Bản án số 60/2023/HS-ST ngày 05/09/2023 của TAND huyện Yên Sơn, tỉnh Tuyên Quang về tội chống người thi hành công vụ
- Thuộc tính
- Nội dung
- VB gốc
- VB liên quan
- Lược đồ
- Đính chính
- Án lệ
- BA/QĐ cùng tội danh
- Tải về
-
Bản án số 60/2023/HS-ST
Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để tải file. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!
Thuộc tính Bản án 60/2023/HS-ST
Tên Bản án: | Bản án số 60/2023/HS-ST ngày 05/09/2023 của TAND huyện Yên Sơn, tỉnh Tuyên Quang về tội chống người thi hành công vụ |
---|---|
Tội danh: | 257.Tội chống người thi hành công vụ (Bộ luật hình sự năm 1999) |
Cấp xét xử: | Sơ thẩm |
Tòa án xét xử: | TAND huyện Yên Sơn (TAND tỉnh Tuyên Quang) |
Số hiệu: | 60/2023/HS-ST |
Loại văn bản: | Bản án |
Ngày ban hành: | 05/09/2023 |
Lĩnh vực: | Hình sự |
Áp dụng án lệ: |
Đã biết
Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để xem áp dụng án lệ. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây! |
Đính chính: |
Đã biết
Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để xem đính chính. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây! |
Thông tin về vụ án: |
Nội dung tóm tắt đang được cập nhật, Quý khách vui lòng quay lại sau!
Tải văn bản
TOÀ ÁN NHÂN DÂN HUYỆN YÊN SƠN, TỈNH TUYÊN QUANG
BẢN ÁN 60/2023/HS-ST NGÀY 05/09/2023 VỀ TỘI CHỐNG NGƯỜI THI HÀNH CÔNG VỤ
Ngày 05 tháng 9 năm 2023, tại trụ sở Toà án nhân dân huyện Yên S xét xử công khai vụ án hình sự thụ lý số: 57/2023/HSST, ngày 23 tháng 8 năm 2023 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 52/2023/QĐXXST-HS, ngày 23 tháng 8 năm 2023 đối với bị cáo:
LÊ HỒNG PH, (Tên gọi khác: Không), sinh ngày 20/6/1989, tại tỉnh Tuyên Q. Nơi cư trú: Thôn T, xã V, huyện Ch, tỉnh Tuyên Q. Nghề nghiệp: Lao động tự do; trình độ học vấn: 12/12; dân tộc: Kinh; giới tính: Nam; tôn giáo: Không; quốc tịch: Việt Nam. Con ông Lê Hải Đ, sinh năm 1952 và con bà Nguyễn Thị Th, sinh năm 1956 (đã chết). Anh chị em ruột: Có 06 người bị cáo là thứ năm. Vợ: Hứa Thị L, sinh năm 1990. Con: có 02 con, con lớn sinh năm 2012, con nhỏ sinh năm 2020. Tiền án, tiền sự, nhân thân: Không.
Bị cáo hiện đang áp dụng biện pháp ngăn chặn cấm đi khỏi nơi cư trú tại xã Vinh Qu, huyện Chiêm Hóa, tỉnh Tuyên Q, (có mặt).
* Những người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan:
1. Anh Ma Công M, sinh năm 1991, (có đơn xin xét xử vắng mặt);
Trú tại: Tổ 16, phường Ph, thành phố T, tỉnh Tuyên Q.
2. Anh Trần Hồng Q, sinh năm 1985, (có đơn xin xét xử vắng mặt);
Trú tại: Tổ 7, phường Ph, thành phố T, tỉnh Tuyên Q.
3. Anh: Lê Trung D, sinh năm 1984 (vắng mặt), Địa chỉ: Thôn T, xã V, huyện Ch, tỉnh Tuyên Q
* Người làm chứng:
1. Anh Hoàng Mạnh T, sinh năm 1993, (vắng mặt);
Trú tại: Tổ 9, phường H, thành phố T, tỉnh Tuyên Q.
2. Anh Nguyễn Thành L, sinh năm 1986, (vắng mặt);
Trú tại: Tổ 10, phường A, thành phố T, tỉnh Tuyên Q.
3. Anh Đinh Xuân S, sinh năm 1996, (vắng mặt);
Trú tại: Tổ 4, phường T, thành phố T, tỉnh Tuyên Q.
4. Anh Trần Xuân D1, sinh năm 1986, (vắng mặt);
Trú tại: Thôn T, xã V, huyện Ch, tỉnh Tuyên Q.
5. Anh Trần Văn L1, sinh năm 1962, (vắng mặt);
Trú tại: Thôn T, xã V, huyện Ch, tỉnh Tuyên Q.
6. Chị Phan Thị H, sinh năm 1990, (vắng mặt);
Trú tại: Thôn T, xã V, huyện Ch, tỉnh Tuyên Q.
7. Chị Phan Thị Ch, sinh năm 1983, (vắng mặt);
Trú tại: Thôn Th, xã Tr, huyện Ch, tỉnh Tuyên Q.
8. Chị Phan Thị Ph, sinh năm 1978, (vắng mặt);
Trú tại: Thôn V, xã V, huyện Ch, tỉnh Tuyên Q.
9. Anh Nguyễn M Th, sinh năm 1974, (vắng mặt);
Trú tại: Thôn Th, xã V, huyện Ph, thành phố Hà Nội.
10. Anh Kim Ngọc Kh, sinh năm 1989, (vắng mặt);
Trú tại: Thôn Th, xã V, huyện Ph, thành phố Hà Nội.
NỘI DUNG VỤ ÁN:
Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:
Khoảng 07 giờ 30 phút ngày 31/5/2023, Lê Hồng Ph, trú tại thôn T, xã V, huyện Ch điều khiển xe ôtô biển số 20A-X đến nhà anh Trần Xuân D1 (trú cùng thôn với Ph) để đón anh D1 cùng một số người nhà của anh D1 gồm: ông Trần Văn L1 (bố anh D1); chị Phan Thị H; cháu Trần Thị Anh Th, cùng trú tại thôn Tiên Q 2, xã Vinh Qu, huyện Chiêm Hoá; chị Phan Thị Ch, trú tại thôn Tham Kha, xã Trung H, huyện Chiêm Hoá; chị Phan Thị Ph và cháu Tô Thị Tr cùng trú tại thôn V, xã V, huyện Ch, tỉnh Tuyên Q đưa những người trên đến sân bay Nội Bài để tiễn anh D đi xuất khẩu lao động ở Nhật Bản.
Khi đi đến đoạn đường đông dân cư thôn T, xã Đ, huyện Y, Ph điều khiển xe với tốc độ nhanh, lúc này anh Hoàng Mạnh T là Tổ viên tổ công tác xử lý vi phạm về giao thông đường bộ của Phòng Cảnh sát giao thông Công an tỉnh Tuyên Q đang thực hiện nhiệm vụ tại Km119+600 đường Quốc lộ2 đã sử dụng máy đo tốc độ phương tiện giao thông có ghi hình ảnh để đo tốc độ xe ôtô do Ph điều khiển, phát hiện xe của Ph điều khiển đi với tốc độ 59km/h (vượt quá tốc độ cho phép 09km/h) nên báo cho Tổ công tác đang lập chốt tại Km117 đường Quốc lộ2.
Khoảng 09 giờ 22 phút cùng ngày, xe Ph điều khiển đi đến Km117 đường Quốc lộ 2 thuộc thôn H, xã Đ, huyện Y, Ph nhìn thấy anh Ma Công M và anh Trần Hồng Q (thành viên trong Tổ công tác) mặc trang phục Cảnh sát giao thông đứng ở khu vực đường phía trước, khi Ph đến gần thì anh Ma Công M dùng gậy chỉ huy ra hiệu lệnh yêu cầu Ph dừng xe để kiểm tra, Ph biết mình vi phạm về tốc độ nên giảm tốc độ xe và bật đèn xi nhan bên phải để dừng xe, nhưng sau đó do sợ bị giữ xe ôtô nên Ph không dừng xe mà tăng tốc độ điều khiển xe đi thẳng về phía anh M và anh Q, anh M và anh Q nhảy sang bên cạnh để tránh xe của Ph, Ph tiếp tục điều khiển xe đi khỏi khu vực chốt kiểm tra. Anh Trần Hồng Q (Tổ trưởng tổ công tác) thấy hành vi vi phạm của Lê Hồng Ph nghiêm trọng (trên xe chở nhiều người, có cả người già và trẻ em, đi với tốc độ cao) làm ảnh hưởng đến công tác đảm bảo an toàn giao thôn g đón, dẫn đoàn của đồng chí Trương Thị M - Uỷ viên Bộ Chính trị, Thường trực Ban Bí thư đi công tác qua địa bàn tỉnh Tuyên Q và cần phải ngăn chặn nên ra lệnh dùng 02 xe ôtô đặc chủng, trong đó: anh Q điều khiển xe ôtô đặc chủng biển số 22A-X, anh M ngồi cùng trên ghế phụ; anh Đinh Xuân S (Tổ viên tổ công tác) một mình điều khiển xe ôtô đặc chủng biển số 22A-X đuổi theo xe Lê Hồng Ph để ngăn chặn hành vi của Ph.
Đi đến Km115+960 đường Quốc lộ2 thuộc thôn C, xã Đ, huyện Y thì xe của anh Trần Hồng Q vượt được lên ngang xe của Ph, anh M hạ kính cửa xe và dùng gây giao thông, còi ra hiệu lệnh yêu cầu Ph dừng xe, Ph không dừng, sau đó anh Q điều khiển xe vượt lên trước chặn ngang đầu xe, còn xe của anh S chặn bên trái xe của Ph, Ph dừng lại, anh Q và anh M xuống xe đi về phía vị trí xe Ph, anh Q đến dùng tay mở cách cửa vị trí ngồi của Ph để giải thích hành vi của Ph gây nguy hiểm cho người ngồi trên xe và yêu cầu tắt máy xe, Ph nói “ra để em đóng cửa vào”, Q nói “anh cứ xuống xe đi”, Ph nói “để em táp vào, để em táp vào” ý là đóng cửa để Ph điều khiển xe vào lề đường, nhưng Ph không chấp hành và không có ý định dừng xe mà đóng cửa xe để Ph đi tiếp. Anh Q không đồng ý, tiếp tục yêu cầu Ph tắt máy, xuống xe; Ph giật cánh cửa xe đóng lại, điều khiển xe lùi về phía sau tìm khoảng trống giữa các xe ôtô đang đỗ gần đó sau đó luồn lách thoát khỏi vị trí bị chặn, tiếp tục bỏ chạy về hướng Hà Nội; anh Q, anh M và anh S điều kiển xe đuổi theo để ngăn chặn. Quá trình di chuyển trên đường Ph điều khiển xe lạng lách ở giữa đường và phần đường của xe ngược chiều để ngăn không cho xe ôtô của tổ công tác vượt lên.
Khi đi đến Km111+950 (gần cầu Đoan Hùng) thuộc thôn Ng, xã Ch, huyện Đ, tỉnh Phú Thọ, xe anh Q vượt lên song song với xe Ph, anh M ngồi ở vị trí phụ cạnh lái xe đã ra hiệu lệnh bằng gậy giao thông và thổi còi để yêu cầu xe của Ph dừng lại, nhưng Ph vẫn không chấp hành nên anh Q vượt lên tiếp tục chặn ngang đầu xe của Ph, xe của anh S cũng tiến lên trước để chặn ngang xe Ph. Anh M xuống xe yêu cầu Lê Hồng Ph dừng lại chấm dứt hành vi vi phạm, thấy đường bị chặn không đi được nên Ph điều khiển xe quay đầu đi vào đường bờ đê sông Lô hướng ngược về Tuyên Q. Anh Q, anh M và anh S tiếp tục điều khiển xe đi theo, quá trình đi theo anh Q sử dụng còi xe ôtô và loa của xe để yêu cầu Ph dừng lại, chấp hành yêu cầu của Cảnh sát giao thông, nhưng Ph không chấp hành.
Khi bỏ chạy được khoảng 10Km, Ph điều khiển xe đi đến trạm gác có barie của nhà máy Z129 thuộc thôn Ph, xã Đ, huyện Y, do không được đi qua nên Ph phải dừng xe lại, anh Q cùng Tổ công tác đến yêu cầu Ph xuống xe để kiểm tra và lập biên bản vi phạm hành chính về hành vi điều khiển xe chạy quá tốc độ và không chấp hành hiệu lệnh, hướng dẫn của người điều khiển giao thông hoặc người kiểm soát giao thông, tạm giữ giấy phép lái xe c ủa Lê Hồng Ph và lập biên bản vi phạm hành chính hồi 10 giờ 15 phút cùng ngày.
Kết luận giám định số 816/KL-KTHS ngày 08/6/2023 của Ph Kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Tuyên Q, kết luận: Nội dung cuộc hội thoại trong file video gửi giám định đã được dịch thành văn bản (gồm 19 trang A4).
Kết luận giám định số 817/KL-KTHS ngày 08/6/2023 của Ph Kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Tuyên Q, kết luận: Không khôi phục được dữ liệu lưu trữ vào ngày 31/5/2023 trong thẻ nhớ gửi giám định. Không phát hiện dấu vết cắt ghép, chỉnh sửa nội dung trong video ký hiệu A1, A2 và A3 gửi giám định. Nội dung diễn biến vụ việc trong video ký hiệu A1, A2 và A3 gửi giám định được mô tả chi tiết trong bản ảnh giám định kèm theo. Sao lưu các file video gửi giám định ra đĩa DVD màu trắng, nhãn hiệu Verbatim.
Cáo trạng số 57/CT-VKSYS, ngày 22/8/2023, Viện kiểm sát nhân dân huyện Yên S đã truy tố Lê Hồng Ph về tội “Chống người thi hành công vụ” theo khoản 1 Điều 330 Bộ luật hình sự.
Kết thúc phần xét hỏi, đại diện Viện kiểm sát giữ quyền công tố tại phiên tòa giữ nguyên quyết định truy tố đối với Lê Hồng Ph theo tội danh và điều luật đã nêu trong cáo trạng và đề nghị Hội đồng xét xử:
Tuyên bố: Lê Hồng Ph phạm tội: “Chống người thi hành công vụ”.
- Áp dụng: Khoản 1 Điều 330, các điểm i, s khoản 1, 2 Điều 51, Điều 65 - Bộ luật hình sự;
Xử phạt: Lê Hồng Ph từ 09 (chín) tháng đến 01 (một) năm tù nhưng cho hưởng án treo, thời gian thử thách từ 01 (một) năm 06 (sáu) tháng đến 02 (hai) năm. Thời gian thử thách tính từ ngày tuyên án sơ thẩm.
Giao bị cáo cho UBND xã Vinh Qu, huyện Chiêm Hóa, tỉnh Tuyên Q giám sát, giáo dục trong thời gian thử thách.
- Về vật chứng: Cơ quan điều tra tạm giữ 01 xe ôtô nhãn hiệu FORD EVEREST, biển số 20A-X; 01 chứng nhận đăng kí xe ôtô; 01 giấy chứng nhận kiểm định an toàn kỹ thuật và bảo vệ môi trường, phương tiện giao thông cơ giới đường bộ; 01 giấy chứng nhận bảo hiểm tự nguyện, bắt buộc TNDS của chủ xe ôtô, ngày 29/6/2023, Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an huyện Yên S đã trả lại xe ôtô biển số 20A-X cùng các giấy tờ liên quan đến phương tiện cho anh Lê Trung D là chủ sở hữu hợp pháp; 01 giấy phép lái xe ôtô số 190214018D hạng C mang tên Lê Hồng Ph ngày 05/9/2023 Tòa án nhân dân huyện Yên S đã trả lại cho bị cáo, nên không đề nghị Hội đồng xét xử xem xét.
Ngoài ra đại diện Viện kiểm sát còn đề nghị Hội đồng xét xử buộc bị cáo phải chịu án phí và tuyên quyền kháng cáo theo quy định của pháp luật.
Tại phần tranh luận bị cáo không tranh luận với luận tội của Kiểm sát viên, nói lời sau cùng bị cáo xin Hội đồng xét xử xem xét giảm nhẹ mức án và cho bị cáo được cải tạo tại địa phương.
NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN:
Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:
[1] Về tố tụng: Về hành vi tố tụng, quyết định tố tụng của Cơ quan điều tra, Viện kiểm sát nhân dân, của Điều tra viên và Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng thẩm quyền, trình tự, thủ tục theo quy định của Bộ luật tố tụng hình sự. Quá trình điều tra và tại phiên tòa bị cáo và những người tham gia tố tụng khác không có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, quyết định tố tụng của cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó các hành vi, quyết định tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp.
[2] Về hành vi phạm tội của bị cáo: Lời khai nhận của bị cáo tại phiên toà phù hợp với lời khai của bị cáo trong quá trình điều tra, truy tố, bị cáo thừa nhận khi Tổ công tác của Phòng Cảnh sát giao thông thông Công an tỉnh Tuyên Q ra hiệu lệnh dừng xe, bị cáo không chấp hành mà điều khiển xe đi về phía giữa 02 đồng chí Cảnh sát giao thông để bỏ chạy mục đích nhằm cản trở hoạt động của tổ công tác của Cảnh sát giao thông.
Ngoài lời khai nhận tội của bị cáo, hành vi phạm tội của bị cáo còn được chứng minh bằng lời khai của những người làm chứng; vật chứng thu giữ; kết luận giám định cùng toàn bộ những tài liệu, chứng cứ khác có trong hồ sơ vụ án.
Những người làm chứng xác định ngày 31/5/2023, bị cáo Lê Hồng Ph điều khiển xe ôtô biển số 20A-X đi từ huyện Chiêm Hóa về sân bay Nội bài. Khi đến xã Đ, huyện Y gặp Tổ công tác của Phòng Cảnh sát giao thông Công an tỉnh Tuyên Q ra tín hiệu dừng xe để kiểm tra, nhưng Lê Hồng Ph không chấp hành mà có hành vi lái xe bỏ chạy để cản trở hoạt động của tổ công tác.
Từ những chứng cứ trên đây đã có đủ cơ sở để kết luận: Khoảng 09 giờ 22 phút đến 10 giờ 15 phút ngày 31/5/2023, tại Km117 đường Quốc lộ 2 thuộc thôn H, xã Đ, huyện Y, tỉnh Tuyên Q, Lê Hồng Ph đã có hành vi điều khiển xe ôtô biển số 20A-X chạy quá tốc độ cho phép 59km/50km/h, khi Tổ công tác của Phòng Cảnh sát giao thông Công an tỉnh Tuyên Q ra hiệu lệnh dừng xe, Lê Hồng Ph không chấp hành mà điều khiển xe đi về phía giữa 02 đồng chí Cảnh sát giao thông để bỏ chạy, Tổ công tác đuổi theo để ngăn chặn hành vi của Lê Hồng Ph.
Quá trình đuổi theo xe của Ph, 02 lần Tổ công tác chặn được xe và yêu cầu Ph dừng lại, nhưng Ph không chấp hành hiệu lệnh, yêu cầu của cán bộ Cảnh sát giao thông, điều khiển xe luồn lách, lạng lách thoát khỏi tổ công tác, ép không cho xe ôtô đặc chủng của Cảnh sát giao thông vượt lên. Khi bỏ chạy được đến trạm gác có barie của nhà máy Z129 thuộc thôn Ph, xã Đ, huyện Y, do không đi qua được nên Ph mới dừng xe lại (quãng đường Ph bỏ chạy, không chấp hành hiệu lệnh của cán bộ Cảnh sát giao thông là khoảng 10km, thời gian khoảng 01 giờ).
Hành vi của Ph đã làm cản trở Tổ công tác thuộc Phòng Cảnh sát giao thông Công an tỉnh Tuyên Q thực hiện nhiệm vụ tuần tra xử lý vi phạm giao thông đường bộ tại một điểm và nhiệm vụ đảm bảo trật tự an toàn giao thông đón, dẫn đoàn của đồng chí Trương Thị M - Uỷ viên Bộ Chính trị, Thường trực Ban Bí thư đi công tác qua địa bàn tỉnh Tuyên Q.
Hành vi của bị cáo Lê Hồng Ph đã phạm vào tội “Chống người thi hành công vụ”, tội phạm và hình phạt được quy định tại khoản 1 Điều 330 Bộ luật hình sự.
Như vậy, Cáo trạng của Viện kiểm sát nhân dân huyện Yên S, tỉnh Tuyên Q truy tố bị cáo Lê Hồng Ph về hành vi “Chống người thi hành công vụ” là đúng người, đúng tội.
[3] Xét về hành vi phạm tội của bị cáo: Hành vi của bị cáo là nguy hiểm cho xã hội, xâm phạm vào các quy định của Nhà nước về an toàn giao thông đường bộ, hành vi lái xe ô tô bỏ chạy của bị cáo còn có thể gây nguy hiểm cho những người tham gia giao thông. Vì vậy cần phải có mức án tương xứng với hành vi phạm tội của bị cáo để răn đe, giáo dục bị cáo trở thành người công dân tốt, có ích cho gia đình và xã hội, đồng thời phòng ngừa tội phạm chung.
Khi lượng hình Hội đồng xét xử thấy rằng: Quá trình điều tra và tại phiên tòa bị cáo đã thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải; phạm tội lần đầu và thuộc trường hợp ít nghiêm trọng; bị cáo có bố đẻ là ông Lê Hải Đ được tặng thưởng Huy chương kháng chiến hạng nhì và là thương binh hạng 4/4 với tỷ lệ mất sức lao động do bệnh tật là 21% và là người hoạt động kháng chiến bị nhiễm chất độc hóa học. Đây là những tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự được quy định tại điểm i, s khoản 1, khoản 2 Điều 51 Bộ luật hình sự cần áp dụng cho bị cáo để quyết định hình phạt cho phù hợp.
Xét tính chất, mức độ phạm tội của bị cáo thấy rằng: Bị cáo có nhân thân tốt, có nơi cư trú rõ ràng, bị cáo có nhiều tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự quy định tại khoản 1, 2 Điều 51 - Bộ luật hình sự và để thể hiện tính khoan hồng của pháp luật, Hội đồng xét xử xét thấy không cần buộc bị cáo phải chấp hành hình phạt tù giam, mà cho bị cáo được hưởng án treo, đồng thời ấn định thời gian thử thách và giao bị cáo cho Ủy ban nhân dân xã Vinh Qu, huyện Chiêm Hóa, tỉnh Tuyên Q nơi bị cáo cư trú để giám sát, giáo dục trong thời gian thử thách cũng đủ răn đe, giáo dục đối với bị cáo.
[4] Về vật chứng: Quá trình điều tra Cơ quan điều tra tạm giữ 01 xe ôtô nhãn hiệu FORD EVEREST, biển số 20A-X; 01 chứng nhận đăng kí xe ôtô; 01 giấy chứng nhận kiểm định an toàn kỹ thuật và bảo vệ môi trường, phương tiện giao thông cơ giới đường bộ; 01 giấy chứng nhận bảo hiểm tự nguyện, bắt buộc TNDS của chủ xe ôtô, ngày 29/6/2023, Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an huyện Yên S đã trả lại xe ôtô biển số 20A-X cùng các giấy tờ liên quan đến phương tiện cho anh Lê Trung D là chủ sở hữu hợp pháp; 01 giấy phép lái xe ôtô số 190214018X hạng C mang tên Lê Hồng Ph ngày 05/9/2023 Tòa án đã trả lại cho bị cáo, nên Hội đồng xét xử không đề cập xử lý.
[5] Đối với hành vi điều khiển xe chạy quá tốc độ cho phép của Lê Hồng Ph. Ngày 05/7/2023, Phòng Cảnh sát giao thông Công an tỉnh Tuyên Q đã ra Quyết định xử phạt vi phạm hành chính đối với Ph về hành vi Điều khiển xe chạy quá tốc độ quy định từ 05km/h đến dưới 10km/h, phạt 900.000 đồng (Phong đã nộp phạt ngày 13/7/2023), nên Hội đồng xét xử không đề cập xử lý.
[6] Về án phí: Bị cáo phải chịu án phí hình sự sơ thẩm theo quy định của pháp luật.
[7] Về quyền kháng cáo: Bị cáo và người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan được quyền kháng cáo bản án theo quy định của pháp luật.
Vì các lẽ trên,
QUYẾT ĐỊNH:
Căn cứ vào Điều 330 của Bộ luật hình sự:
1. Tuyên bố: Bị cáo Lê Hồng Ph phạm tội “Chống người thi hành công vụ”.
- Áp dụng: Khoản 1 Điều 330, các điểm i, s khoản 1, khoản 2 Điều 51, Điều 65 - Bộ luật hình sự;
- Xử phạt: Bị cáo Lê Hồng Ph 09 (chín) tháng tù, nhưng cho hưởng án treo, thời gian thử thách là 01 (một) năm 06 (sáu) tháng. Thời gian thử thách tính từ ngày tuyên án sơ thẩm (05/9/2023).
Giao bị cáo Lê Hồng Ph cho Ủy ban nhân dân xã V, huyện Ch, tỉnh Tuyên Q giám sát giáo dục trong thời gian thử thách. Trong thời gian thử thách nếu người được hưởng án treo cố ý vi phạm nghĩa vụ theo quy định của Luật thi hành án hình sự 02 lần trở lên, thì Tòa án có thể quyết định buộc người đó phải chấp hành hình phạt tù của bản án đã cho hưởng án treo. Trường hợp thực hiện hành vi phạm tội mới thì Tòa án buộc người đó phải chấp hành hình phạt của bản án trước và tổng hợp với hình phạt của bản án mới theo quy định tại điều 56 của Bộ luật hình sự.
Trường hợp bị cáo thay đổi nơi cư trú thì thực hiện theo quy định tại Điều 92 Luật thi hành án hình sự.
2. Áp dụng các Điều 136, 331 và 333 Bộ luật tố tụng hình sự; Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14, ngày 30 tháng 12 năm 2016.
Buộc bị cáo phải nộp 200.000đồng (hai trăm nghìn đồng) án phí hình sự sơ thẩm.
Bị cáo được quyền kháng cáo bản án trong hạn 15 (mười lăm) ngày kể từ ngày tuyên án; người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan vắng mặt tại phiên tòa được quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 (mười lăm) ngày kể từ ngày nhận được hay niêm yết bản án.
Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để tải file. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!