Bản án số 66/2025/DS-PT ngày 12/09/2025 của TAND tỉnh Tuyên Quang về tranh chấp hợp đồng vay tài sản
- Thuộc tính
- Nội dung
- VB gốc
- VB liên quan
- Lược đồ
- Đính chính
- Án lệ
- BA/QĐ cùng nội dung
- Tải về
Tải văn bản
-
Bản án số 66/2025/DS-PT
Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để tải file. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!
-
Bản án số 66/2025/DS-PT
Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để tải file. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!
Báo lỗi
Thuộc tính Bản án 66/2025/DS-PT
| Tên Bản án: | Bản án số 66/2025/DS-PT ngày 12/09/2025 của TAND tỉnh Tuyên Quang về tranh chấp hợp đồng vay tài sản |
|---|---|
| Quan hệ pháp luật: | Tranh chấp hợp đồng vay tài sản |
| Cấp xét xử: | Phúc thẩm |
| Tòa án xét xử: | TAND tỉnh Tuyên Quang |
| Số hiệu: | 66/2025/DS-PT |
| Loại văn bản: | Bản án |
| Ngày ban hành: | 12/09/2025 |
| Lĩnh vực: | Dân sự |
| Áp dụng án lệ: |
Đã biết
Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để xem áp dụng án lệ. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây! |
| Đính chính: |
Đã biết
Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để xem đính chính. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây! |
| Thông tin về vụ/việc: | Tranh chấp hợp đồng vay tài sản |
Tóm tắt Bản án
Nội dung tóm tắt đang được cập nhật, Quý khách vui lòng quay lại sau!
Tải văn bản

TÒA ÁN NHÂN DÂN
TỈNH TUYÊN QUANG
CỘNG HÒA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIÊT NAM
Độc lập - Tự do - Hạnh phúc
Bản án số: 66/2025/DS-PT
Ngày 12 - 9 -2025
V/v Tranh chấp hợp đồng vay tài sản
NHÂN DANH
NƯỚC CỘNG HÒA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM
TÒA ÁN NHÂN DÂN TỈNH TUYÊN QUANG
- Thành phần Hội đồng xét xử phúc thẩm gồm có:
Thẩm phán - Chủ tọa phiên tòa: Ông Phúc An Hoành,
Các Thẩm phán: Ông Triệu Ngọc Thức và ông Trần Anh Tuấn.
- Thư ký phiên tòa: Bà Nguyễn Phương Hằng - Thư ký Tòa án nhân dân
tỉnh Tuyên Quang.
- Đại diện Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Tuyên Quang: Bà Nguyễn Hải
Yến - Kiểm sát viên.
Ngày 12 tháng 9 năm 2025, tại trụ sở Tòa án nhân dân tỉnh Tuyên Quang
xét xử phu
́
c thâ
̉
m công khai vụ án dân sự thụ lý số 37/2025/TLPT-DS, ngày 28
tháng 8 năm 2025, về viê
̣
c “Tranh chp hng vay tài s
Do Bản án dân sự sơ thẩm số 57/2025/DS-ST ngày 16/6/2025 của Tòa án
nhân dân thành phố Tuyên Quang, tỉnh Tuyên Quang (nay là Tòa án nhân dân
-
Theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử phúc thẩm số 53/2025/QĐ-PT, ngày
28 tha
́
ng 8 năm 2025 của Tòa án nhân dân tỉnh Tuyên Quang, giữa các đương sự:
Nguyên đơn:
Bà Lâm Thị T, sinh năm 1958; Địa chỉ: Tổ dân phố V, thị trấn V, huyện C,
tỉnh Tuyên Quang (nay là thôn V, xã C, tỉnh Tuyên Quang). Bà T đồng thời là
người đại diện theo ủy quyền của người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan chị
Nguyễn Thùy D.
Bị đơn:
Anh Quan Văn T1, sinh năm 1982; Địa chỉ: Tổ dân phố F, phường Ỷ, thành
phố T, tỉnh Tuyên Quang (nay là Tổ dân phố Ỷ, phường M, tỉnh Tuyên Quang).
2
Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan:
- Chị Hà Thị C, sinh năm 1987; Địa chỉ: Tổ dân phố F, phường Ỷ, thành
phố T, tỉnh Tuyên Quang (nay là Tổ dân phố Ỷ, phường M, tỉnh Tuyên Quang).
.
- Chị Nguyễn Thùy D, sinh năm 1986; Địa chỉ: Tổ dân phố V, thị trấn V,
huyện C, tỉnh Tuyên Quang (nay là thôn V, xã C, tỉnh Tuyên Quang). .
Người kháng cáo: Bị đơn anh Quan Văn T1.
NỘI DUNG VỤ ÁN:
trình bày:
Bà và anh Quan Văn T1 là người quen biết do cùng quê là người ở huyện
C, tỉnh Tuyên Quang. Quá trình làm ăn anh T1 và vợ là chị Hà Thị Chuyên C1
vốn nên vay tiền của bà. Bà cho vay số tiền 200.000.000đ từ tháng 3/2020. Khi
vay hai bên có làm giấy, anh T1 ký, thoả thuận vay 03 tháng, lãi suất là 3%/ tháng.
Việc chuyển tiền cho vay là bà chuyển khoản cho chị C 145.000.000đ, chuyển
khoản cho anh T1 50.000.000đ và đưa tiền mặt cho anh T1 5.000.000đ. Sau đó
anh T1, chị C không trả được tiền gốc và tiền lãi nên ngày 26/01/2021 hai bên viết
giấy ghi vay số tiền 250.000.000đ vào tháng 01/2021. Giấy vay tiền năm 2020 bà
đã vứt bỏ. Đến ngày 26/8/2021 anh T1 chị C trả bà số tiền 70.000.000đ. Tiếp đó
bà đòi nhiều lần thì ngày 19/4/2022 anh T1 chị C trả bà số tiền 100.000.000đ.
Ngày 30/3/2023, anh T1 chị C đã trả bà tiếp số tiền 50.000.000đ. Số tiền anh T1,
chị C đã trả nêu trên bà sẽ tính trừ tiền lãi theo lãi 20%/năm, còn lại thì sẽ trừ vào
gốc. Nay bà tính toán theo quy định của pháp luật là lãi 20%/1 năm từ khi vay
(ngày 26/3/2020 đến nay). Bà yêu cầu anh T1, chị C trả cho bà số tiền gốc là
81.968.000 đ và số tiền lãi là 34.790.000 đ.
Quan
trình bày:
Anh không nhất trí với đơn khởi kiện ban đầu của bà T – căn cứ vào giấy
vay tiền ghi ngày 26/01/2021. Thực tế là anh không thực hiện việc vay theo giấy
này. Từ khi vay đến ngày 26/01/2021 anh và vợ anh là chị C chưa trả cho bà T
được khoản tiền nào. Khi ký giấy này anh không bị ép buộc, anh có đọc, hiểu nội
dung giấy này.
Thực chất tháng 3/2020 vợ chồng anh hỏi vay bà T 200.000.000đ, anh là
người làm giấy vay, ký đưa cho bà T cầm. Nhất trí là vay từ ngày 26/3/2020. Thời
hạn vay anh không nhớ, Khi đó hai bên viết giấy và thoả thuận không có lãi mà
anh chỉ nói với bà T làm ăn được sẽ cảm ơn bà sau, không để bà thiệt. Ghi giấy
vay 200.000.000đ nhưng bà T chỉ chuyển khoản cho vợ chồng anh 195.000.000đ.
3
Việc anh vay tiền và trả tiền bà T đều là chuyển khoản. Tính đến nay anh đã trả
bà T 220.000.000đ, anh không còn nợ bà T. Đối với các lần anh đã chuyển khoản
để trả tiền nợ cho bà T, anh xác định là trả nợ tiền gốc.
trình bày:
Về việc vay tiền, chồng chị (anh T1) và bà T thoả thuận như thế nào chị
không rõ. Ngày 27/3/2020 chị nhận được số tiền 145.000.000đ do bà T chuyển
khoản. Chồng chị có nói vay bà T số tiền 200.000.000đ, còn 55.000.000đ bà T
chuyển cho chồng chị (anh T1) bằng hình thức nào chị không rõ. Chị nhất trí là
vay từ ngày 26/3/2020. Thời hạn vay và lãi suất vay như thế nào chị không rõ. Về
giấy vay tiền lập ngày 26/01/2021 là do chồng chị đưa cho chị bảo ký để giao lại
cho bà T. Tháng 7/2021 bà T làm đơn đến cơ quan chị đang công tác, bà yêu cầu
chị trả số tiền 145.000.000 đ. Đến ngày 26/8/2021 chị chuyển khoản trả cho bà T
số tiền 70.000.000đ. Khi trả chị không xác định đây là trả tiền gốc hay trả lãi. Lần
2: ngày 19/4/2022 , Anh T1 chuyển khoản trả cho bà T số tiền 100.000.000đ. Lần
3: ngày 30/3/2023, chị chuyển khoản trả cho bà T số tiền 50.000.000đ. Khi trả
không xác định đây là trả gốc hay trả lãi.
. trình bày:
Nhất trí ý kiến của mẹ chị là bà Lâm Thị T.
Vụ án đã được Tòa án nhân dân thành phố Tuyên Quang, tỉnh Tuyên Quang
(nay là Tòa án nhân dân khu vực 1 – Tuyên Quang) thụ lý, xác minh, thu thập tài
liệu chứng cứ, tiến hành hoà giải nhưng không thành và đã đưa vụ án ra xét xử.
Tại Bản án dân sự sơ thẩm số 57/2025/DS-ST, ngày 16/6/2025 của Tòa án nhân
dân thành phố Tuyên Quang, tỉnh Tuyên Quang (nay là Tòa án nhân dân khu vực
1 – Tuyên Quang) quyết định:
Căn cứ: Khoản 3 Điều 26; khoản 1 Điều 35; khoản 1 Điều 39; khoản 1 Điều
147; 207; 235; 238; 266; 271; 273 của Bộ luật Tố tụng Dân sự. Các Điều 357,
385, 463, 466, 468 của Bộ luật Dân sự. Khoản 2 Điều 26 Nghị quyết số
326/2016/UBTVQH14 ngày 30-12-2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội về mức
thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án.
Chấp nhận một phần yêu cầu khởi kiện của bà Lâm Thị T đòi tiền do anh
Quan Văn T1 và chị Hà Thị C vay.
Tuyên xử: Buộc anh Quan Văn T1, chị Hà Thị C có trách nhiệm liên đới
trả cho bà Lâm Thị T số tiền là 105.503.000 đồng
, trong đó 73.159.300 đồng là tiền vay gốc và 32.343.700
đồng là tiền lãi. Chia theo phần anh Quan Văn T1 phải trả 52.751.500 đồng (
; Chị Hà Thị C phải
trả 52.751.500 đồng (
.
4
Ngoa
̀
i ra ba
̉
n a
́
n co
̀
n quyết định về án phí và quyền kha
́
ng ca
́
o theo quy định
của pháp luật.
Ngày 23/7/2025 bị đơn anh Quan Văn T1 có đơn kháng cáo toàn bộ Bản
án dân sự sơ thẩm số 57/2025/DS-ST ngày 16/6/2025 của Tòa án nhân dân thành
phố Tuyên Quang, tỉnh Tuyên Quang (nay là Tòa án nhân dân khu vực 1 - Tuyên
Quang). Nội dung đơn kháng cáo: Theo đơn khởi kiện của nguyên đơn ghi thống
nhất thỏa thuận vay với lãi suất 3%/tháng là không đúng. Anh không đồng ý với
các tài liệu viện dẫn và quyết định của Tòa án. Yêu cầu Tòa án cấp phúc thẩm giải
quyết những việc sau đây: Thực tế vay không có thỏa thuận về lãi suất nên đề nghị
Tòa phúc thẩm giải quyết; Thực tế vay 195.000.000 đồng anh đã trả đủ và gửi tiền
cảm ơn 25.000.000 đồng, không còn nợ tiền nguyên đơn.
Ta
̣
i phiên to
̀
a phu
́
c thâ
̉
m: Bị đơn anh T1 trình bày giữ nguyên nội dung
kháng cáo, anh xác định anh chỉ vay tiền bà T một lần vào ngày 26/3/2020, số tiền
vay 195.000.000 đồng, không thỏa thuận lãi suất, giữa hai bên có giấy vay tiền
viết tay tuy nhiên bà T giữ giấy này. Về giấy vay tiền lập ngày 26/01/2021 trên
thực tế giữa các bên không thực hiện giao dịch. Từ ngày 26/01/2021 đến ngày
30/3/2023 anh và chị C (vợ) đã thanh toán cho bà T số tiền 220.000.000 đồng,
như vậy đã thanh toán xong số tiền vay, không còn nợ tiền nguyên đơn. Từ ngày
lập giấy vay tiền năm 2021 đến nay đã quá thời hạn 03 năm, do vậy bà T không
còn quyền khởi kiện vụ án về hợp đồng vay tài sản. Đề nghị Hội đồng xét xử giải
quyết theo quy định pháp luật.
Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan chị Hà Thị C (vợ anh T1) nhất trí
như ý kiến trình bày của anh T1.
Nguyên đơn bà Lâm Thị T: nhất trí với bản án sơ thẩm và không nhất trí
với nội dung kháng cáo của anh T1. Ngày 26/3/2020, bà cho vợ chồng anh T1 vay
200.000.000đ, Tuy nhiên do không có tài liệu chứng minh bà đã đưa số tiền
5.000.000đ cho anh T1 nên bà nhất trí như bản án sơ thẩm xác định số tiền gốc bà
cho anh T1 vay là 195 triệu. Về lãi suất cho vay tiền là 3%/tháng, vì bà với anh
T1 không có quan hệ họ hàng, chỉ quen biết thì không thể có việc cho vay không
có lãi. Tại giấy vay tiền ngày 26/01/2021, bà tính cả gốc và lãi của số tiền cho vay
theo mức lãi suất 3%/tháng là 260.000.000đ nhưng giảm cho 10.000.000đ, làm
tròn còn 250.000.000đ. Sau khi lập xong giấy vay tiền mới thì bà đã hủy bỏ giấy
vay tiền lập trước đó giữa bà và anh T1 vào năm 2020. Do đòi nhiều lần nhưng
vợ chồng anh T1 không trả được nợ nên đến năm 2022, bà nhất trí để vợ chồng
anh T1 đem thửa đất mua chung giữa hai gia đình đi thế chấp Ngân hàng để vay
tiền và hai bên thống nhất khi vay được tiền, anh T1 sẽ trả cho bà 260.000.000đ
nhưng anh T1 không thực hiện đúng cam kết.
Ý kiến của Kiê
̉
m sa
́
t viên ta
̣
i phiên to
̀
a phu
́
c thâ
̉
m:
5
Về việc tuân theo pháp luật tố tụng của Tòa án, người tham gia tố tụng:
Thẩm phán, Thư ký Tòa án nhân dân tỉnh Tuyên Quang đã chấp hành đúng quy
định tại Điều 48, 51 Bộ luật Tố tụng dân sự. Đương sự đã thực hiện đúng, đầy đủ
quyền và nghĩa vụ tố tụng của mình theo quy định pháp luật. Người kháng cáo
anh Quan Văn T1 có quyền kháng cáo, đơn kháng cáo còn trong thời hạn luật
định. Nội dung kháng cáo nằm trong nội dung Bản án sơ thẩm số 57/2025/DS-ST
ngày 16/6/2025 của Tòa án nhân dân thành phố Tuyên Quang, tỉnh Tuyên Quang.
Về nội dung: Căn cứ tài liệụ hồ sơ vụ án và kết quả tranh tụng tại phiên tòa
phúc thẩm, xét thấy nguyên đơn cho bị đơn vay tiền từ năm 2020, bị đơn và người
có quyền lợi nghĩa vụ liên quan thanh toán tiền cho nguyên đơn nhiều lần, lần
cuối ngày 30/3/2023, do đó quyền khởi kiện vụ án theo hợp đồng vay tài sản vẫn
còn thời hiệu. Xét thấy cấp sơ thẩm xét xử, giải quyết vụ án có căn cứ, phù hợp
theo quy định của pháp luật, không có căn cứ chấp nhận đơn kháng cáo bản án
của bị đơn anh Quan Văn T1. Đề nghị Hội đồng xét xử áp dụng khoản 1 Điều 308
Bộ luật Tố tụng dân sự: Không chấp nhận yêu cầu kháng cáo của bị đơn anh Quan
Văn T1, giữ nguyên Bản án dân sự sơ thẩm số 57/2025/DS-ST ngày 16/6/2025
của Tòa án nhân dân thành phố Tuyên Quang, tỉnh Tuyên Quang (nay là Tòa án
- Tuyên Quang).
Về án phí dân sự phúc thẩm: Do kháng cáo không được chấp nhận nên anh
Quan Văn T1 phải chịu án phí dân sự phúc thẩm theo quy định.
NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN:
Căn cứ vào các tài liệu, chứng cứ đã được xem xét tại phiên tòa và kết quả
tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định:
[1] Về thủ tục tố tụng:
Ngày 23/7/2025 bị đơn anh Quan Văn T1 có đơn kháng cáo toàn bộ Bản
án dân sự sơ thẩm số 57/2025/DS-ST ngày 16/6/2025 của Tòa án nhân dân thành
phố Tuyên Quang, tỉnh Tuyên Quang (- Tuyên
Quang). Căn cứ vào Biên bản làm việc lập ngày 29/7/2025 tại Tòa án nhân dân
khu vực 1 - Tuyên Quang và Đơn trình báo do anh T1 cung cấp, xác định việc anh
T1 vắng mặt khi Tòa án sơ thẩm tuyên án (ngày 16/6/2025) là có lý do chính đáng,
vì vậy thời hạn kháng cáo của anh T1 được tính từ ngày anh T1 nhận được Bản
án do Tòa án cấp sơ thẩm tống đạt hợp lệ qua đường bưu chính (ngày 18/7/2025).
Với phân tích nêu trên, ngày 15/8/2025 Hội đồng xét kháng cáo quá hạn Tòa án
nhân dân tỉnh Tuyên Quang họp xét, quyết định chấp nhận việc kháng cáo quá
hạn của anh Quan Văn T1 đối với Bản án dân sự sơ thẩm số 57/2025/DS-ST ngày
16/6/2025 của Tòa án nhân dân thành phố Tuyên Quang, tỉnh Tuyên Quang (nay
là Tòa án nhân dân khu vực 1 - Tuyên Quang). Đơn kháng cáo có nội dung kháng
cáo và quyền kháng cáo phù hợp với quy định của pháp luật, bị đơn đã nộp tiền
6
tạm ứng án phí phúc thẩm, Tòa án cấp sơ thẩm đã ban hành Thông báo về việc
kháng cáo là phù hợp với quy định của pháp luật, nên được chấp nhận xem xét
theo trình tự phúc thẩm.
Về thành phần tham gia tố tụng: Các đương sự nguyên đơn, bị đơn, người
có quyền lợi nghĩa vụ liên quan chị Hà Thị C có mặt tại phiên toà; người có quyền
lợi và nghĩa vụ liên quan chị Nguyễn Thùy D vắng mặt (có văn bản ủy quyền cho
nguyên đơn tham gia tố tụng). Vì vậy, Toà án xét xử vụ án theo thủ tục chung.
[2] Về nội dung vụ án, yêu cầu kháng cáo của bị đơn:
[2.1], Về nội dung vụ án:
Nguyên đơn bà T khởi kiện yêu cầu anh T1 và người có quyền lợi, nghĩa
vụ liên quan chị C có trách nhiệm thanh toán cho bà số tiền tổng số tiền
116.758.000 đồng, trong đó tiền gốc 81.968.000 đồng, tiền lãi 34.790.000 đồng.
Số tiền trên anh T1 đã vay của bà từ ngày 26/3/2020 số tiền gốc 200.000.000
đồng, do không trả được tiền vay ngày 26/01/2021 hai bên viết giấy vay mới cộng
cả gốc và lãi ghi số tiền 250.000.000 đồng, lãi suất 3%/tháng. Từ khi viết giấy vay
mới đến khi bà khởi kiện vụ án, anh T1 chị C đã thanh toán cho bà được
220.000.000 đồng, gồm: Ngày 26/8/2021 trả 70.000.000 đồng, ngày 19/4/2022
trả 100.000.000 đồng, ngày 30/3/2023 trả 50.000.000 đồng.
Quá trình giải quyết vụ án, các đương sự cùng thống nhất xác định thời
điểm vay tiền là ngày 26/3/2020. Số tiền theo chuyển khoản là 195.000.000đ.
Nguyên đơn bà T trình bày chuyển tiền mặt cho anh T1 5.000.000 đồng nhưng
không có căn cứ chứng minh, bị đơn anh T1 không thừa nhận. Do đó xác định số
tiền vay là 195.000.000 đồng. Bà T trình bày thời hạn vay 04 tháng, lãi suất
3%/tháng. Do đến 26/01/2021 anh T1, chị C không trả cả gốc và lãi nên 02 bên
thống nhất cộng lãi và gốc thành tiền là 250.000.000đ, viết thành giấy vay tiền
ngày 26/01/2021. Anh T1 trình bày là khi vay năm 2020 không thoả thuận về lãi,
cho vay không tính lãi. Tuy nhiên ngày 26/01/2021 các đương sự cùng xác định
do anh T1, chị C không trả được tiền cho bà T nên các bên cùng thồng nhất viết
Giấy vay tiền thể hiện anh T1, chị C vay bà T, chị Duyên số tiền 250.000.000
đồng, thời hạn vay 02 tháng, lãi suất 3%/ tháng. Thoả thuận được lập văn bản, các
bên cùng ký. Anh T1 đọc và hiểu rõ giấy vay này. Từ thoả thuận này đủ cơ sở xác
định thời điểm tháng 3/2020 các bên cũng thỏa thuận là lãi suất 3%/tháng. Do lãi
suất các bên thỏa thuận cao hơn mức lãi suất quy định tại khoản 1 Điều 468 Bộ
luật Dân sự năm 2015, nên Hội đồng xét xử sơ thẩm áp dụng tính lãi suất trong
hợp đồng vay này là 20%/năm, buộc anh Quan Văn T1, chị Hà Thị C có trách
nhiệm liên đới trả cho bà Lâm Thị T số tiền là 105.503.000đ
, trong đó 73.159.300 đồng là tiền vay gốc và
32.343.700 đồng là tiền lãi; chia theo phần anh Quan Văn T1 phải trả 52.751.500đ
7
( ; Chị Hà Thị
C phải trả 52.751.500đ (
.
[2.1], Xét kháng cáo của bị đơn, Hội đồng xét xử xét thấy:
Cấp sơ thẩm thụ lý, giải quyết vụ án: Xác định về số tiền gốc nguyên đơn
cho bị đơn vay, lãi suất của tiền vay, tiền lãi của số tiền vay của từng thời điểm
phía bị đơn đã thanh toán một phần tiền cho nguyên đơn; quyết định chấp nhận
một phần yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn, buộc bị đơn anh Quan Văn T1, người
có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan chị Hà Thị C có trách nhiệm liên đới trả cho bà
Lâm Thị T số tiền là 105.503.000 đồng, trong đó anh T1, chị C mỗi người có trách
nhiệm thanh toán số tiền 52.751.500 đồng (gồm cả gốc và lãi) cho nguyên đơn là
có căn cứ, phù hợp với quy định của pháp luật.
Về thời hiệu khởi kiện: Việc vay tiền đã được các bên thừa nhận và thống
nhất thời điểm xác lập giao dịch ngày 26/3/2020. Quá trình vay tiền, vào các ngày
26/8/2021, ngày 19/4/2022, ngày 30/3/2023, vợ chồng anh T1 đã chuyển tiền vào
tài khoản của bà T để trả nợ với tổng số tiền là 220.000.000đ, việc này thể hiện
anh chị đã thừa nhận và thực hiện xong một phần nghĩa vụ của mình đối với bà
T. Do đó, căn cứ điểm b khoản 1 Điều 157, Điều 429 Bộ luật Dân sự, thời hiệu
khởi kiện được tính lại từ ngày 30/3/2023 nên thời hiệu khởi kiện tranh chấp hợp
đồng vay tài sản vẫn còn, bà T có quyền khởi kiện đòi nợ gốc và lãi phát sinh.
Anh T1 cho rằng khi vay không thoả thuận lãi suất, anh đã trả 220.000.000đ
gồm 195.000.000đ gốc và 25.000.000đ là “tiền cảm ơn”, như vậy anh đã trả đủ
nợ. Tuy nhiên, lời khai này mâu thuẫn với chính giấy vay tiền ngày 26/01/2021
do vợ chồng anh T1 ký. Giấy vay tiền ngày 26/01/2021 có chữ ký của cả anh T1
và chị C, thể hiện sự cam kết chung về nghĩa vụ trả nợ, đồng thời quá trình vay,
anh chị cũng cùng trả nợ được thể hiện qua các giao dịch chuyển tiền. Toà án sơ
thẩm buộc anh T1, chị C phải liên đới trả nợ cho bà T là phù hợp Điều 27 Luật
Hôn nhân và gia đình và các Điều 463, 466 Bộ luật Dân sự. Việc chia nghĩa vụ
liên đới thành hai phần bằng nhau (mỗi người 52.751.500đ) là có căn cứ.
Tại cấp phúc thẩm, bị đơn anh Quan Văn T1 và người có quyền lợi, nghĩa
vụ liên quan chị Hà Thị C không cung cấp được tài liệu, chứng cứ mới bổ sung
cho nội dung kháng cáo; do đó không có căn cứ để chấp nhận nội dung kháng cáo
bản án của bị đơn. Vì vậy, cần giữ nguyên Bản án dân sự sơ thẩm số 57/2025/DS-
ST ngày 16/6/2025 của Tòa án nhân dân thành phố Tuyên Quang (nay là Tòa án
- Tuyên Quang), như ý kiến phát biểu của đại diện Viện kiểm
sát nhân dân tỉnh Tuyên Quang tại phiên toà phúc thẩm.
[3] Về án phí phúc thẩm: Do kháng cáo không được chấp nhận, nên bị đơn
anh Quan Văn T1 phải chịu án phí dân sự phúc thẩm nhưng được trừ vào tiền tạm
ứng án phí dân sự phúc thẩm đương sự đã nộp.
8
[4] Bản án phúc thẩm có hiệu lực pháp luật kể từ ngày tuyên án.
QUYẾT ĐỊNH:
Căn cứ khoản 1 Điều 308; Điều 148 Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2015;
Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ
quốc hội khóa 14, quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng
án phí và lệ phí Tòa án. Không chấp nhận nội dung kháng cáo bản án của bị đơn
anh Quan Văn T1, giữ nguyên Bản án dân sự sơ thẩm số 57/2025/DS-ST ngày
16/6/2025 của Tòa án nhân dân thành phố Tuyên Quang, tỉnh Tuyên Quang (nay
- Tuyên Quang) như sau:
Căn cứ: Khoản 3 Điều 26, khoản 1 Điều 35, khoản 1 Điều 39, khoản 1 Điều
147, Các Điều 207, 235, 238, 266, 271, 273 của Bộ luật Tố tụng dân sự; các Điều
357, 385, 463, 466, 468 của Bộ luật Dân sự; khoản 2 Điều 26 Nghị quyết số
326/2016/UBTVQH14 ngày 30-12-2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội về mức
thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí tòa án.
Chấp nhận một phần yêu cầu khởi kiện của bà Lâm Thị T đòi tiền do anh
Quan Văn T1 và chị Hà Thị C vay. Tuyên xử:
1. Buộc anh Quan Văn T1, chị Hà Thị C có trách nhiệm liên đới trả cho bà
Lâm Thị T số tiền là 105.503.000đ
, trong đó 73.159.300 đồng là tiền vay gốc và 32.343.700 đồng là tiền
lãi. Chia theo phần anh Quan Văn T1 phải trả 52.751.500đ (
; Chị Hà Thị C phải trả 52.751.500
đồng (.
2. Về án phí dân sự sơ thẩm:
Anh Quan Văn T1 phải chịu 2.637.500đ (
) tiền án phí dân sự sơ thẩm có giá ngạch.
Chị Hà Thị C phải chịu 2.637.500đ (
) tiền án phí dân sự sơ thẩm có giá ngạch.
Bà Lâm Thị T được miễn án phí.
3. Về án phí dân sự phúc thẩm:
9
Anh Quan Văn T1 phải chịu 300.000 đồng tiền án phí dân sự phúc thẩm,
nhưng được trừ số tiền 300.000 đồng tại Biên lai thu tạm ứng án phí, lệ phí Tòa
án số 0000399, ký hiệu BLTU/25E, lập ngày 22/8/2025 tại Phòng Thi hành án
dân sự khu vực 1 - Tuyên Quang. Anh Quan Văn T1 đã nộp đủ tiền án phí dân sự
phúc thẩm.
4. Bản án phúc thẩm có hiệu lực pháp luật kể từ ngày tuyên án, ngày
12/9/2025.
Nơi nhận:
- TAND tối cao;
- VKSND tối cao;
- VKSND tỉnh Tuyên Quang;
- TAND khu vực 1 – Tuyên Quang;
- Phòng Thi hành án dân sự khu vực 1 –
Tuyên Quang;
- Các đương sự;
- Văn phòng TA tỉnh;
- Lưu hồ sơ.
T.M HỘI ĐỒNG XÉT XỬ PHÚC THẨM
THẨM PHÁN - CHỦ TỌA PHIÊN TÒA
(đã ký)
Phúc An Hoành
Tải về
Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để tải file. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!
Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để tải file. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!
Bản án/ Quyết định cùng đối tượng
1
Ban hành: 08/12/2025
Cấp xét xử: Phúc thẩm
2
Ban hành: 03/12/2025
Cấp xét xử: Phúc thẩm
3
Ban hành: 24/11/2025
Cấp xét xử: Phúc thẩm
4
Ban hành: 18/11/2025
Cấp xét xử: Phúc thẩm
5
Ban hành: 17/11/2025
Cấp xét xử: Phúc thẩm