Bản án số 62/2025/DS-ST ngày 31/03/2025 của TAND TP. Sóc Trăng, tỉnh Sóc Trăng về tranh chấp hợp đồng vay tài sản

  • Thuộc tính
  • Nội dung
  • VB gốc
  • VB liên quan
  • Lược đồ
  • Đính chính
  • Án lệ
  • BA/QĐ cùng nội dung
  • Tải về
Tải văn bản
Báo lỗi
  • Gửi liên kết tới Email
  • Chia sẻ:
  • Chế độ xem: Sáng | Tối
  • Thay đổi cỡ chữ:
    17

Thuộc tính Bản án 62/2025/DS-ST

Tên Bản án: Bản án số 62/2025/DS-ST ngày 31/03/2025 của TAND TP. Sóc Trăng, tỉnh Sóc Trăng về tranh chấp hợp đồng vay tài sản
Quan hệ pháp luật: Tranh chấp hợp đồng vay tài sản
Cấp xét xử: Sơ thẩm
Tòa án xét xử: TAND TP. Sóc Trăng (TAND tỉnh Sóc Trăng)
Số hiệu: 62/2025/DS-ST
Loại văn bản: Bản án
Ngày ban hành: 31/03/2025
Lĩnh vực: Dân sự
Áp dụng án lệ:
Đã biết

Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để xem áp dụng án lệ. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!

Đính chính:
Đã biết

Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để xem đính chính. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!

Thông tin về vụ/việc: Tranh chấp hợp đồng vay tài sản
Tóm tắt Bản án

Nội dung tóm tắt đang được cập nhật, Quý khách vui lòng quay lại sau!

Tải văn bản

TOÀ ÁN NHÂN DÂN CỘNG HOÀ XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM
THÀNH PHỐ SÓC TRĂNG Độc lập - Tự do - Hạnh phúc
TỈNH SÓC TNG
Bản án số: 62/2025/DS-ST
Ngày: 31-3-2025
V/v tranh chấp hợp đồng vay tài sản
NHÂN DANH
NƯỚC CỘNG HOÀ XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM
TÒA ÁN NHÂN DÂN THÀNH PHỐ SÓC TRĂNG, TỈNH SÓC TRĂNG
- Thành phần Hội đồng xét xử sơ thẩm gồm có:
Thẩm phán - Chủ tọa phiên tòa: Bà Chiêm Ngọc Linh.
Các Hội thẩm nhân dân:
1/ Ông Nguyễn Phước.
2/ Bà Nguyễn Bạch Nhạn.
- Thư ký phiên tòa: Ông Lý Thành Công Thư ký Toà án nhân dân thành
phố Sóc Trăng, tỉnh Sóc Trăng.
- Đại diện Viện kiểm sát nhân dân thành phố Sóc Trăng, tỉnh Sóc
Trăng tham gia phiên tòa:Phạm Thuý Trang - Kiểm sát viên.
Trong ngày 20 31/3/2025, tại trụ sở Tòa án nhân dân thành phố Sóc
Trăng, tỉnh Sóc Trăng xét xử sơ thẩm công khai vụ án thụ lý số 181/2024/TLST-
DS ngày 14/5/2024 về việc “Tranh chấp hợp đồng vay tài sản”, theo Quyết định
đưa ván ra xét xsố 98/2025/QĐXXST-DS ngày 03/3/2025 giữa các đương
sự:
Nguyên đơn: Ông Hồ Kiếm T, sinh năm 1961 (có mặt).
Địa chỉ: Số C, đường L, Khóm B, Phường D, thành phố S, tỉnh Sóc Trăng.
* Người đại diện hợp pháp: Trần Thuý Q, sinh năm 1991. Địa chỉ:
đường C, Khu dân cư M, Khóm A, Phường T, thành phố S, tỉnh Sóc Trăng,
người đại diện theo uỷ quyền (văn bản uỷ quyền ngày 11/01/2024) (có mặt).
B đơn: Bà Lê Thị L T, sinh m 1960 (có mt).
Địa ch: SB, đường P, Khóm B, Png G, Thành ph S, tnh Sóc Tng.
NỘI DUNG VỤ ÁN:
Theo đơn khởi kiện trong quá trình giải quyết vụ án cũng như tại
phiên tòa, nguyên đơn ông Hồ Kiếm T người đại diện theo uỷ quyền của
nguyên đơn Trần Thuý Q trình bày: Ông Hồ Kiếm T quen biết với
Thị Lệ T nên vào tháng 8/2020 (không nhớ ngày) ông T cho T vay
số tiền 50.000.000 đồng để T làm vốn kinh doanh, thời hạn vay 02 tháng, lãi
suất thoả thuận 20%/năm, lúc đầu do tin tưởng bà T nên ông T không có yêu cầu
bà T làm giấy tờ, nhưng sau đó thấy không an tâm nên ngày 12/8/2020 ông T
ghi âm lại cuộc nói chuyện với bà T, nội dung cuộc ghi âm bà T thừa nhận có nợ
ông T 50.000.000 đồng. Đến hạn trả nợ bà T không trả vốn cũng không đóng lãi,
2
ông T nhiều lần đòi nợ nhưng bà T không trả. Nay ông T yêu cầu bà T trả số tiền
vốn vay 50.000.000 đồng lãi với mức lãi suất 20%/năm, từ ngày
01/11/2020 đến ngày xét xử sơ thẩm.
Tại phiên toà, ông T thay đổi yêu cầu khởi kiện, theo đó không yêu cầu bà
T trả lãi vay với lãi suất 1,66/tháng, chỉ yêu cầu T trả lãi chậm thực hiện
nghĩa vụ với mức lãi suất 10%/năm, từ ngày 01/3/2021 đến ngày 31/3/2025 đối
với số tiền gốc 50.000.000 đồng x 04 năm 30 ngày x 10%/năm = 20.410.000
đồng, tổng cộng gốc và lãi 70.410.000 đồng.
Bị đơn Thị Lệ T trình bày: T không vay số tiền 50.000.000
đồng của ông T. Đoạn ghi âm ông T cung cấp đúng là giọng nói của bà T, nhưng
nội dung cuộc nói chuyện T không thừa nhận nợ tiền ông T, là thời
điểm đó của người nhờ T đi cầm cố giấy chứng nhận quyền sử dụng đất,
ông T môi giới nên T mới nhờ ông T đi cầm giùm, ông T hỏi cầm bao
nhiêu, bà T trả lời cầm khoảng 30.000.000 đồng hay 40.000.000 đồng do lâu quá
bà T không nhớ rõ, bà T có đưa cho ông T bản phô tô giấy chứng nhận quyền sử
dụng đất, T nói “nếu cầm được thì tao khoẻ, thì tao tiền”, thì ông T nói
“nếu cầm được chị khoẻ rồi”. Nội dung đoạn ghi âm thể hiện việc trao đổi làm
ăn qua lại giữa T với ông T, chứ không phải T thừa nhận nợ ông T
50.000.000 đồng. T đề nghị Toà án không chấp nhận yêu cầu khởi kiện của
nguyên đơn.
Tại phiên tòa, Vị đại diện Viện kiểm sát nhân dân thành phố Sóc Trăng
xác định: Trong quá trình giải quyết vụ án, Thẩm phán Hội đồng xét xử đã
chấp hành đúng pháp luật tố tụng dân sự. Từ khi Tòa án thụ vụ án đến tại
phiên tòa hôm nay, đương sự chấp hành đúng quy định của Bộ luật Tố tụng dân
sự, đề nghị Tòa chấp nhận yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn.
NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN:
Sau khi nghiên cứu các tài liệu trong hồ vụ án được thẩm tra tại
phiên tòa căn cứ vào kết quả tranh luận tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận
định như sau:
* Về thủ tục tố tụng:
[1] Tại phiên toà nguyên đơn ông Hồ Kiếm T thay đổi nội dung yêu cầu
khởi kiện, không yêu cầu bị đơn trả lãi vay, chỉ yêu cầu trả lãi chậm thực hiện
nghĩa vụ. Xét thấy, việc thay đổi yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn t
nguyện, không vượt quá phạm vi yêu cầu khởi kiện ban đầuphù hợp với quy
định tại khoản 1 Điều 244 Bộ luật Tố tụng dân snên Hội đồng xét xử chấp
nhận.
* Về nội dung:
[2] Xét yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn ông Hồ Kiếm T về việc yêu cầu
Tòa án giải quyết buộc Thị Lệ T trả cho ông T số tiền vay 50.000.000
tiền lãi chậm thực hiện nghĩa vụ với lãi suất 10% năm (tương đương
0,83%/tháng), từ ngày 01/3/2021 đến ngày xét xử 31/3/2025 đối với số tiền gốc
3
50.000.000 đồng x 04 năm 30 ngày x 10%/năm 20.410.000 đồng, tổng cộng
gốc lãi 70.410.000 đồng, vì theo ông T thì vào tháng 8/2020 (không nhớ
ngày) T vay của ông T 50.000.000 đồng để làm vốn kinh doanh. Thời
hạn vay 02 tháng, lãi suất 20%/năm (tương đương 1,66%/tháng), lúc đầu do tin
tưởng T nên ông T không yêu cầu T làm giấy tờ, nhưng sau đó thấy
không an tâm nên ngày 12/8/2020 ông T có ghi âm lại cuộc nói chuyện với bà T,
nội dung cuộc ghi âm bà T thừa nhận có nợ ông T 50.000.000 đồng. Đến hạn trả
nợ T không trả vốn cũng không đóng lãi, ông T nhiều lần đòi nnhưng T
không trả nên phát sinh tranh chấp.
[3] Nhận thấy, việc ông T cho T vay tiền không làm hợp đồng hay
biên nhận. Nhưng ông T cung cấp được một USB ghi âm cuộc nói chuyện
giữa bà T với ông T T thừa nhận giọng nói trong cuộc ghi âm là của T.
Nội dung ghi âm thể hiện khi ông T hỏi “nếu vay được 200 chị trả em bao
nhiêu”, T trả lời “nếu vay được 200 chị trả 50.000.000 đồng luôn cho mầy
khoẻ”. Ông T người đại diện của ông T là bà Trần Thuý Q trình bày 200
trong đoạn ghi âm 200.000.000 đồng, T nói nếu ông T vay được
200.000.000 đồng thì bà T sẽ trả cho ông T 50.000.000 đồng, đã chứng minh
cho việc bà T thừa nhận tại thời điểm ghi âm bà Tnợ ông T 50.000.000 đồng.
Xét thấy, đoạn ghi âm trên tài liệu nghe được, chứng cứ theo quy định tại
khoản 1 Điều 94 Bộ luật Tố tụng dân sự và bà T cũng thừa nhận giọng nói trong
đoạn ghi âm của T nên Hội đồng xét xử xác định T nợ ông Tháp
50.000.000 đồng. Việc vay tiền xác lập giữa hai bên là tự nguyện, các bên tham
gia giao dịch đủ năng lực hành vi, nội dung mục đích vay phù hợp với quy
định tại Điều 463, 466, 468 của Bộ luật Dân sự. Trong qtrình thực hiện hợp
đồng vay, T vi phạm nghĩa vụ trả vốn vay đã gây thiệt hại cho quyền, lợi ích
hợp pháp của ông T, nên vic ông T u cầu bà T tr số tin gc u trên là
sở, Hội đồng xét xử chấp nhận. Đối với vic bà T cho rằng nội dung đoạn
ghi âm thể hiện việc trao đổi làm ăn qua lại giữa bà T với ông T, chứ không phải
T thừa nhận nợ ông T 50.000.000 đồng là không căn cứ, nên không
được chấp nhận.
[4] Đối với u cầu trả lãi vay, ông T trình y lãi sut hai bên thoả
thuận bằng lời i 20%/năm. Khi vay tiền đến nay bà T chưa đóng lãi,
nhưng đon ghi âm không có ni dung thể hin việc bà T ntiền ông T lãi,
tại phiên toà ông T kng u cầu bà T trả lãi vay vi i suất 20%/năm, chỉ
u cầu T trã i chm thc hiện nga v với lãi suất 10%/m, tngày
01/3/2021 đến ngày xét xử 31/3/2025 đối với stiền gốc 50.000.000 đồng x 04
năm 30 ngày x 10%/năm = 20.410.000 đồng. Ông T trình bày đoạn ghi âm trên
được ghi âm vào ngày tháng 12/8/2020 thời hạn ông T cho T vay 02
tháng, không xác định ngày nào. Căn cứ vào quy định tại Điều 148 Bộ luật Dân
sự, nếu tháng kết thúc thời hạn không ngày tương ứng thì thời hạn được xác
định vào ngày nào cuối cùng của tháng, như vậy trường hợp trên thời hạn vay 02
tháng, thì ngày trả nợ xác định ngày 31/10/2020 T phải nghĩa vụ thanh
toán, nhưng bà T không thực hiện nghĩa vụ trả nợ, do đó từ ngày 01/11/2020 đến
nay T trách nhiệm trả cho ông T số tiền lãi chậm thực hiện nghĩa vụ theo
4
quy định tại Điều 357, khoản 2 Điều 468 Bộ luật Dân svới lãi suất 10%/năm.
Tuy nhiên tại phiên toà ông T chỉ yêu cầu bà T trả lãi chậm thực hiện nghĩa vụ
từ ngày 01/3/2021 đến ngày xét xử 31/3/2025, đối với số tiền gốc 50.000.000
đồng x 04 năm 30 ngày x 10%/năm = 20.410.000 đồng lợi cho bà T nên
Hội đồng xét xử chấp nhận. Như vy bà T trách nhim trả vốn và lãi cho
ông T với s tiền tổng cộng 70.410.000 đồng.
[5] Từ những căn cứ nêu trên, xét yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn và đề
nghị của Vị đại diện Viện kiểm sát nhân dân thành phố Sóc Trăng căn cứ
nên Hội đồng xét xử chấp nhận.
[6] Về án phí dân sự thẩm: Căn cứ điểm đ khoản 1 Điều 12, khoản 2
Điều 26 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban
thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản s
dụng án phí lệ phí Tòa án T phải chịu 3.520.500 đồng, nhưng do bà T
người cao tuổi nên được miễn án phí sơ thẩm.
Vì các lẽ trên,
QUYẾT ĐỊNH:
Căn cứ khoản 3 Điều 26, điểm a khoản 1 Điều 35, khoản 1 Điều 94,
khoản 1 Điều 244, Điều 271, khoản 1 Điều 273, khoản 1 Điều 280, Bộ luật Tố
tụng Dân snăm 2015; Điều 148, Điều 463, Điều 466, Điều 468 Bộ luật Dân
sự; Điểm đ khoản 1 Điều 12, khoản 2 Điều 26 Nghị quyết số
326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội quy
định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản và sử dụng án plphí Tòa
án.
Tuyên xử:
1/ Chấp nhận yêu cầu khởi kiện của ông Hồ Kiếm T.
Buộc Thị Lệ T trả cho ông Hồ Kiếm T số tiền vốn vay 50.000.000
đồng lãi chậm thực hiện nghĩa vụ 20.410.000 đồng, tổng cộng 70.410.000
đồng (Bảy mươi triệu bốn trăm mưi nghìn đồng).
Khi bản án hiệu lực pháp luật, kể từ ngày ông Hồ Kiếm T đơn yêu
cầu thi hành án, nếu Thị Lệ T không trả stiền trên, tThị Lệ T
còn phải chịu khoản tiền lãi của số tiền còn phải thi hành án, theo mức lãi suất
quy định tại khoản 2 Điều 468 của Bộ luật Dân sự.
2/ Về án phí dân sự sơ thẩm: Bà Lê Thị Lệ T phải chịu 3.520.500 đồng án
phí thẩm. Nhưng do Thị Lệ T người cao tuổi nên được miễn án p
sơ thẩm đối với số tiền 3.520.500 đồng.
Ông Hồ Kiếm T không phải chịu án phí sơ thẩm.
3/ Về quyền kháng cáo: Đương sự quyền kháng cáo trong hạn 15 ngày
kể từ ngày tuyên án, để yêu cầu Tòa án cấp trên xét xử lại theo thủ tục phúc
thẩm.
5
Trường hợp bản án được thi hành theo quy định tại Điều 2 của Luật thi
hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự
quyền thỏa thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành
án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các điều 6, 7 và 9 của Luật
thi hành án dân sự; thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều
30 Luật thi hành án dân sự.
Nơi nhận:
- TAND tỉnh ST (Phòng TT, KT &THA)
- Đương sự;
- VKSND TPST;
- Lưu HS.
TM. HỘI ĐỒNG XÉT XỬ SƠ THẨM
THẨM PHÁN - CHỦ TỌA PHIÊN TÒA
(Đã ký)
Chiêm Ngọc Linh
Tải về
Bản án số 62/2025/DS-ST Bản án số 62/2025/DS-ST

Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để tải file. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!

Bản án số 62/2025/DS-ST Bản án số 62/2025/DS-ST

Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để tải file. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!

Bản án/ Quyết định cùng đối tượng

Bản án cùng lĩnh vực

Bản án mới nhất