trạng và thửa đất có lối đi theo bản vẽ.
Tại Bản án dân sự sơ thẩm s10/2024/DS-ST ngày 16/8/2024 của Tòa án
nhân dân thị xã P T, đã quyết định:
Áp dụng: Điều 166, 170, 171 Luật đất đai 2013; Điều 245, 254 Bộ luật
dân sự; khoản 9, Điều 26, điểm a, khoản 1 điều 35 điểm c, khoản 1 điều 39,
điều 147, 157, 158, 165, 166, 264, 266, 267, 271, 272, 273 Bộ luật tố tụng dân
sự 2015; Khoản 3 điều 2 Quyết định số 14/2021/QĐ-UBND ngày 23/8/2021 của
UBND tỉnh Phú Thọ; Khoản 2 điều 9 Quyết định số 16/2024/QĐ-UBND ngày
01/8/2024 của UBND tỉnh Phú Thọ; Khoản 2, điều 26, điểm a khoản 2 Điều 27
Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14 của Ủy ban thường vụ Quốc hội ngày
30/12/2016 quy định về mức thu, miễn, giảm, thu nộp, quản sdụng án
phí và lệ phí Toà án .
Xử:
5
- Chấp nhận yêu cầu khởi kiện của Chị Phạm Thị A.
- Buộc gia đình Bùi Thị T trả lại quyền sử dụng cho Chị Phạm Thị A
cùng sdụng đối với lối đi chung của thửa đất s 54
-1
tbản đồ s35, thuộc
Khu X, P H, thị xã P T, tỉnh Phú Thọ, theo chỉ giới 2.3.4.6.7.8.9.10.11.2 (Có
bản trích đo hiện trạng sử dụng đất kèm theo).
T nghĩa vụ tháo dỡ, di dời một số tài sản làm trên đất của Chị A
lối đi chung gồm: 01 chuồng lợn, 01 nhà tạm, tường rào xây bằng gạch xỉ 01 y
mít đường kính 20cm, 01 cây cóc đường kính 30cm, 01 cây bưởi đường kính
5cm, 01 cây sung đường kính 30cm, 01 cổng làm bằng sắt và lưới B40.
Xác nhận Chị Phạm Thị A tự nguyện hỗ trợ gia đình Bà Bùi Thị T chi phí
tôn tạo lối đi chung là 40.000.000đ.
- Về chi phí tố tụng: Xác nhận nguyên đơn tự nguyện chịu toàn bộ chi phí
thẩm định, định giá là 6.798.000đ.
Bản án còn tuyên về án phí, quyền kháng cáo và các vấn đề khác theo quy
định của pháp luật.
Kháng cáo: Ngày 30/9/2024, Bùi Thị T đơn kháng cáo đối với bản
án thẩm, không đồng ý Phạm Thị A lối đi chung với để nối ra cổng
của gia đình bà và đi ra quốc lộ 2.
Tại phn t phúc thẩm: Bùi Thị T giữ nguyên yêu cầu kháng cáo
không cung cấp tài liệu chứng cứ mới. Bà T trình bày: Bà chuyển nhượng quyền
sử dụng đất cho nhà ông Q, T thì chỉ đường ngang đi chung bên trong,
còn đường nối ra cổng và đường đi ra quốc lộ 2 chưa có, muốn đường nối ra
cổng và đường đi ra quốc lộ 2 thì hai bên phải thỏa thuận, bà yêu cầu Chị A phải
thanh toán cho số tiền 120.000.000 đồng để lối đi nối ra cổng và đường
đi ra Quốc lộ 2.
Người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của Bùi Thị T trình bày: Việc
tách phần diện tích làm lối đi chung đó điều kiện để chuyển nhượng
quyền sử dụng đất, nhưng chỉ giới diện ch đo đạc chưa đúng. Lối đi chung
trước đây là phần đất thổ của T, T nhiều công sức tôn tạo đối với
phần đất này và đường đi ra Quốc lộ 2, nay T yêu cầu Chị A phải thanh toán
giá trị tiền đất làm lối đi như trên phợp, đề nghị Tòa án xem xét theo yêu
cầu của bà T, đảm bảo quyền lợi cho bà T.
Chị Phạm Thị A trình bày: Thửa đất của ch đã được cấp Giấy chứng
nhận quyền sử dụng đất lối đi chung với gia đình T để kết nối ra đường đi
ra Quốc lộ 2, Chị A không đồng ý thanh toán 120.000.000 đồng cho T, chỉ
đồng ý thực hiện nghĩa vụ thanh toán nêu trên theo quy định của pháp luật tự
nguyện hỗ trợ thêm cho bà T chi phí tôn tạo lối đi để đi ra Quốc lộ 2. Tại cấp
thẩm chị tự nguyện hỗ trợ cho gia đình T chi phí tôn tạo lối đi để đi ra quốc
lộ 2 là 40.000.000 đồng. Nay chị thay đổi ý kiến, chị đồng ý thanh toán và hỗ trợ
tổng số tiền 50.000.000 đồng (Trong đó 2.572.380 đồng nghĩa vụ thanh
toán ½ giá trị quyền sử dụng đất làm lối đi chung do diện tích lối đi chung tăng
thêm).
Tại phiên tòa Đại diện Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Phú Thọ phát biểu
quan điểm:
6
Về tố tụng Thẩm phán,Thư ký, Hội đồng xét xtuân thủ đầy đủ quy định
của pháp luật về tố tụng.
Về nội dung: Thửa đất số 54
-1
tờ bản đồ số 35, diện ch 402,1 m
2
của
Phạm ThA được cấp GCNQSD đất đường đi chung kết nối đường đi ra Quốc
lộ 2 được nh thành từ khi gia đình bà T chuyn nhượng cho gia đình Mai Th
Lý T năm 2007, sau đó gia đình T chuyển nhượng cho Chị A. Nay ChA khởi
kiện u cầu gia đình T giành cho ChA lối đi chung n cứ được chấp
nhận. Vchồng ông bà Đ T đã tự nguyện cắt 190,6m
2
đất ờn để làm lối đi chung
nhưng kết quả đo đạc hiện nay thể hiện lối đi chung diện tích là 246,4 m
2
, diện
ch lối đi chung ng 55,8 m
2
nguồn gốc đất ờn của gia đình T. Ti
phn a ChA đồng ý thanh toán cho gia đình T theo quy định của pháp luật
hỗ trcho gia đình T, tổng số tiền 50.000.000 đồng. Vì vậy đề nghị Hội
đồng t xử căn cứ khoản 2 Điều 308 Bộ luật tố tụng dân sự, sửa bản án thẩm
theo ớng buộc gia đình T phải m lối đi theo hiện trạng đã thẩm định mới.
ChA thanh toán giá trị quyn sử dụng đất m lối đi ng thêm, tự nguyện hỗ trợ
chi pn tạo lối đi để đi ra Quốc lộ 2, tổng số tiền 50.000.000 đồng xác định
lại nghĩa vụ chịu án p thẩm cho phợp.
NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN:
Sau khi nghiên cứu các tài liệu, chứng cứ có trong hồ sơ vụ án được thẩm
tra tại phiên tòa; Căn cứ kết quả tranh tụng tại phiên tòa, ý kiến của đại diện
VKSND tỉnh; Hội đồng xét xử nhận định như sau:
[1] Kháng cáo của Bùi Thị T là bị đơn được thực hiện trong thời hạn luật
định, hợp lệ nên đủ điều kiện xem xét, giải quyết theo thủ tục phúc thẩm.
[2] Về nội dung kháng cáo: Ngày 30/9/2024, Bùi Thị T đơn kháng
cáo đối với bản án sơ thẩm, không đồng ý bà Phạm Thị A lối đi chung với bà
để nối ra cổng của gia đình bà và đi ra quốc lộ 2.
Hội đồng xét xử xét thấy:
Khi chuyển nhượng quyn s dụng đất cho gia đình Mai Th T,
trong Giy chng nhn quyn s dụng đất của gia đình bà có ghi: “H ông Đ đã
chuyn quyn s dụng đất cho h T 402,1 m
2
đất (đất 80 m
2
, đất vườn
322,1m
2
) làm đường đi chung 190,6m
2
...”. Đến nay gia đình không khiếu
nại đến quan thẩm quyền về việc tách đất của làm lối đi chung như
phần ghi chú đã ghi.
Ti các h cp Giy chng nhn quyn s dụng đt ca h Mai Th
Lý T và Ch Phm Th A đu th hin th hin có lối đi t thửa đất s 54
-1
tbản
đồ s 35 ra đưng theo bản đồ địa chính để đi ra đưng Quc l 2. Mt khác, khi
chuyển nhượng đt th , phn diện tích đất được chuyển nhượng cn phi
lối đi phù hợp. Do đó yêu cu của nguyên đơn căn cứ, cấp thẩm buc
gia đìnhT tháo d tài sản để tr lối đi chung cho nguyên đơn cùng s dng
đúng pháp luật. Theo kết quả xem xét, thẩm định tại chỗ, định glại tài sản
bản trích đo hiện trạng sử dụng đất ngày 19/02/2025 thể hiện trên phần diện tích
7
đất tranh chấp, lối đi chung đi ra Quốc lộ 2 : 01 cây Sấu đường kính 50
cm trị giá 1.657.000 đồng; 01 cây Mít đường kính 30 cm trị giá 1.857.000
đồng; 01 cây Bưởi đường kính 5 cm trị giá 157.000 đồng; 01 trụ cổng xây
gạch xỉ chiều cao 1,8 m, rộng 0,5 cm, dày 0,5 m đoạn tường xây rộng 1m,
cao 1,4 m, dày 0,15 m trị giá 227.700 đồng; 03 cánh cổng sắt bịt lưới B40, rộng
0,75 m, cao 2,1m trị giá 164.430 đồng; một phần nhà tạm 22,9 m
2
, không yêu
cầu định giá. Gia đình Bùi Thị T phải tháo dỡ, di dời toàn bộ các tài sản làm
trên thửa đất số 54-1, tờ bản đồ số 35 thuộc quyền sử dụng đất của Chị A, lối đi
chung và để đi ra quốc lộ 2.
Căn cứ bản trích đo hiện trạng sử dụng đất của Chi nhánh Văn phòng đăng
đất đai thị P T ngày 19/02/2025 xác định vị trí đất đã cắt làm lối đi chung
trên thực tế có diện tích là 246,4 m
2
tăng so với phần ghi trong Giấy chứng nhận
quyền sử dụng đất của chị Thắm là 246,4 m
2
-190,6 m
2
=55,8m
2
đất vườn, trị giá
là 55,8 m
2
x 92.200 đồng/m
2
đất vườn = 5.144.760 đồng.
Chị A nghĩa vụ thanh toán chênh lệch cho T số tiền 5.144.760
đồng: 2 = 2.572.380 đồng để cùng sử dụng lối đi chung nối ra cổng của T để
đi ra Quốc lộ 2.
Tại phiên tòa phúc thẩm Chị A không đồng ý thanh toán 120.000.000 đồng
cho T, chỉ đồng ý thực hiện nghĩa vụ thanh toán nêu trên theo quy định của
pháp luật tự nguyện hỗ trợ thêm cho T chi phí tôn tạo lối đi để đi ra quốc
lộ 2. Tại cấp sơ thẩm chị tự nguyện hỗ trợ cho gia đình bà T chi phí tôn tạo lối đi
để đi ra quốc lộ 2 là 40.000.000 đồng. Nay chị Thay đổi ý kiến, chị đồng ý thanh
toán và hỗ trợ tổng số tiền 50.000.000 đồng (Trong đó 2.572.380 đồng
nghĩa vụ thanh toán ½ giá trị quyền sử dụng đất làm lối đi do diện tích lối đi
tăng thêm). Ý kiến của Chị A tự nguyện phù hợp với pháp luật, đảm bảo
quyền lợi của bà T nên được ghi nhận.
Do tình tiết mới nêu trên nên cần sửa một phần bản án sơ thẩm xác
định lại nghĩa vụ chịu án phí sơ thẩm cho phù hợp.
[3] Về án phí dân sthẩm: T phải chịu án phí 300.000 đồng do yêu
cầu của nguyên đơn được Tòa án chấp nhận. Chị A phải chịu án phí đối với
nghĩa vụ phải thanh toán (2.572.380 đồng), án phí là 300.000 đồng, còn phần
Chị A tự nguyện hỗ trợ thì không phải chịu án phí.
[4] Về án phí dân sphúc thẩm: Bùi Thị T không phải chịu án phí dân
sự phúc thẩm do sửa bản án sơ thẩm.
[5] Về chi phí tố tụng: Chị A tự nguyện chịu toàn bộ chi phí xem xét,
thẩm định tại chỗ định giá tài sản tại giai đoạn thẩm phúc thẩm được
ghi nhận và xác nhận Chị A đã nộp đủ.
[6]. Xét đề ngh ca Kim sát viên ti phiên tòa là phù hp nên chp nhn.
Vì các lẽ trên,
8
QUYẾT ĐỊNH:
Căn cứ khoản 2 Điều 308, khoản 2 Điều 309 Bộ luật Tố tụng dân sự;
Chấp nhận một phần kháng cáo của Bùi Thị T đối với yêu cầu thanh
toán tiền cho lối đi chung.
Sửa một phần Bản án thẩm số 10/2024/DS-ST ngày 24/9/2024 của
Tòa án nhân dân thị xã P T, tnh Phú Th.
Căn cứ vào Điều 166, 170, 171 Luật đất đai 2013; Điều 163, 164, 245,
254 Bộ luật dân sự; khoản 9 Điều 26, Điều 147, 157, 158, 165, 166 Bộ luật tố
tụng dân sự 2015; Điều 26, Điều 27, Điều 29, Nghị quyết số
326/2016/UBTVQH14 ngày 30 tháng 12 năm 2016 của Ủy ban thường vụ Quốc
Hội về án phí, lệ phí Tòa án.
Chấp nhận yêu cầu khởi kiện của Chị Phạm Thị A.
Buộc gia đình Bùi Thị T dành cho Chị Phạm Thị A cùng sử dụng đối
với lối đi chung theo chỉ giới 2,3,4,6,7,8,9,10,11,12,13,2.
Buộc gia đình Bùi Thị T nghĩa vụ tháo dỡ, di dời toàn bộ các tài
sản, cây cối lâm lộc trên thửa đất s 54
-1
tờ bản đồ số 35, thuộc Khu X, P H,
thị xã P T, tỉnh Phú Thọ của Chị A, trên lối đi chung và để đi ra Quốc lộ 2 trong
đó có: 01 lán (chuồng lợn) diện tích 30,5 m
2
, 01 phần nhà tạm diện tích 22,9m
2
,
01 cây Sấu có đường kính 50 cm; 01 cây Mít có đường kính 30 cm; 01 cây Bưởi
đường kính 5 cm; 01 trụ cổng xây gạch xchiều cao 1,8 m, rộng 0,5 cm, dày
0,5 m đoạn tường xây rộng 1m, cao 1,4 m, dày 0,15 m (tính từ trụ cổng phải
tháo dỡ); 03 cánh cổng sắt bịt lưới B40, rộng 0,75 m, cao 2,1m.
(Các chgiới theo bản trích đo hiện trạng sử dụng đất ngày 19/02/2025
của Chi nhánh Văn phòng đăng ký đất đai thị xã P T kèm theo).
Buộc Chị Phạm Thị A nghĩa vụ thanh toán cho gia đình Bùi Thị T
số tiền là 2.572.380 đ (Hai triệu năm trăm bảy mươi hai nghìn ba trăm tám mươi
đồng) để cùng sử dụng lối đi chung. Ghi nhận Chị Phạm Thị A tự nguyện hỗ trợ
gia đình Bùi Thị T chi phí tôn tạo lối đi để đi ra Quốc lộ 2 47.427.620 đ
(Bốn mươi bảy triệu bốn trăm hai mươi bảy nghìn sáu trăm hai mươi đồng).
Tổng số tiền Chị A nghĩa vụ thanh toán tự nguyện hỗ trợ cho gia đình
Bùi Thị T là 50.000.000 đ (Năm mươi triệu đồng).
Về chi phí tố tụng:
Ghi nhận nguyên đơn Chị Phạm Thị A tự nguyện chịu toàn bchi phí
xem xét, thẩm định tại chỗ định giá tại cấp thẩm là 6.798.000đ (Sáu triệu
bảy trăm chín mươi tám nghìn đồng) tại cấp phúc thẩm 6.811.000 đồng
(Sáu triệu tám trăm mười một nghìn đồng). Xác nhận Chị A đã nộp đủ toàn bộ
chi phí nêu trên.
Về án phí dân sự sơ thẩm: i Thị T phải chịu 300.000đ (Ba trăm
nghìn đồng) án phí dân sự sơ thẩm.
Chị Phạm Thị A phải chịu án phí dân sự thẩm 300.000 đ (Ba trăm
trăm nghìn đồng).
Xác nhận Chị Phạm Thị A đã nộp 300.000đ (Ba trăm nghìn đồng) tiền
tạm ứng án phí dân sự thẩm theo biên lai số: 0005471 ngày 30/10/2023 của
Chi cục Thi hành án dân sự thị xã P T.
9
Về án phí phúc thẩm:
Bùi Thị T không phải chịu án phí dân sphúc thẩm. Trả lại cho
Bùi Thị T 300.000đ (Ba trăm nghìn đồng) tiền tạm ứng án phí phúc thẩm đã nộp
theo biên lai thu tạm ứng án phí, lệ phí số 0005384 ngày 03/10/2024 của Chi cục
thi hành án dân sự thị xã P T, tỉnh Phú Thọ.
Bản án phúc thẩm có hiệu lực pháp luật kể từ ngày tuyên án.
Kể từ ngày đơn yêu cầu thi hành án của người được thi hành án ối
với khoản tiền phải trả cho người được thi hành án) cho đến khi thi hành án
xong, bên phải thi hành án còn phải chịu khoản tiền lãi của số tiền còn phải thi
hành án theo mức lãi suất quy định tại Điều 357, Điều 468 của Bộ luật dân sự
năm 2015, trừ trường hợp pháp luật có quy định khác.
Trường hợp được thi hành theo quy định tại điều 2 Luật thi hành án dân
sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự quyền
thỏa thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc
bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các Điều 6, 7, 7a, 7b 9 Luật thi
hành án dân sự. Thời hiệu yêu cầu thi hành án được quy định tại Điều 30 Luật
thi hành án dân sự.
Nơi nhận:
- TAND thị xã P T, tỉnh Phú Thọ;
- Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Phú
Thọ;
- Chi cục thi hành án dân sự thị P
T, tỉnh Phú Thọ;
- Các đương sự;
- Lưu: VP, hồ sơ vụ án (02 bản).
TM. HỘI ĐỒNG XÉT XỬ PHÚC THẨM
THẨM PHÁN - CHỦ TỌA PHIÊN TÒA
Trần Đình Chi
Tải về
Bản án số 46/2025/DS-PT Bản án số 46/2025/DS-PT

Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để tải file. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!

Bản án số 46/2025/DS-PT Bản án số 46/2025/DS-PT

Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để tải file. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!

Bản án/ Quyết định cùng đối tượng

Bản án cùng lĩnh vực

Bản án mới nhất