Bản án số 61/2024/DS-ST ngày 27/09/2024 của TAND huyện Đắk Song, tỉnh Đắk Nông về tranh chấp quyền sử dụng đất

  • Thuộc tính
  • Nội dung
  • VB gốc
  • VB liên quan
  • Lược đồ
  • Đính chính
  • Án lệ
  • BA/QĐ cùng nội dung
  • Tải về
Tải văn bản
Báo lỗi
  • Gửi liên kết tới Email
  • Chia sẻ:
  • Chế độ xem: Sáng | Tối
  • Thay đổi cỡ chữ:
    17

Thuộc tính Bản án 61/2024/DS-ST

Tên Bản án: Bản án số 61/2024/DS-ST ngày 27/09/2024 của TAND huyện Đắk Song, tỉnh Đắk Nông về tranh chấp quyền sử dụng đất
Quan hệ pháp luật: Tranh chấp quyền sử dụng đất
Cấp xét xử: Sơ thẩm
Tòa án xét xử: TAND huyện Đắk Song (TAND tỉnh Đắk Nông)
Số hiệu: 61/2024/DS-ST
Loại văn bản: Bản án
Ngày ban hành: 27/09/2024
Lĩnh vực: Dân sự
Áp dụng án lệ:
Đã biết

Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để xem áp dụng án lệ. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!

Đính chính:
Đã biết

Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để xem đính chính. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!

Thông tin về vụ/việc: bác
Tóm tắt Bản án

Nội dung tóm tắt đang được cập nhật, Quý khách vui lòng quay lại sau!

Tải văn bản

1
TÒA ÁN NHÂN DÂN
HUYỆN ĐẮK SONG
TỈNH ĐẮK NÔNG
Bản án số: 61/2024/DSST
Ngày: 27/9/2024
“V/v Tranh chấp lối đi
chung”
CỘNG HÒA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM
Độc lập – Tự do – Hạnh phúc
NHÂN DANH
NƯỚC CỘNG HÒA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM
TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN ĐẮK SONG, TỈNH ĐẮK NÔNG
- Thành phần Hội đồng xét xử sơ thẩm gồm có:
Thẩm phán - Chủ tọa phiên tòa: Ông Trần Đình Minh.
Các Hội thẩm nhân dân: Ông Nguyễn Bá Tuyên bà Võ Thị Thanh Huệ.
- Thư ký phiên tòa: Bà Hà Thị Thúy Nga - Thư ký Tòa án.
- Đại diện Viện kiểm sát nhân dân huyện Đắk Song tham gia phiên toà:
Ông Tống Mạnh Cường - Kiểm sát viên.
Ngày 27 tháng 9 năm 2024 tại Phòng xử án Tòa án nhân dân huyện Đắk
Song xét xử sơ thẩm công khai
theo thủ tục thông thường vụ án dân sự thụ lý số:
36/2024/TLST-DS ngày 04 tháng 3 năm 2024 về việc “Tranh chấp lối đi chung”
theo quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 72/2024/QĐXXST-DS ngày 12 tháng 8
năm 2024 Quyết định tạm ngừng phiên tòa số: 21/2024/QĐST DS, ngày
10/9/2024 của Tòa án nhân dân huyện Đắk Song giữa các đương sự:
- Nguyên đơn:
1. Bà Trần Thị H, sinh năm: 1962; Địa chỉ: Tổ D, Ấp G, xã B, huyện L, tỉnh
Đồng Nai Có mặt.
2. Ông Trần Văn H1, sinh năm: 1992; Địa chỉ: Tổ D, Ấp G, xã B, huyện L,
tỉnh Đồng Nai Vắng mặt.
Người đại diện theo ủy quyền của ông Trần Văn H1: Trần Thị H, sinh
năm: 1962; Địa chỉ: Tổ D, Ấp G, xã B, huyện L, tỉnh Đồng Nai Có mặt.
- Bị đơn: Ông Nguyễn Tiến D, sinh năm 1971 (có mặt) và bà Hoàng Thị C,
sinh năm 1973 (có đơn xét xử vắng mặt); Địa chỉ: Thôn Đ, Đ, huyện Đ, tỉnh
Đắk Nông.
- Người quyền lợi nghĩa vụ liên quan; Người phiên dịch cho H:
Ông Trần Văn T, sinh năm 1959; Địa chỉ: Tổ D, Ấp G, xã B, huyện L, tỉnh Đồng
Nai Có mặt.
- Người làm chứng: Ông Hoàng Đình T1Phan Thị H2; Địa chỉ: Thôn
Đ, xã Đ, huyện Đ, tỉnh Đắk Nông - có đơn xét xử vắng mặt.
NỘI DUNG VỤ ÁN:
- Trong đơn khởi kiện đề ngày 31/01/2024, B tự khai lời khai có trong
hồ sơ, nguyên đơn trình bày: Vào năm 2021 nguyên đơn có mua thửa đất của vợ
2
chồng ông Hoàng Đình T1, bà Phan Thị H2, đất mua thuc thửa đất số 19, tờ bản
đồ số 150, địa chỉ đất tại thôn Đ, xã Đ, huyện Đ, tỉnh Đắk Nông. Sau khi thanh
toán tiền thì nguyên đơn nhận đất để canh tác, vào năm 2022 thì nguyên đơn được
cấp Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất số DB 128096 do Sở Tài nguyên và Môi
trường tỉnh Đ cấp ngày 15/3/2022 mang tên Trần Thị H, Trần Văn H1. Nguyên
đơn canh tác ổn định không tranh chấp với ai. Đến khoảng tháng 4 năm 2022
nguyên đơn phát hiện vợ chồng ông D, C đã lấn chiếm 232 m
2
diện tích đất
trên của nguyên đơn, cụ thể lấn chiếm chiều ngang 4m, chiều dài 58m, đồng thời
ông D đã dùng xe máy múc đất nơi lấn chiếm. Nguyên đơn đã có đơn lên UBND
Đ đnghị giải quyết tranh chấp đất nhưng buổi hòa giải không thành. Nay
nguyên đơn khởi kiện yêu cầu Tòa án nhân dân huyện Đắk Song giải quyết buộc
ông D, bà C phải trả lại cho nguyên đơn diện tích đất lấn chiếm là 232 m
2
(Chiều
ngang 4m, chiều dài 58m), thuộc thửa đất s19, Tbản đồ số 150, Giấy chứng
nhận quyền sdụng đất số DB 128096 do Sở Tài nguyên Môi trường tỉnh Đ
cấp ngày 15/3/2022.
Ngày 16/7/2024 nguyên đơn có đơn đính chính và bổ sung thêm vào hồ sơ
xin thay đổi nội dung khởi kiện như sau: Yêu cầu Tòa án nhân dân huyện Đắk
Song giải quyết tuyên trên đất không có đường đi chung.
Trong quá trình giải quyết vụ án thì ngày 17/7/2024 Tòa án tiến hành lập
biên bản làm việc về việc thống nhất theo kết quả đo đạc thì nguyên đơn không
đồng ý kết quả đo đạc Chi nhánh Văn phòng đăng đất đai huyện Đ cung
cấp cho Tòa án ngày 09/7/2024, vì ông D đưa máy múc chôn ống nên tạo thành
đường đi, thời điểm nguyên đơn mua không có đường đi, nay ông D cho rằng có
đường đi, yêu cầu ông D chứng minh về việc có đường đi và ông D tự đi mà khởi
kiện, nguyên đơn xin thay đổi nội dung khởi kiện, không yêu cầu ông D trả diện
tích đất lấn chiếm 232 m
2
như đơn khởi kiện, nay yêu cầu Tòa án giải quyết
tuyên trên đất không đường đi chung, hiện trạng đất mua của ông T1 như thế
nào ty nguyên như vậy, chỉ có suối cạn và ao h, không có đường đi. Theo hợp
đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất số 19, tbản đồ số 150 liền kề mương
suối hành lang bảo vệ, nguyên đơn quyền sử dụng trách nhiệm bảo
quản, ông D không có quyền làm trên diện tích mương suối nói trên, lý do ông D
không có rẫy kề cạnh mương suối trên thực địa hiện nay.
Căn cứ vào biên bản làm việc ngày 17/7/2024 Đơn đính chính bổ
sung thêm vào hồ ngày 16/7/2024 của nguyên đơn, Tòa án đã ra thông báo thay
đổi nội dung yêu cầu khởi kiện số: 02/2024/TB TA, ngày 31/7/2024 về việc giải
quyết “Tranh chấp lối đi chung” thành giải quyết tuyên trên đất không có đường
đi chung.
Tại biên bản hòa giải ngày 17/7/2024 nguyên đơn vẫn giữ nguyên quan
điểm về việc yêu cầu Tòa án tuyên trên đất không có đường đi chung, hiện trạng
đất nguyên đơn mua của ông T1 như thế nào thì y nguyên như vậy, chỉ suối
cạn và ao hồ, không có đường đi chung. Theo hợp đồng chuyển nhượng quyền sử
dụng đất thửa đất s19, tờ bản đồ số 150 liền kề mương suối là hành lang bảo vệ,
nguyên đơn quyền sử dụng trách nhiệm bảo quản, bđơn không quyền
3
làm trên diện tích mương suối nói trên, lý do bị đơn không có rẫy kề cạnh mương
suối trên thực địa hiện nay. Nếu bị đơn cho rằng đường đi thì phải làm đơn
khởi kiện hoặc cung cấp chứng cứ chứng minh đường đi, yêu cầu chấm dứt
các hành vi cản trở bị đơn làm trên đất của nguyên đơn.
- Trong qtrình giải quyết vụ án và tại phiên tòa bị đơn ông Nguyễn Tiến
D trình bày: Vào khoảng năm 1999 bị đơn nhận chuyển nhượng của người dân
đồng bào địa phương một thửa đất có diện tích khoảng 6ha tọa lạc tại thôn Đ, xã
Đ, huyện Đ, tỉnh Đắk Nông. Sau khi nhận chuyển nhượng gia đình bị đơn tiến
hành trồng trọt canh tác đất ổn định không tranh chấp với ai. Năm 2001 để thuận
lợi cho việc tưới tiêu và chăm sóc cây trồng gia đình bđơn mở một con đường
kéo thẳng từ đường đi chính xuống hồ giáp suối để tiện canh tác phần diện tích
đường đi chiều ngang 4m chiều dài khoảng 280m, sau khi mở con đường
gia đình bị đơn chuyển nhượng một phần diện tích khoảng 1,5ha cho một người
khác qua một khoảng thời gian thửa đất trên được chuyển nhượng qua nhiều chủ
khác nhau nhưng các bên đều sử dụng con đường đi chung mà trước đó gia đình
bị đơn đã mở không ai tranh chấp với ai, gần đây gia đình bà H và ông H1 là gia
đình đã mua lại phần diện tích giáp ranh với phần diện tích đất của gia đình bị đơn
(phần diện tích trên trước đó gia đình bị đơn đã chuyển nhượng cho người khác
vào năm 2001) theo như bị đơn tìm hiểu và được biết mẹ con bà H, ông H1 nhận
chuyển nhượng phần đất nêu trên gia đình bà ấy cho rằng diện tích đường đi giáp
ranh giữa phần đất hai nhà là phần đất của gia đình ấy, gia đình bà ấy nhiều lần
không cho gia đình bị đơn sử dụng con đường đi chung đó nữa. Trên thực tế diện
tích đường đi trên do gia đình bị đơn mở vào thời điểm năm 2001 sau đó gia đình
bị đơn mới thực hiện việc chuyển nhượng cho người khác, gia đình bị đơn sử dụng
canh tác ổn định không tranh chấp với ai cho tới thời điểm gia đình H, ông H1
vào mua phần đất liền kề. Nên bị đơn yêu cầu Tòa án công nhận phần diện tích
chiều ngang 4m chiều dài 57m, đất tứ cận phía Đông giáp đường, phía Tây
giáp suối, phía Nam giáp đất của bị đơn, phía Bắc giáp đất H ông H1 diện
tích đường đi chung giữa hai gia đình đồng thời yêu cầu gia đình H, ông H1
dừng việc ngăn cản gia đình bị đơn sử dụng phần diện tích chung nêu trên.
Qua yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn ông D không đồng ý vì ông không
lấn chiếm đất của H, ông H1 đối với diện tích đất 232 m
2
, diện tích đất này
nằm trong lòng suối đã được sử dụng làm đường đi để tưới nước phê. Tại
biên bản làm việc biên bản hòa giải cùng ngày 17/7/2024 bị đơn đồng ý với
kết quả đo đạc mà Chi nhánh Văn phòng đăng đất đai huyện cung cấp cho Tòa
án ngày 09/7/2024. Bị đơn giữ nguyên yêu cầu đo đạc và sẽ cung cấp chứng cứ
chứng minh việc đường đi chung, bị đơn sẽ đơn yêu cầu Tòa án triệu tập
những người làm chứng gửi sau cho Tòa án triệu tập lên làm việc cung cấp
chứng cứ sau cho Tòa án.
- Trong quá trình giải quyết vụ án người quyền lợi nghĩa vụ liên quan
ông Trần Văn T trình bày:
Tại biên bản lấy lời khai biên bản hòa giải cùng ngày 17/7/2024 ông T
trình bày như sau: Đối với việc mua bán đất giữa H, ông H1 và ông T1, bà H2
4
thì ông T không biết, không có tham gia vào việc mua bán đất. Tiền mua bán đất
thì ông T không chung vào với H để mua đất. Đối với yêu cầu khởi kiện của
nguyên đơn tông thống nhất quan điểm, không có yêu cầu độc lập và không
ý kiến gì khác.
- Trong quá trình giải quyết vụ án người làm chứng ông Hoàng Đình T1
trình bày:
Tại biên bản lấy lời khai ngày 11/9/2024 ông T1 trình bày: Ông T1 bán đất
cho H thì bán theo giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, các bên không ra ngoài
đất bàn giao thực địa. H mua đất của ông D trước, sau khi mua đất các bên
gồm ông T1, bà H và ông D thống nhất chỉ giáp ranh giữa đất ông D (đã bán cho
bà H) và ông T1 xác định giáp ranh từ trên xuống dưới giữa hai bên rẫy, một bên
của ông D (đã bán cho H), một bên của ông T1 lấy hàng mít muồng
làm mốc ranh, sau này ông T1 bán đất cho H thì không chỉ mốc ranh nữa,
trước đó đã thống nhất mốc ranh. Trong hợp đồng sang nhượng đất rẫy ngày
25/12/2021 ghi rõ tài sản gắn liền trên đất như sau: cà phê trồng sen tiêu
sầu riêng, có nhà cấp 4 thưng gỗ lập tôn, gắn liền với rẫy có hồ nước múc ở suối,
dụng cụ sản xuất 01 máy nổ và dây ống cái chôn từ suối lên tới nhà, xung quanh
nhà, sân, giếng nước và bồn nước nóng. Thực tế thì ông T1 không nhớ cụ thbao
nhiêu cây cà phê chỉ nhớ trồng năm 2008, cây tiêu lúc đầu khoảng 1000 cây trồng
nhiều đợt không nhớ cụ thể năm trồng, sau chết trồng sen dây năm 2019 vào
phê, sầu riêng trồng năm 2019 khoảng 50 cây, sau chết bao nhiêu ông T1 không
biết. Trong hợp đồng chuyển nhượng thể hiện hàng ranh hàng mít Rào
B40 cọc tông. Khi bàn giao đất theo giấy chứng nhận quyền sử dụng đất thì
không con đường nào đường đi chung hiện nay đang tranh chấp giữa bà H
với ông D. Thực trạng khi bán đất cho bà H con đường đi chung, do ông D làm
năm 2001 hay năm nào ông T1 không nhớ chính xác, vì 2007 ông T1 mới vào đi
làm cho ông D thấy đất đó đã con đường đi. Trước khi bán đất cho H, thì
con đường đi chung của ông D mở ra, trước khi bán cho H tđường đó gồm
ông D, ông T1 xung quanh gồm ông Đặng Quang T2 (nay đã bán cho người
khác không biết ai), ông Nguyễn Văn C1 (nay đã bán cho người khác không
biết là ai), ông T1 và ông D sử dụng con đường đó đi lại để xuống dưới sình kéo
ống tưới nước, bón phân chở phê, tiêu, còn ông T2 chôn ống kéo ống
tưới nước cho cây đi lại, ông C1 chỉ đi lại ngoài ra không làm việc khác.
Hiện nay không có con đường đi chung là do bà H san lấp mất con đường, san lấp
lúc nào ông T1 không biết, chỉ đứng bên rẫy bên kia nhìn qua thấy H lấp mất
con đường. Đối với yêu cầu khởi kiện của H thì ông T1 không yêu cầu
khác, vì ông T1 đã bán đất đã bàn giao đất và sang tên giấy chứng nhận quyền sử
dụng đất cho bà H, còn con đường đi chung khi bán đất cho bà H là có do ông D
làm, sau này H đã san lấp mất con đường đi, còn việc các bên tranh chấp thế
nào thì không liên quan tới ông T1 ông cũng không làm con đường đó không
dùng con đường đó để đi lại, nên yêu cầu Tòa án xét xử theo quy định của pháp
luật.
5
- Đại diện Viện kiểm sát nhân dân huyện Đắk Song kiểm sát việc tuân
theo pháp lut trong tố tụng dân sự và về nội dung vụ án pt biểu như sau:
Về tố tụng: Kiểm sát viên, Viện kiểm sát nhân dân huyện Đắk Song tại
phiên tòa phát biểu ý kiến về việc tuân theo pháp luật t tụng trong quá trình giải
quyết vụ án của Thẩm phán, Hội đồng xét xử; việc chấp hành pháp luật của những
người tham gia tố tụng, kể từ khi thụ lý vụ án cho đến trước thời điểm Hội đồng
xét xử nghị án đều tuân thủ đúng trình tự, thủ tục theo quy định của Bộ luật T
tụng dân sự.
Phát biểu ý kiến về nội dung vụ án: Từ những chứng cứ và phân tích tại phiên
tòa, đề nghị Hội đồng xét xử căn cứ khoản 9 Điều 26, điểm a khoản 1 Điều 35,
điểm c khoản 1 Điều 39, khoản 4 Điều 91, khoản 1 Điều 147, khoản 1 Điều 157,
khoản 1 Điều 162, điểm b khoản 2 Điều 227, Điều 228, Điều 238 Điều 273 của
Bộ luật Tố tụng dân sự; Căn cứ vào Điều 254 của Bộ luật Dân sự; Nghị quyết số
326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 quy định về án phí và lệ phí Tòa án.
Đề nghị Hội đồng xét xử không chấp nhận yêu cầu khởi kiện về Tranh chấp
lối đi chung” giữa bà Trần Thị H, ông Trần Văn H1 với ông Nguyễn Tiến D,
Hoàng Thị C yêu cầu trả 232 m
2
đã lấn chiếm.
NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN:
Qua nghiên cứu các tài liệu, chứng cứ có trong hồ sơ vụ án việc thẩm tra
tại phiên tòa ngày hôm nay, Hội đồng xét xử nhận định:
[1]. Về thủ tục t tụng:
- Về quan hệ tranh chấp: Căn cứ yêu cầu khởi kiện ca nguyên đơn và các
tài liệu, chứng cứ thu thập trong hồ ván. Hội đồng xét xử xác định quan
hệ pháp luật đang có tranh chấp yêu cầu Tòa án giải quyết “Tranh chấp lối đi
chung” quy định tại khoản 9 Điều 26, Điều 34 ca Bộ luật Tố tụng dân sự.
- Về thẩm quyền giải quyết: Bị đơn ông Nguyễn Tiến D và bà Hoàng Thị C
địa chỉ tại: Thôn Đ, Đ, huyện Đ, tỉnh Đắk Nông. Nên Tòa án nhân dân huyện
Đắk Song, tỉnh Đắk Nông thụ giải quyết đúng theo quy định tại điểm a
khoản 1 Điều 35 và điểm a khoản 1 Điều 39 của Bộ luật Ttụng dân sự.
- Về sự vắng mặt của đương sự: Hoàng Thị C là bị đơn trong vụ án
đơn xin xét xử vắng mặt; Ông Trần Văn T là người có quyền lợi và nghĩa vụ liên
quan vắng mặt tại phiên toà nhưng có đơn yêu cầu xét xử vắng mặt. Căn cứ điểm
b khoản 2 Điều 227, khoản 1 khoản 2 Điều 228 của Bộ luật Ttụng dân sự, Hội
đồng xét xử vẫn tiến hành xét xử v án theo quy định của pháp luật.
[2]. Về nội dung ván: Vào năm 2021 nguyên đơn có mua thửa đất của vợ
chồng ông Hoàng Đình T1, bà Phan Thị H2, đất mua thuc thửa đất số 19, tờ bản
đồ số 150, địa chỉ đất tại thôn Đ, xã Đ, huyện Đ, tỉnh Đắk Nông. Sau khi thanh
toán tiền thì nguyên đơn nhận đất để canh tác, vào năm 2022 thì nguyên đơn được
cấp Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất số DB 128096 do Sở Tài nguyên và Môi
trường tỉnh Đ cấp ngày 15/3/2022 mang tên Trần Thị H, Trần Văn H1. Nguyên
đơn canh tác ổn định không tranh chấp với ai. Cho đến khoảng tháng 4 năm 2022
nguyên đơn phát hiện vchồng ông D, C đã lấn chiếm 232m2 diện tích đất
6
trên của nguyên đơn, cụ thể lấn chiếm chiều ngang 4m, chiều dài 58m, đồng thời
ông D đã dùng xe máy múc đất nơi lấn chiếm. Nguyên đơn đã có đơn lên UBND
Đ đnghị giải quyết tranh chấp đất nhưng buổi hòa giải không thành. Nay
nguyên đơn khởi kiện yêu cầu Tòa án nhân dân huyện Đắk Song giải quyết buộc
ông D, bà C phải trả lại cho nguyên đơn diện tích đất lấn chiếm là 232m2 (Chiều
ngang 4m, chiều dài 58m), thuộc thửa đất s19, tờ bản đồ số 150, Giấy chứng
nhận quyền sdụng đất số DB 128096 do Sở Tài nguyên Môi trường tỉnh Đ
cấp ngày 15/3/2022.
Ngày 16/7/2024 nguyên đơn có đơn đính chính và bổ sung thêm vào hồ sơ
xin thay đổi nội dung khởi kiện như sau: Yêu cầu Tòa án nhân dân huyện Đắk
Song giải quyết tuyên trên đất không có đường đi chung.
[3]. Xét về yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn bà H ông H1, Hội đồng
xét xử nhận định: Các tài liệu, chứng cứ được thu thập có trong hồ vụ án xác
định thửa đất số 19, tờ bản đồ số 150, diện tích 15.826m2, Giấy chứng nhận quyền
sử dụng đất số BG 937347 mang tên Hoàng Đình T1 Phan Thị H2, nay đã được
cấp lại cho Trần Thị H theo Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất số DB 128096,
do Sở Tài nguyên và Môi trường tỉnh Đ cấp ngày 15/3/2022 thì tại biên bản làm
việc với địa chính xã Đ ngày 19/9/2024 nội dung xác định bản đồ địa chính hiện
trạng thửa đất trên không con đường nào là con đường đi chung nằm phía dưới
thửa đất trên giáp suối cạn và mương nước cũng không có con đường nào khác
đi qua thửa đất trên là con đường đi chung, có kèm theo bản đồ địa chính đối với
thửa đất trên và các thửa đất liền kề. Phù hợp với lời khai của ông T1 và kết quả
đo đạc thì diện tích đất 232 m
2
nguyên đơn tranh chấp không nằm trong Giấy
chứng nhận ca nguyên đơn, đất thuộc lòng suối nên yêu cầu khởi kiện của nguyên
đơn là không có căn cứ để chấp nhận.
[4]. Đối với ý kiến của ông D yêu cầu Tòa án công nhận phần diện tích
chiều ngang 4m chiều dài 57m, đất tứ cận phía Đông giáp đường, phía Tây
giáp suối, phía Nam giáp đất của bị đơn, phía Bắc giáp đất H ông H1 diện
tích đường đi chung giữa hai gia đình đồng thời yêu cầu gia đình H, ông H1
dừng việc ngăn cản gia đình bị đơn sdụng phần diện tích chung nêu trên. Tuy
nhiên đối với vụ án này bị đơn không có đơn phản tố, bị đơn lại có đơn khởi kiện
H và ông H1 trong một vụ án khác để tranh chấp lối đi chung nên không xem
xét giải quyết.
[5]. Xét đề nghị của đại diện Viện kiểm sát nhân dân huyện Đắk Song tại
phiên tòa là có căn cứ cần chấp nhận.
[6]. Từ những phân tích và nhận định trên có đủ cơ sở để kết luận: Yêu cầu
khởi kiện của Trần Thị H, ông Trần Văn H1 đối với ông Nguyễn Tiến D,
Hoàng Thị C không căn cứ nên đề nghị Hội đồng xét xử không chấp nhận
yêu cầu khởi kiện “Tranh chấp lối đi chung” của Trần Thị H, ông Trần Văn
H1 đối với ông Nguyễn Tiến D, bà Hoàng Thị C.
[7]. Về chi phí tố tụng: Xem xét thẩm định tại chỗ, đo đạc lồng ghép đất:
Trần Thị H đã nộp tạm ứng số tiền 10.000.000 đồng. Tổng chi hết số tiền
7.000.000 đồng, số tiền còn thừa3.000.000 đồng. Do yêu cầu khởi kiện ca
7
Trần Thị H ông Trần Văn H1 không được chấp nhận nên H, ông H1 phải
chịu toàn bộ chi phí xem xét thẩm định tại chỗ, đo đạc lồng ghép đất theo quy
định tại các Điều 157, 158 của Bộ luật T tụng dân sự. Số tiền còn thừa
3.000.000 đồng đã hoàn trả lại cho H.
[8]. Về án phí: Đối với tranh chấp giữa H, ông H1 với ông Nguyễn Tiến
D, bà Hoàng Thị C là tranh chấp lối đi chung không có giá ngạch và do yêu cầu
khởi kiện H, ông H1 không được chấp nhận nên H, ông H1 phải chịu
300.000 đồng tiền án phí dân sự thẩm, số tiền này được khấu trừ vào số tiền
300.000 đồng đã nộp theo Biên lai số 0004027 ngày 26/02/2024 tại Chi Cc Thi
hành án Dân sự huyện Đắk Song, tỉnh Đắk Nông.
Vì các lẽ trên,
QUYẾT ĐỊNH:
Căn cứ khoản 9 Điều 26, điểm a khoản 1 Điều 35, điểm c khoản 1 Điều 39,
khoản 4 Điều 91, khoản 1 Điều 147, khoản 1 Điều 157, khoản 1 Điều 162, điểm
b khoản 2 Điều 227, Điều 228, Điều 238 Điều 273 của Bộ luật Tố tụng dân sự;
Áp dụng Điều 254 của Bộ luật Dân sự; Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày
30.12.2016 quy định về án phí và lệ phí Tòa án. Tuyên xử:
1. Không chấp nhận yêu cầu khởi kiện của bà Trần Thị H, ông Trần Văn
H1 đối với ông Nguyễn Tiến D, bà Hoàng Thị C yêu cầu trả diện tích đã lấn chiếm
232 m
2
(theo mảnh trích đo ngày 07/9/2024 của văn phòng đăng ký đất đai huyện
Đ).
2. Về chi phí tố tụng: Do yêu cầu khởi kiện của bà Trần Thị H và ông Trần
Văn H1 không được chấp nhận nên H, ông H1 phải chịu toàn bộ chi phí xem
xét thẩm định tại chỗ, đo đạc lồng ghép đất theo quy định tại các Điều 157, 158
của Bộ luật T tụng dân sự. Số tiền còn thừa 3.000.000 đồng đã hoàn trả lại cho
bà H.
3. Về án phí: Trần Thị H, ông Trần Văn H1 phải nộp án phí dân sự
thẩm 300.000 đồng (Ba trăm nghìn đồng) tiền án phí dân sự thẩm. Số tin
này được khấu trừ vào số tiền 300.000 đồng đã nộp theo biên lai s0004027 ngày
26/02/2024 tại Chi Cục Thi hành án Dân sự huyện Đắk Song, tỉnh Đắk Nông.
4. Về quyền kháng cáo: Nguyên đơn, bị đơn Người quyền lợi và nghĩa
vụ liên quan có quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên
án. Nguyên đơn, bị đơn và Người có quyền lợi và nghĩa vụ liên quan vắng mặt tại
phiên toà quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 ngày kể tngày nhận được
bản án hoặc niêm yết bản án theo quy định của pháp luật.
“Trường hợp quyết định được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật Thi
hành án dân sự tngười được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự
quyền thỏa thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành
án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại c Điều 6, 7 9 Luật Thi
hành án dân sự; thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30
Luật Thi hành án dân sự”.
8
Nơi nhận:
- TAND tỉnh Đắk Nông;
- VKSND huyện Đắk Song (02 bản);
- CCTHDS huyện Đắk Song;
- Các đương sự;
- Lưu hồ sơ.
TM. HỘI ĐỒNG XÉT XỬ SƠ THẨM
Thẩm phán - Chủ tọa phiên tòa
(Đã ký)
TRẦN ĐÌNH MINH
Tải về
Bản án số 61/2024/DS-ST Bản án số 61/2024/DS-ST

Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để tải file. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!

Bản án số 61/2024/DS-ST Bản án số 61/2024/DS-ST

Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để tải file. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!

Bản án/ Quyết định cùng đối tượng

Bản án cùng lĩnh vực

Bản án mới nhất