Bản án số 60/2023/HS-ST ngày 05/09/2023 của TAND huyện Yên Sơn, tỉnh Tuyên Quang về tội chống người thi hành công vụ
- Thuộc tính
- Nội dung
- VB gốc
- VB liên quan
- Lược đồ
- Đính chính
- Án lệ
- BA/QĐ cùng tội danh
- Tải về
Tải văn bản
-
Bản án số 60/2023/HS-ST
Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để tải file. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!
Báo lỗi
Thuộc tính Bản án 60/2023/HS-ST
| Tên Bản án: | Bản án số 60/2023/HS-ST ngày 05/09/2023 của TAND huyện Yên Sơn, tỉnh Tuyên Quang về tội chống người thi hành công vụ |
|---|---|
| Tội danh: | 257.Tội chống người thi hành công vụ (Bộ luật hình sự năm 1999) |
| Cấp xét xử: | Sơ thẩm |
| Tòa án xét xử: | TAND huyện Yên Sơn (TAND tỉnh Tuyên Quang) |
| Số hiệu: | 60/2023/HS-ST |
| Loại văn bản: | Bản án |
| Ngày ban hành: | 05/09/2023 |
| Lĩnh vực: | Hình sự |
| Áp dụng án lệ: |
Đã biết
Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để xem áp dụng án lệ. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây! |
| Đính chính: |
Đã biết
Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để xem đính chính. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây! |
| Thông tin về vụ án: |
Tóm tắt Bản án
Nội dung tóm tắt đang được cập nhật, Quý khách vui lòng quay lại sau!
Tải văn bản

1
TOÀ ÁN NHÂN DÂN
HUYỆN YÊN SƠN
TỈNH TUYÊN QUANG
CỘNG HOÀ XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM
Độc lập - Tự do - Hạnh phúc
Bản án số: 60/2023/HS-ST
Ngày 05-9-2023
NHÂN DANH
NƯỚC CỘNG HOÀ XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM
TOÀ ÁN NHÂN DÂN HUYỆN YÊN SƠN, TỈNH TUYÊN QUANG
- Thành phần Hội đồng xét xử sơ thẩm gồm có:
Thẩm phán - Chủ toạ phiên toà: Ông Mạc Văn Tuyến.
Các hội thẩm nhân dân:
1- Ông Nguyễn Duy Chung - Cán bộ hưu trí;
2- Bà Đặng Thị Huệ - Cán bộ hưu trí;
- Thư ký phiên toà: Bà Hoàng Thúy Nga - Thư ký Toà án nhân dân huyện
Yên Sơn.
- Đại diện Viện kiểm sát nhân dân huyện Yên Sơn tham gia phiên toà: Bà
Phạm Thị Thu Hiền - Kiểm sát viên.
Ngày 05 tháng 9 năm 2023, tại trụ sở Toà án nhân dân huyện Yên Sơn xét xử
công khai vụ án hình sự thụ lý số: 57/2023/HSST, ngày 23 tháng 8 năm 2023 theo
Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 52/2023/QĐXXST-HS, ngày 23 tháng 8 năm
2023 đối với bị cáo:
LÊ HỒNG PH, (Tên gọi khác: Không), sinh ngày 20/6/1989, tại tỉnh
Tuyên Quang.
Nơi cư trú: Thôn T, xã V, huyện Ch, tỉnh Tuyên Quang.
Nghề nghiệp: Lao động tự do; trình độ học vấn: 12/12; dân tộc: Kinh; giới
tính: Nam; tôn giáo: Không; quốc tịch: Việt Nam. Con ông Lê Hải Đ, sinh năm
1952 và con bà Nguyễn Thị Th, sinh năm 1956 (đã chết). Anh chị em ruột: Có
06 người bị cáo là thứ năm. Vợ: Hứa Thị L, sinh năm 1990. Con: có 02 con, con
lớn sinh năm 2012, con nhỏ sinh năm 2020.
Tiền án, tiền sự, nhân thân: Không.
Bị cáo hiện đang áp dụng biện pháp ngăn chặn cấm đi khỏi nơi cư trú tại
xã Vinh Quang, huyện Chiêm Hóa, tỉnh Tuyên Quang, (có mặt).
* Những người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan:
1. Anh Ma Công M, sinh năm 1991, (có đơn xin xét xử vắng mặt);
Trú tại: Tổ 16, phường Ph, thành phố T, tỉnh Tuyên Quang.
2. Anh Trần Hồng Q, sinh năm 1985, (có đơn xin xét xử vắng mặt);
Trú tại: Tổ 7, phường Ph, thành phố T, tỉnh Tuyên Quang.
3. Anh: Lê Trung D, sinh năm 1984 (vắng mặt),

2
Địa chỉ: Thôn T, xã V, huyện Ch, tỉnh Tuyên Quang
* Người làm chứng:
1. Anh Hoàng Mạnh T, sinh năm 1993, (vắng mặt);
Trú tại: Tổ 9, phường H, thành phố T, tỉnh Tuyên Quang.
2. Anh Nguyễn Thành L, sinh năm 1986, (vắng mặt);
Trú tại: Tổ 10, phường A, thành phố T, tỉnh Tuyên Quang.
3. Anh Đinh Xuân S, sinh năm 1996, (vắng mặt);
Trú tại: Tổ 4, phường T, thành phố T, tỉnh Tuyên Quang.
4. Anh Trần Xuân D1, sinh năm 1986, (vắng mặt);
Trú tại: Thôn T, xã V, huyện Ch, tỉnh Tuyên Quang.
5. Anh Trần Văn L1, sinh năm 1962, (vắng mặt);
Trú tại: Thôn T, xã V, huyện Ch, tỉnh Tuyên Quang.
6. Chị Phan Thị H, sinh năm 1990, (vắng mặt);
Trú tại: Thôn T, xã V, huyện Ch, tỉnh Tuyên Quang.
7. Chị Phan Thị Ch, sinh năm 1983, (vắng mặt);
Trú tại: Thôn Th, xã Tr, huyện Ch, tỉnh Tuyên Quang.
8. Chị Phan Thị Ph, sinh năm 1978, (vắng mặt);
Trú tại: Thôn V, xã V, huyện Ch, tỉnh Tuyên Quang.
9. Anh Nguyễn Minh Th, sinh năm 1974, (vắng mặt);
Trú tại: Thôn Th, xã V, huyện Ph, thành phố Hà Nội.
10. Anh Kim Ngọc Kh, sinh năm 1989, (vắng mặt);
Trú tại: Thôn Th, xã V, huyện Ph, thành phố Hà Nội.
NỘI DUNG VỤ ÁN:
Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung
vụ án được tóm tắt như sau:
Khoảng 07 giờ 30 phút ngày 31/5/2023, Lê Hồng Ph, trú tại thôn T, xã
V, huyện Ch điều khiển xe ôtô biển số 20A-144.82 đến nhà anh Trần Xuân D1
(trú cùng thôn với Ph) để đón anh Dũng cùng một số người nhà của anh Dũng
gồm: ông Trần Văn L1 (bố anh Dũng); chị Phan Thị H; cháu Trần Thị Anh
Thư, cùng trú tại thôn Tiên Quang 2, xã Vinh Quang, huyện Chiêm Hoá; chị
Phan Thị Ch, trú tại thôn Tham Kha, xã Trung Hoà, huyện Chiêm Hoá; chị
Phan Thị Ph và cháu Tô Thị Trúc cùng trú tại thôn V, xã V, huyện Ch, tỉnh
Tuyên Quang đưa những người trên đến sân bay Nội Bài để tiễn anh D đi xuất
khẩu lao động ở Nhật Bản.

3
Khi đi đến đoạn đường đông dân cư thôn T, xã Đ, huyện Y, Ph điều
khiển xe với tốc độ nhanh, lúc này anh Hoàng Mạnh T là Tổ viên tổ công tác
xử lý vi phạm về giao thông đường bộ của Phòng Cảnh sát giao thông Công an
tỉnh Tuyên Quang đang thực hiện nhiệm vụ tại Km119+600 đường Quốc lộ2
đã sử dụng máy đo tốc độ phương tiện giao thông có ghi hình ảnh để đo tốc độ
xe ôtô do Ph điều khiển, phát hiện xe của Ph điều khiển đi với tốc độ 59km/h
(vượt quá tốc độ cho phép 09km/h) nên báo cho Tổ công tác đang lập chốt tại
Km117 đường Quốc lộ2.
Khoảng 09 giờ 22 phút cùng ngày, xe Ph điều khiển đi đến Km117
đường Quốc lộ 2 thuộc thôn H, xã Đ, huyện Y, Ph nhìn thấy anh Ma Công M
và anh Trần Hồng Q (thành viên trong Tổ công tác) mặc trang phục Cảnh sát
giao thông đứng ở khu vực đường phía trước, khi Ph đến gần thì anh Ma Công
M dùng gậy chỉ huy ra hiệu lệnh yêu cầu Ph dừng xe để kiểm tra, Ph biết mình
vi phạm về tốc độ nên giảm tốc độ xe và bật đèn xi nhan bên phải để dừng xe,
nhưng sau đó do sợ bị giữ xe ôtô nên Ph không dừng xe mà tăng tốc độ điều
khiển xe đi thẳng về phía anh M và anh Q, anh M và anh Q nhảy sang bên cạnh
để tránh xe của Ph, Ph tiếp tục điều khiển xe đi khỏi khu vực chốt kiểm tra.
Anh Trần Hồng Q (Tổ trưởng tổ công tác) thấy hành vi vi phạm của Lê Hồng
Ph nghiêm trọng (trên xe chở nhiều người, có cả người già và trẻ em, đi với tốc
độ cao) làm ảnh hưởng đến công tác đảm bảo an toàn giao thông đón, dẫn đoàn
của đồng chí Trương Thị M - Uỷ viên Bộ Chính trị, Thường trực Ban Bí thư đi
công tác qua địa bàn tỉnh Tuyên Quang và cần phải ngăn chặn nên ra lệnh dùng
02 xe ôtô đặc chủng, trong đó: anh Quang điều khiển xe ôtô đặc chủng biển số
22A-003.62, anh Minh ngồi cùng trên ghế phụ; anh Đinh Xuân S (Tổ viên tổ
công tác) một mình điều khiển xe ôtô đặc chủng biển số 22A-002.02 đuổi theo
xe Lê Hồng Ph để ngăn chặn hành vi của Ph.
Đi đến Km115+960 đường Quốc lộ2 thuộc thôn C, xã Đ, huyện Y thì xe
của anh Trần Hồng Q vượt được lên ngang xe của Ph, anh M hạ kính cửa xe và
dùng gây giao thông, còi ra hiệu lệnh yêu cầu Phòng dừng xe, Ph không dừng,
sau đó anh Q điều khiển xe vượt lên trước chặn ngang đầu xe, còn xe của anh
Sơn chặn bên trái xe của Ph, Ph dừng lại, anh Q và anh M xuống xe đi về phía
vị trí xe Ph, anh Q đến dùng tay mở cách cửa vị trí ngồi của Ph để giải thích
hành vi của Ph gây nguy hiểm cho người ngồi trên xe và yêu cầu tắt máy xe,
Ph nói “ra để em đóng cửa vào”, Quang nói “anh cứ xuống xe đi”, Ph nói “để
em táp vào, để em táp vào” ý là đóng cửa để Ph điều khiển xe vào lề đường,
nhưng Ph không chấp hành và không có ý định dừng xe mà đóng cửa xe để Ph
đi tiếp. Anh Q không đồng ý, tiếp tục yêu cầu Ph tắt máy, xuống xe; Ph giật
cánh cửa xe đóng lại, điều khiển xe lùi về phía sau tìm khoảng trống giữa các
xe ôtô đang đỗ gần đó sau đó luồn lách thoát khỏi vị trí bị chặn, tiếp tục bỏ
chạy về hướng Hà Nội; anh Q, anh M và anh Sơn điều kiển xe đuổi theo để
ngăn chặn. Quá trình di chuyển trên đường Ph điều khiển xe lạng lách ở giữa
đường và phần đường của xe ngược chiều để ngăn không cho xe ôtô của tổ
công tác vượt lên.
Khi đi đến Km111+950 (gần cầu Đoan Hùng) thuộc thôn Ng, xã Ch,
huyện Đ, tỉnh Phú Thọ, xe anh Q vượt lên song song với xe Ph, anh M ngồi ở

4
vị trí phụ cạnh lái xe đã ra hiệu lệnh bằng gậy giao thông và thổi còi để yêu cầu
xe của Ph dừng lại, nhưng Ph vẫn không chấp hành nên anh Q vượt lên tiếp tục
chặn ngang đầu xe của Ph, xe của anh Sơn cũng tiến lên trước để chặn ngang
xe Ph. Anh M xuống xe yêu cầu Lê Hồng Ph dừng lại chấm dứt hành vi vi
phạm, thấy đường bị chặn không đi được nên Ph điều khiển xe quay đầu đi vào
đường bờ đê sông Lô hướng ngược về Tuyên Quang. Anh Q, anh M và anh S
tiếp tục điều khiển xe đi theo, quá trình đi theo anh Q sử dụng còi xe ôtô và loa
của xe để yêu cầu Ph dừng lại, chấp hành yêu cầu của Cảnh sát giao thông,
nhưng Ph không chấp hành.
Khi bỏ chạy được khoảng 10Km, Ph điều khiển xe đi đến trạm gác có
barie của nhà máy Z129 thuộc thôn Ph, xã Đ, huyện Y, do không được đi qua
nên Ph phải dừng xe lại, anh Q cùng Tổ công tác đến yêu cầu Ph xuống xe để
kiểm tra và lập biên bản vi phạm hành chính về hành vi điều khiển xe chạy quá
tốc độ và không chấp hành hiệu lệnh, hướng dẫn của người điều khiển giao
thông hoặc người kiểm soát giao thông, tạm giữ giấy phép lái xe của Lê Hồng
Ph và lập biên bản vi phạm hành chính hồi 10 giờ 15 phút cùng ngày.
Kết luận giám định số 816/KL-KTHS ngày 08/6/2023 của Phòng Kỹ
thuật hình sự Công an tỉnh Tuyên Quang, kết luận: Nội dung cuộc hội thoại
trong file video gửi giám định đã được dịch thành văn bản (gồm 19 trang A4).
Kết luận giám định số 817/KL-KTHS ngày 08/6/2023 của Phòng Kỹ
thuật hình sự Công an tỉnh Tuyên Quang, kết luận: Không khôi phục được dữ
liệu lưu trữ vào ngày 31/5/2023 trong thẻ nhớ gửi giám định. Không phát hiện
dấu vết cắt ghép, chỉnh sửa nội dung trong video ký hiệu A1, A2 và A3 gửi
giám định. Nội dung diễn biến vụ việc trong video ký hiệu A1, A2 và A3 gửi
giám định được mô tả chi tiết trong bản ảnh giám định kèm theo. Sao lưu các
file video gửi giám định ra đĩa DVD màu trắng, nhãn hiệu Verbatim.
Cáo trạng số 57/CT-VKSYS, ngày 22/8/2023, Viện kiểm sát nhân dân huyện
Yên Sơn đã truy tố Lê Hồng Ph về tội “Chống người thi hành công vụ” theo khoản 1
Điều 330 Bộ luật hình sự.
Kết thúc phần xét hỏi, đại diện Viện kiểm sát giữ quyền công tố tại phiên tòa
giữ nguyên quyết định truy tố đối với Lê Hồng Ph theo tội danh và điều luật đã nêu
trong cáo trạng và đề nghị Hội đồng xét xử:
Tuyên bố: Lê Hồng Ph phạm tội: “Chống người thi hành công vụ”.
- Áp dụng: Khoản 1 Điều 330, các điểm i, s khoản 1, 2 Điều 51, Điều 65 -
Bộ luật hình sự;
Xử phạt: Lê Hồng Ph từ 09 (chín) tháng đến 01 (một) năm tù nhưng cho
hưởng án treo, thời gian thử thách từ 01 (một) năm 06 (sáu) tháng đến 02 (hai)
năm. Thời gian thử thách tính từ ngày tuyên án sơ thẩm.
Giao bị cáo cho UBND xã Vinh Quang, huyện Chiêm Hóa, tỉnh Tuyên
Quang giám sát, giáo dục trong thời gian thử thách.
- Về vật chứng: Cơ quan điều tra tạm giữ 01 xe ôtô nhãn hiệu FORD
EVEREST, biển số 20A-144.82; 01 chứng nhận đăng kí xe ôtô; 01 giấy chứng
nhận kiểm định an toàn kỹ thuật và bảo vệ môi trường, phương tiện giao thông

5
cơ giới đường bộ; 01 giấy chứng nhận bảo hiểm tự nguyện, bắt buộc TNDS của
chủ xe ôtô, ngày 29/6/2023, Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an huyện Yên Sơn
đã trả lại xe ôtô biển số 20A-144.82 cùng các giấy tờ liên quan đến phương tiện
cho anh Lê Trung D là chủ sở hữu hợp pháp; 01 giấy phép lái xe ôtô số
190214018390 hạng C mang tên Lê Hồng Ph ngày 05/9/2023 Tòa án nhân dân
huyện Yên Sơn đã trả lại cho bị cáo, nên không đề nghị Hội đồng xét xử xem
xét.
Ngoài ra đại diện Viện kiểm sát còn đề nghị Hội đồng xét xử buộc bị cáo phải
chịu án phí và tuyên quyền kháng cáo theo quy định của pháp luật.
Tại phần tranh luận bị cáo không tranh luận với luận tội của Kiểm sát
viên, nói lời sau cùng bị cáo xin Hội đồng xét xử xem xét giảm nhẹ mức án và
cho bị cáo được cải tạo tại địa phương.
NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN:
Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được
tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:
[1] Về tố tụng: Về hành vi tố tụng, quyết định tố tụng của Cơ quan điều tra,
Viện kiểm sát nhân dân, của Điều tra viên và Kiểm sát viên trong quá trình điều tra,
truy tố đã thực hiện đúng thẩm quyền, trình tự, thủ tục theo quy định của Bộ luật tố
tụng hình sự. Quá trình điều tra và tại phiên tòa bị cáo và những người tham gia tố
tụng khác không có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, quyết định tố tụng của cơ quan
tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó các hành vi, quyết định tố tụng đã
thực hiện đều hợp pháp.
[2] Về hành vi phạm tội của bị cáo: Lời khai nhận của bị cáo tại phiên toà
phù hợp với lời khai của bị cáo trong quá trình điều tra, truy tố, bị cáo thừa nhận
khi Tổ công tác của Phòng Cảnh sát giao thông thông Công an tỉnh Tuyên Quang
ra hiệu lệnh dừng xe, bị cáo không chấp hành mà điều khiển xe đi về phía giữa 02
đồng chí Cảnh sát giao thông để bỏ chạy mục đích nhằm cản trở hoạt động của tổ
công tác của Cảnh sát giao thông.
Ngoài lời khai nhận tội của bị cáo, hành vi phạm tội của bị cáo còn được
chứng minh bằng lời khai của những người làm chứng; vật chứng thu giữ; kết luận
giám định cùng toàn bộ những tài liệu, chứng cứ khác có trong hồ sơ vụ án.
Những người làm chứng xác định ngày 31/5/2023, bị cáo Lê Hồng Ph điều
khiển xe ôtô biển số 20A-144.82 đi từ huyện Chiêm Hóa về sân bay Nội bài.
Khi đến xã Đ, huyện Y gặp Tổ công tác của Phòng Cảnh sát giao thông Công an
tỉnh Tuyên Quang ra tín hiệu dừng xe để kiểm tra, nhưng Lê Hồng Ph không
chấp hành mà có hành vi lái xe bỏ chạy để cản trở hoạt động của tổ công tác.
Từ những chứng cứ trên đây đã có đủ cơ sở để kết luận: Khoảng 09 giờ 22
phút đến 10 giờ 15 phút ngày 31/5/2023, tại Km117 đường Quốc lộ 2 thuộc thôn
H, xã Đ, huyện Y, tỉnh Tuyên Quang, Lê Hồng Ph đã có hành vi điều khiển xe ôtô
biển số 20A-144.82 chạy quá tốc độ cho phép 59km/50km/h, khi Tổ công tác của
Phòng Cảnh sát giao thông Công an tỉnh Tuyên Quang ra hiệu lệnh dừng xe, Lê
Hồng Ph không chấp hành mà điều khiển xe đi về phía giữa 02 đồng chí Cảnh sát

6
giao thông để bỏ chạy, Tổ công tác đuổi theo để ngăn chặn hành vi của Lê Hồng
Ph.
Quá trình đuổi theo xe của Ph, 02 lần Tổ công tác chặn được xe và yêu
cầu Ph dừng lại, nhưng Ph không chấp hành hiệu lệnh, yêu cầu của cán bộ Cảnh
sát giao thông, điều khiển xe luồn lách, lạng lách thoát khỏi tổ công tác, ép
không cho xe ôtô đặc chủng của Cảnh sát giao thông vượt lên. Khi bỏ chạy được
đến trạm gác có barie của nhà máy Z129 thuộc thôn Ph, xã Đ, huyện Y, do
không đi qua được nên Ph mới dừng xe lại (quãng đường Ph bỏ chạy, không
chấp hành hiệu lệnh của cán bộ Cảnh sát giao thông là khoảng 10km, thời gian
khoảng 01 giờ).
Hành vi của Ph đã làm cản trở Tổ công tác thuộc Phòng Cảnh sát giao
thông Công an tỉnh Tuyên Quang thực hiện nhiệm vụ tuần tra xử lý vi phạm
giao thông đường bộ tại một điểm và nhiệm vụ đảm bảo trật tự an toàn giao
thông đón, dẫn đoàn của đồng chí Trương Thị M - Uỷ viên Bộ Chính trị,
Thường trực Ban Bí thư đi công tác qua địa bàn tỉnh Tuyên Quang.
Hành vi của bị cáo Lê Hồng Ph đã phạm vào tội “Chống người thi hành công vụ”,
tội phạm và hình phạt được quy định tại khoản 1 Điều 330 Bộ luật hình sự.
Như vậy, Cáo trạng của Viện kiểm sát nhân dân huyện Yên Sơn, tỉnh Tuyên
Quang truy tố bị cáo Lê Hồng Ph về hành vi “Chống người thi hành công vụ” là đúng
người, đúng tội.
[3] Xét về hành vi phạm tội của bị cáo: Hành vi của bị cáo là nguy hiểm
cho xã hội, xâm phạm vào các quy định của Nhà nước về an toàn giao thông đường
bộ, hành vi lái xe ô tô bỏ chạy của bị cáo còn có thể gây nguy hiểm cho những người
tham gia giao thông. Vì vậy cần phải có mức án tương xứng với hành vi phạm tội
của bị cáo để răn đe, giáo dục bị cáo trở thành người công dân tốt, có ích cho gia
đình và xã hội, đồng thời phòng ngừa tội phạm chung.
Khi lượng hình Hội đồng xét xử thấy rằng: Quá trình điều tra và tại phiên
tòa bị cáo đã thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải; phạm tội lần đầu và thuộc
trường hợp ít nghiêm trọng; bị cáo có bố đẻ là ông Lê Hải Đ được tặng thưởng
Huy chương kháng chiến hạng nhì và là thương binh hạng 4/4 với tỷ lệ mất sức
lao động do bệnh tật là 21% và là người hoạt động kháng chiến bị nhiễm chất
độc hóa học. Đây là những tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự được quy định
tại điểm i, s khoản 1, khoản 2 Điều 51 Bộ luật hình sự cần áp dụng cho bị cáo để
quyết định hình phạt cho phù hợp.
Xét tính chất, mức độ phạm tội của bị cáo thấy rằng: Bị cáo có nhân thân
tốt, có nơi cư trú rõ ràng, bị cáo có nhiều tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự
quy định tại khoản 1, 2 Điều 51 - Bộ luật hình sự và để thể hiện tính khoan hồng
của pháp luật, Hội đồng xét xử xét thấy không cần buộc bị cáo phải chấp hành
hình phạt tù giam, mà cho bị cáo được hưởng án treo, đồng thời ấn định thời
gian thử thách và giao bị cáo cho Ủy ban nhân dân xã Vinh Quang, huyện Chiêm
Hóa, tỉnh Tuyên Quang nơi bị cáo cư trú để giám sát, giáo dục trong thời gian
thử thách cũng đủ răn đe, giáo dục đối với bị cáo.
[4] Về vật chứng: Quá trình điều tra Cơ quan điều tra tạm giữ 01 xe ôtô
nhãn hiệu FORD EVEREST, biển số 20A-144.82; 01 chứng nhận đăng kí xe
7
ôtô; 01 giấy chứng nhận kiểm định an toàn kỹ thuật và bảo vệ môi trường,
phương tiện giao thông cơ giới đường bộ; 01 giấy chứng nhận bảo hiểm tự
nguyện, bắt buộc TNDS của chủ xe ôtô, ngày 29/6/2023, Cơ quan Cảnh sát điều
tra Công an huyện Yên Sơn đã trả lại xe ôtô biển số 20A-144.82 cùng các giấy
tờ liên quan đến phương tiện cho anh Lê Trung D là chủ sở hữu hợp pháp; 01
giấy phép lái xe ôtô số 190214018390 hạng C mang tên Lê Hồng Ph ngày
05/9/2023 Tòa án đã trả lại cho bị cáo, nên Hội đồng xét xử không đề cập xử lý.
[5] Đối với hành vi điều khiển xe chạy quá tốc độ cho phép của Lê Hồng
Ph. Ngày 05/7/2023, Phòng Cảnh sát giao thông Công an tỉnh Tuyên Quang đã ra
Quyết định xử phạt vi phạm hành chính đối với Ph về hành vi Điều khiển xe chạy
quá tốc độ quy định từ 05km/h đến dưới 10km/h, phạt 900.000 đồng (Phong đã nộp
phạt ngày 13/7/2023), nên Hội đồng xét xử không đề cập xử lý.
[6] Về án phí: Bị cáo phải chịu án phí hình sự sơ thẩm theo quy định của pháp luật.
[7] Về quyền kháng cáo: Bị cáo và người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan
được quyền kháng cáo bản án theo quy định của pháp luật.
Vì các lẽ trên,
QUYẾT ĐỊNH:
Căn cứ vào Điều 330 của Bộ luật hình sự:
1. Tuyên bố: Bị cáo Lê Hồng Ph phạm tội “Chống người thi hành công vụ”.
- Áp dụng: Khoản 1 Điều 330, các điểm i, s khoản 1, khoản 2 Điều 51,
Điều 65 - Bộ luật hình sự;
- Xử phạt: Bị cáo Lê Hồng Ph 09 (chín) tháng tù, nhưng cho hưởng án treo, thời
gian thử thách là 01 (một) năm 06 (sáu) tháng. Thời gian thử thách tính từ ngày
tuyên án sơ thẩm (05/9/2023).
Giao bị cáo Lê Hồng Ph cho Ủy ban nhân dân xã V, huyện Ch, tỉnh Tuyên
Quang giám sát giáo dục trong thời gian thử thách. Trong thời gian thử thách nếu
người được hưởng án treo cố ý vi phạm nghĩa vụ theo quy định của Luật thi hành án
hình sự 02 lần trở lên, thì Tòa án có thể quyết định buộc người đó phải chấp hành
hình phạt tù của bản án đã cho hưởng án treo. Trường hợp thực hiện hành vi phạm
tội mới thì Tòa án buộc người đó phải chấp hành hình phạt của bản án trước và tổng
hợp với hình phạt của bản án mới theo quy định tại điều 56 của Bộ luật hình sự.
Trường hợp bị cáo thay đổi nơi cư trú thì thực hiện theo quy định tại Điều 92
Luật thi hành án hình sự.
2. Áp dụng các Điều 136, 331 và 333 Bộ luật tố tụng hình sự; Nghị quyết
326/2016/UBTVQHH14, ngày 30 tháng 12 năm 2016.
Buộc bị cáo phải nộp 200.000đồng (hai trăm nghìn đồng) án phí hình sự sơ thẩm.
Bị cáo được quyền kháng cáo bản án trong hạn 15 (mười lăm) ngày kể từ
ngày tuyên án; người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan vắng mặt tại phiên tòa
được quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 (mười lăm) ngày kể từ ngày
nhận được hay niêm yết bản án./.
8
Nơi nhận:
- TAND tỉnh Tuyên Quang;
- VKSND huyện Yên Sơn;
- VKSND tỉnh Tuyên Quang;
- Công an huyện Yên Sơn;
- Sở Tư pháp tỉnh Tuyên Quang;
- Chi cục T.H.A DS huyện Yên Sơn;
- UBND xã V, huyện Ch;
- Lưu.
T/M HỘI ĐỒNG XÉT XỬ SƠ THẨM
THẨM PHÁN - CHỦ TỌA PHIÊN TÒA
Mạc Văn Tuyến
Tải về
Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để tải file. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!
Bản án/ Quyết định cùng đối tượng
1
Ban hành: 07/03/2024
Cấp xét xử: Sơ thẩm
2
Ban hành: 22/11/2023
Cấp xét xử: Sơ thẩm
3
Ban hành: 31/10/2023
Cấp xét xử: Sơ thẩm
4
Ban hành: 06/09/2023
Cấp xét xử: Sơ thẩm
5
Ban hành: 14/07/2023
Cấp xét xử: Sơ thẩm
6
Ban hành: 04/07/2023
Cấp xét xử: Sơ thẩm
7
Ban hành: 21/06/2023
Cấp xét xử: Sơ thẩm
8
Ban hành: 19/06/2023
Cấp xét xử: Sơ thẩm
9
Ban hành: 19/06/2023
Cấp xét xử: Sơ thẩm
10
Ban hành: 05/06/2023
Cấp xét xử: Sơ thẩm
11
Ban hành: 30/05/2023
Cấp xét xử: Sơ thẩm
12
Ban hành: 09/05/2023
Cấp xét xử: Sơ thẩm
13
Bản án số 54/2023/HS-PT ngày 09-05-2023 của TAND tỉnh Long An về về tội chống người thi hành công vụ
Ban hành: 09/05/2023
Cấp xét xử: Sơ thẩm
14
Ban hành: 14/04/2023
Cấp xét xử: Sơ thẩm
15
Ban hành: 31/03/2023
Cấp xét xử: Sơ thẩm
16
Ban hành: 13/01/2023
Cấp xét xử: Sơ thẩm
17
Ban hành: 28/11/2022
Cấp xét xử: Sơ thẩm
18
Bản án số 71/2022/HS-PT ngày 06/10/2022 của TAND tỉnh Ninh Thuận về tội chống người thi hành công vụ
Ban hành: 06/10/2022
Cấp xét xử: Sơ thẩm
19
Ban hành: 30/09/2022
Cấp xét xử: Sơ thẩm