Bản án số 06/2023/HS-PT ngày 31-03-2023 của TAND tỉnh Hà Giang về về tội chống người thi hành công vụ
- Thuộc tính
- Nội dung
- VB gốc
- VB liên quan
- Lược đồ
- Đính chính
- Án lệ
- BA/QĐ cùng tội danh
- Tải về
Tải văn bản
-
06_2023_HS-PT_ HA GIANG
Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để tải file. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!
-
06_2023_HS-PT_ HA GIANG
Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để tải file. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!
Báo lỗi
Thuộc tính Bản án 06/2023/HS-PT
| Tên Bản án: | Bản án số 06/2023/HS-PT ngày 31-03-2023 của TAND tỉnh Hà Giang về về tội chống người thi hành công vụ |
|---|---|
| Tội danh: | 257.Tội chống người thi hành công vụ (Bộ luật hình sự năm 1999) |
| Cấp xét xử: | Phúc thẩm |
| Tòa án xét xử: | TAND tỉnh Hà Giang |
| Số hiệu: | 06/2023/HS-PT |
| Loại văn bản: | Bản án |
| Ngày ban hành: | 31/03/2023 |
| Lĩnh vực: | Hình sự |
| Áp dụng án lệ: |
Đã biết
Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để xem áp dụng án lệ. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây! |
| Đính chính: |
Đã biết
Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để xem đính chính. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây! |
| Thông tin về vụ án: | Hoàng Văn V phạm tội “Chống người thi hành công vụ” |
Tóm tắt Bản án
Nội dung tóm tắt đang được cập nhật, Quý khách vui lòng quay lại sau!
Tải văn bản

1
NHÂN DANH
NƯỚC CỘNG HÒA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM
TÒA ÁN NHÂN DÂN TỈNH HÀ GIANG
- Thành phần Hội đồng xét xử phúc thẩm gồm có:
Thẩm phán - Chủ tọa phiên tòa: Bà Hoàng Thị Vân.
Các Thẩm phán:
1. Ông Hoàng Văn Tiến;
2. Bà Đỗ Thị Kim Quy.
- Thư ký phiên tòa: Ông Vũ Văn Thuận - Thẩm tra viên Tòa án nhân dân tỉnh
Hà Giang.
- Đại diện Viện kiểm sát nhân tỉnh Hà Giang tham gia phiên tòa: Ông Trần
Quốc Hùng - Kiểm sát viên.
Ngày 31/3/2023, tại Phòng xử án hình sự, Tòa án nhân dân tỉnh Hà Giang xét xử
phúc thẩm công khai vụ án hình sự thụ lý số 06/2023/TLPT-HS ngày 01/3/2023. Do
có kháng cáo của bị cáo Hoàng Văn V đối với Bản án hình sự sơ thẩm số 02/2023/HS-
ST ngày 18/01/2023 của Tòa án nhân dân huyện B, tỉnh Hà Giang.
- Bị cáo có kháng cáo:
Hoàng Văn V, sinh ngày 20/12/1991 tại huyện B, tỉnh Hà Giang. Nơi đăng ký
HKTT: Thôn P, xã Đ, huyện B, tỉnh Hà Giang; nơi tạm trú: Ngõ 6, phường N, quận L,
thành phố Hà Nội; nghề nghiệp: Lao động tự do; trình độ học vấn: 12/12; dân tộc:
Kinh; giới tính: Nam; tôn giáo: Không; quốc tịch: Việt Nam; CCCD số: 002… do Cục
cảnh sát quản lý hành chính về trật tự xã hội cấp ngày 04/10/2021; con ông Hoàng Văn
D (đã chết) và bà Vũ Thị T (đã chết); vợ là Lưu Thị N, sinh năm 1990, có 01 con sinh
năm 2016; Tiền án, tiền sự: Không; nhân thân: Không; bị bắt tạm giữ ngày 20/9/2022
đến ngày 29/9/2022 được áp dụng biện pháp cấm đi khỏi nơi cư trú. Có mặt.
Những người tham gia tố tụng khác được Tòa án triệu tập:
- Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan đến vụ án:
+ Anh Hoàng Văn V1, sinh năm 1985. Địa chỉ: Thôn Đ, xã Đ, huyện B, tỉnh Hà
Giang. Có mặt.
+ Ông Vi Hiệu T1, sinh năm 1971. Địa chỉ: Thôn Đ2, xã Đ, huyện B, tỉnh Hà
Giang. Có mặt.
TÒA ÁN NHÂN DÂN
TỈNH HÀ GIANG
CỘNG HÒA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM
Độc lập - Tự do - Hạnh phúc
Bản án số: 06/2023/HS-PT
Ngày 31/3/2023
2
+ Anh Vi Văn H, sinh năm 1987. Địa chỉ: Thôn K, xã Đ, huyện B, tỉnh Hà Giang.
Có mặt.
+ Anh Lương Văn H1, sinh năm 1993. Địa chỉ: Thôn Đ, xã Đ, huyện B, tỉnh Hà
Giang. Có mặt.
- Người làm chứng:
+ Bà Đặng Thúy N1. Có mặt.
+ Bà Mạc Thị M. Có mặt.
NỘI DUNG VỤ ÁN:
Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án
được tóm tắt như sau:
Ngày 08/9/2022, Uỷ ban nhân dân (UBND) xã Đ đã ban hành Kế hoạch số
264/KH-UBND để bảo vệ thi công Dự án xây dựng đường dây 220KV mạch kép đấu
nối Trạm biến áp 220KV B (khoảng néo VT51-VT58) tại thôn Đ2, xã Đ, huyện B, tỉnh
Hà Giang và được UBND huyện B phê duyệt tại Quyết định số 6028/QĐ-UBND ngày
14/9/2022. Theo Kế hoạch số 264/KH-UBND phân công lực lượng tham gia thành 06
tổ và nhiệm vụ khác nhau. Toàn bộ Kế hoạch do ông Vi Hiệu T1 - Chủ tịch UBND xã
làm tổng chỉ huy, chỉ đạo, điều hành toàn bộ quá trình bảo vệ thi công tại thực địa.
Thời gian các tổ công tác bảo vệ thi công là 12 ngày bắt đầu thực hiện từ 07 giờ 30
phút ngày 15/9/2022 đến ngày 26/9/2022.
Khoảng 08 giờ 00 phút ngày 20/9/2022, Hoàng Văn V đi xe ô tô khách từ thành
phố Hà Nội để về Hà Giang, khi xe khách đi đến ngã ba thị trấn V4, huyện B, tỉnh Hà
Giang, V xuống xe khách và bắt taxi để đi về nhà tại thôn P, xã Đ, huyện B. Đến khoảng
13 giờ 30 phút khi đang ngồi trên xe gần đến nhà nhìn thấy anh vợ là Lưu Văn N2, sinh
năm 1987 trú tại thôn V2, xã V3, huyện B, tỉnh Hà Giang cùng một số anh em đứng gần
đường trước cửa nhà anh Nguyễn Văn T2, sinh năm 1979 và đối diện là mảnh đất nhà
anh N2 thuộc thôn Đ2 thì V đã xuống xe để hỏi thăm. Khi xuống xe, V thấy mọi người
chạy sang khu vực đất nhà anh N2 đang có các cán bộ đóng cọc giăng dây treo tờ giấy
có ghi dòng chữ “KHU VỰC BẢO VỆ THI CÔNG CẤM QUAY PHIM CHỤP ẢNH”
và “KHU VỰC THI CÔNG KHÔNG PHẬN SỰ MIỄN VÀO” đồng thời có dùng loa
tuyên truyền vận động mọi người đi ra khỏi khu vực bảo vệ thi công. Lúc này, anh N2
cùng một số anh em họ hàng đứng ở diện tích đất đang bảo vệ thi công có lời nói phản
đối Tổ bảo vệ thi công nên V đi vào khu vực giăng dây rồi trèo lên thanh kim loại giằng
níu cột trụ, đứng bám vào cột trụ, V vào ứng dụng Facebook trên điện thoại di động màn
hình cảm ứng của mình nhãn hiệu OPPO, vỏ màu đen có số thuê bao 0368686217 với
tên tài khoản là“Hoang V” quay phát trực tiếp công khai hình ảnh Tổ bảo vệ thi công
đang làm nhiệm vụ và khi phát trực tiếp V đã nói:“Cưỡng chế không có văn bản, đất
chưa được đền bù vào cưỡng chế, cướp đất, Công an thuê xã hội đen, Công an đánh
người”….Mặc dù, đã được Tổ bảo vệ thi công tuyên truyền vận động V đi ra khỏi khu
vực bảo vệ thi công nhưng V không chấp hành, V tiếp tục bám chặt vào cột trụ bằng kim
loại cao 15m đến 20m phía trên đỉnh cột có gắn một số thanh kim loại hình móc câu,
phía dưới cột có giằng níu các thanh kim loại và buộc dây thép để giữ cột đứng vững
3
không bị đổ (cột trụ bằng kim loại do gia đình Lưu Văn N2 tự ý dựng sau thời điểm ngày
15/9/2022, sau khi tổ thi công triển khai thực hiện nhiệm vụ). Do V có hành vi cản trở,
không chấp hành nên đồng chí Vi Hiệu T1 chỉ đạo đồng chí Hoàng Văn V1 là Công an
viên bán chuyên trách, đồng chí Lương Văn H1 và đồng chí Vi Văn H là dân quân tự vệ
tiếp cận đưa V từ trên cột trụ xuống dưới đất để ra khỏi khu vực thi công, đồng chí V1
cầm vào bên tay phải, đồng chí H1 cầm vào bên tay trái V, đồng chí H đỡ phía sau lưng
nhấc V đưa ra khỏi khu vực thi công, V không đi ra nên đã giằng co, đi được vài bước
thì V có hành động ngồi thấp xuống dùng hai chân đẩy người lùi về phía sau không đi
ra nhưng đồng chí V1, H1 và H kéo đỡ dậy đưa V đi ra, đi được một vài bước V quay
sang nhìn đồng chí V1 rồi dùng chân phải ngáng sang hai chân đồng chí V1, đồng chí
V1 đã bước qua nhưng ngay sau đó V tiếp tục đưa chân phải sang ngáng phía trước hai
chân đồng chí V1 làm đồng chí V1 ngã nhào xuống đất, vùng đầu, tay phải va chạm
xuống đất dẫn đến bị thương tích, thấy V có hành vi chống đối tổ công tác đang thi hành
nhiệm vụ. Tổ công tác Công an huyện B tiến hành lập biên bản bắt người phạm tội quả
tang, đồng thời đưa đồng chí V1 đến Phòng khám đa khoa khu vực xã Đ thăm khám và
điều trị thương tích.
Ngày 13/10/2022, Cơ quan CSĐT Công an huyện B ra Quyết định Trưng cầu
giám định số 202, trưng cầu Viện khoa học hình sự - Bộ Công an giám định các video
clip thu giữ từ điện thoại di động của người làm chứng La Văn H2, Mạc Thị M, từ máy
quay phim của Nguyễn Thanh B Cán bộ Trung tâm VHTT và DL huyện B và từ điện
thoại di động của Hoàng Văn V có quay lại hình ảnh liên quan đến hành vi Chống người
thi hành công vụ của V xảy ra ngày 20/9/2022.
Tại Kết luận giám định số 6946/KL-KTHS, ngày 26/10/2022 của Viện khoa học
hình sự - Bộ Công an kết luận: không phát hiện thấy dấu vết cắt ghép, chỉnh sửa nội
dung hình ảnh các file video mẫu cần giám định.
Ngày 26/10/2022, Cơ quan CSĐT Công an huyện B đã ra Quyết định trưng cầu
giám định thương tích số 218, trưng cầu Trung tâm pháp y tỉnh Hà Giang giám định
thương tích của đồng chí Hoàng Văn V1 để xác định tỷ lệ tổn hại phần trăm sức khỏe.
Tại Bản kết luận giám định Pháp y thương tích số 101/TgT, ngày 31/10/2022
của Trung tâm pháp y - Sở y tế tỉnh Hà Giang kết luận: Tỷ lệ tổn thương cơ thể do
thương tích gây nên tại thời điểm giám định đối với Hoàng Văn V1 là: 01% (Một phần
trăm). Cơ chế hình thành vết thương: vết biến đổi, rối loạn sắc tố da mặt trong 1/3 dưới
cẳng tay phải do vật có cạnh tác động một lực vừa hoặc có vật cản, hướng chếch chéo với
mặt da gây nên xước da để lại vết biến đổi, rối loạn sắc tố da, không tổn thương xương.
Ngày 05/12/2022, Viện kiểm sát nhân dân huyện B đã ra Quyết định trưng cầu giám
định kỹ thuật số điện tử số 01, trưng cầu phòng kỹ thuật hình sự - Công an tỉnh Tuyên
Quang mô tả diễn biến hành động của Hoàng Văn V (người đàn ông đội mũ lưỡi chai
màu trắng, mặc áo chống nắng màu tím than, quần sóc màu đen, đeo 01(một) túi xách
chéo trước ngực, tay phải cầm điện thoại) và những người liên quan xuất hiện trong
video clip có tên 7622977884502481764 với thời lượng 02 phút 15 giây. Tại Kết luận
giám định số 1507/KL-KTHS, ngày 12/12/2022 của phòng Kỹ thuật hình sự- Công an
4
tỉnh Tuyên Quang kết luận: Đặc điểm về người, hành động của những người có liên quan
trong video gửi giám định được mô tả chi tiết trong bản ảnh giám định kèm theo.
Bản án sơ thẩm số 02/2023/HS-ST ngày 18/01/2023 của Tòa án nhân dân huyện
B, tỉnh Hà Giang đã Quyết định:
Căn cứ vào khoản 1 Điều 330, điểm i khoản 1 Điều 51, Điều 38, Điều 50, Điều
47 của Bộ luật Hình sự; Điều 106, khoản 2 Điều 136, Điều 331, Điều 333 và Điều 337
của Bộ luật Tố tụng hình sự; điểm a khoản 1 Điều 23 Nghị quyết số
326/2016/UBTVQH14 ngày 30-12-2016 của UBTVQH quy định về mức thu, miễn,
giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án.
1. Tuyên bố: Bị cáo Hoàng Văn V phạm tội “Chống người thi hành công vụ”.
2. Hình phạt: Xử phạt bị cáo 01 (một) năm tù, thời hạn tù tính từ ngày bị cáo đi
thi hành án phạt tù, bị cáo được khấu trừ thời gian tạm giữ từ ngày 20/9/2022 đến ngày
29/9/2022.
Ngoài ra Bản án còn quyết định về phần xử lý vật chứng, án phí và quyền kháng
cáo của bị cáo và người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan đến vụ án.
Ngày 31/01/2023, bị cáo Hoàng Văn V có đơn kháng cáo toàn bộ bản án sơ thẩm
với nội dung kêu oan, đề nghị tuyên bị cáo không phạm tội. Bị cáo đề nghị xem xét lại
trình tự, thủ tục trong quá trình thu hồi đất của gia đình bị cáo, đề nghị xem xét lại việc
gia đình bị cáo chưa nhận được Thông báo thu hồi đất; quyết định thu hồi đất và các
giấy tờ liên quan. UBND huyện và UBND xã Đ phê duyệt, sử dụng nhiều người tham
gia tổ công tác bảo vệ thi công nhưng không phải là công chức, viên chức, sĩ quan, hạ
sĩ quan theo quy định tại Nghị định 208 ngày 17/12/2013 của Chính phủ quy định các
biện pháp phòng ngừa, ngăn chặn và xử lý hành vi chống người thi hành công vụ, như
vậy quyết định phê duyệt của UBND huyện có hợp lý, có hợp pháp không ? Ông Hoàng
Văn V1 không phải là công chức, viên chức, sĩ quan, hạ sĩ quan. Ông Lương Văn H1,
ông Vi Văn H không có trong danh sách những người tham gia bảo vệ thi công theo
Quyết định 6028 của UBND huyện B, tỉnh Hà Giang. Đề nghị cấp phúc thẩm tiến hành
bổ sung lời khai của cơ quan có thẩm quyền của huyện B và vợ chồng ông Lưu Văn
N2 để làm rõ trình tự, thủ tục thu hồi đất, bồi thường, hỗ trợ tài sản khi nhà nước thu
hồi đất.
Tại phiên tòa, bị cáo V giữ nguyên nội dung kháng cáo kêu oan, bị cáo cho rằng
bị cáo không phạm tội Chống người thi hành công vụ.
Đại diện Viện Kiểm sát nhân dân tỉnh Hà Giang thực hành quyền công tố kiểm
sát xét xử tại phiên tòa; đã phân tích về quá trình tiến hành tố tụng của Cơ quan điều
tra, truy tố của Viện kiểm sát nhân dân huyện B, quá trình xét xử của Tòa án nhân dân
huyện B; lời trình bày của người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan; lời khai người làm
chứng; Biên bản bắt người phạm tội quả tang; Biên bản thu giữ vật chứng; Biên bản
làm việc (BL 80-81); Bản ảnh thể hiện hành vi chống đối (BL 98-101); Bản ảnh giám
định; Biên bản, Bản ảnh xem xét dấu vết trên thân thể; Bản kết luận giám định pháp y
thương tích đề nghị Hội đồng xét xử: Căn cứ điểm a khoản 1, khoản 2 Điều 355; Điều
356, Điều 136 của Bộ luật Tố tụng hình sự; Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày
5
30/12/2016/UBTVQH của Ủy ban Thường vụ Quốc hội không chấp nhận kháng cáo
của bị cáo Hoàng Văn V; giữ nguyên Bản án sơ thẩm số 02/2023/HS-ST ngày
18/01/2023 của Toà án nhân dân huyện B, tỉnh Hà Giang; bị cáo phải chịu tiền án phí
hình sự phúc thẩm.
Lời nói sau cùng của bị cáo: Bị cáo không nhất trí với bản án của Toà án cấp sơ
thẩm, bị cáo cho rằng bị cáo không phạm tội, đề nghị Hội đồng xét xử tuyên bị cáo
không phạm tội.
NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN
Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu, chứng cứ trong hồ sơ vụ án đã
được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:
[1] Về thủ tục tố tụng: Sau khi xét xử sơ thẩm ngày 31/01/2023 bị cáo Hoàng
Văn V có đơn kháng cáo trong hạn luật định quy định tại Điều 331, 332 và Điều 333
của Bộ luật Tố tụng hình sự, nên kháng cáo của bị cáo là hợp pháp được Tòa án chấp
nhận để xem xét theo trình tự phúc thẩm.
[2] Xét kháng cáo kháng cáo kêu oan của bị cáo Hoàng Văn V, Hội đồng xét xử
xét thấy: Tại phiên tòa phúc thẩm bị cáo trình bày vào ngày 20/9/2022 khi bị cáo đi
qua khu vực đất của gia đình bị cáo do anh N2 (anh rể bị cáo) đang quản lý thấy có
nhiều người lạ mặt có mặt ở đó, bị cáo đã yêu cầu những người lạ mặt ra khỏi khu vực
đất của gia đình bị cáo, nhưng những người lạ đó không đi ra mà tiến hành đóng cọc
trên đất của gia đình bị cáo.... Bị cáo đã trèo lên cột sắt, sử dụng điện thoại của bị cáo
để quay video phát trực tiếp trên Facebook và hô“Cưỡng chế không có văn bản, đất
chưa được đền bù vào cưỡng chế, cướp đất, công an thuê xã hội đen, công an đánh
người” phát trực tiếp trên mạng xã hội với mục đích để ghi lại hình ảnh, bằng chứng
tổ công tác không thực hiện đúng trình tự, thủ tục thu hồi đất của gia đình bị cáo. Ngoài
ra bị cáo giữ nguyên các nội dung đã trình bày tại đơn kháng cáo của bị cáo và tại phiên
toà phúc thẩm bị cáo cho rằng trong quá trình điều tra bị cáo bị ép cung, mớm cung
làm cho bị cáo bị hoảng loạn tinh thần nên khai không đúng sự thật.
[3] Lời khai ban đầu của bị cáo tại Biên bản bắt người phạm tội quả tang ngày
20/9/2022 (bút lục 01 - 02), bị cáo thừa nhận khi bị cáo cùng bố vợ là ông Lưu Xuân
N3, mẹ vợ là Trần Thị V2, anh vợ là Lưu Văn N2, chị dâu tên là V3 và một số người
khác là người thân quen của gia đình bị cáo có mặt tại lô đất của gia đình bố vợ bị cáo,
bị cáo đã trèo lên bốn cột bằng kim loại đã được gia đình dựng sẵn trước đó, sử dụng
điện thoại di động quay phát trực tiếp trên mạng xã hội Faeebok để phản đối việc cơ
quan chức năng thi công việc kéo đường dây điện 220KV đường điện lưới Quốc gia
qua khu vực đất nhà bị cáo. Mặc dù bị cáo thấy cơ quan chức năng đóng cọc giăng dây
bảo vệ và treo tờ giấy trắng có in dòng chữ “không phận sự miễn vào”, tuy nhiên bị
cáo đã không chấp hành vẫn cố tình đi vào thực hiện hành vi phản đối, không chấp
hành dùng tay túm áo, xô đẩy lực lượng bảo vệ thực hiện nhiệm vụ và làm cho một
đồng chí ngã xuống đất.
[4] Lời khai của bị cáo V tại các bút lục số 148, 149, 151, 152, 155, 157, 158,
160, 161, 162, 172, 173 bị cáo trình bày khi bị cáo đến khu vực cơ quan chức năng đang
6
tiến hành thi công đường dây điện, bị cáo đã có hành vi trèo lên cột sắt sử dụng điện
thoại quay video hô cướp đất bà con ơi, công an thuê xã hội đen cướp đất. Mặc dù có
loa tuyên truyền, bị cáo được công an viên yêu cầu bị cáo đi ra khỏi khu vực thi công
nhưng bị cáo không chấp hành, không xuống, tiếp tục bám chặt vào cột kim loại với
mục đích không để cơ quan chức năng thực hiện nhiệm vụ tháo dỡ, thi công.
[5] Lời khai những người làm chứng có mặt tại khu vực thi công đường dây
220KV tại thôn Kem (bút lục 203, 205, 207) xác nhận nhìn thấy bị cáo V có hành vi
chống đối tổ bảo vệ, đi vào khu vực giăng dây, trèo lên trụ cột bằng kim loại đứng bám
vào đó dùng điện thoại quay ghi lại hình ảnh phát trực tiếp, dùng lời nói không đúng
sự thật. Trong lúc anh V1, anh H1, anh H yêu cầu bị cáo ra khỏi khu vực thi công bị
cáo đã có hành vi chống đối, cản trở và trong lúc lôi kéo nhau thì anh V1 bị ngã xuống
đất, sau đó anh V1 được đưa đến phòng khám đa khoa Đ điều trị.
[6] Xét thấy lời khai của bị cáo tại cơ quan điều tra phù hợp với lời khai của
những người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan (Bút lục 177-187, 190-195,197-202), lời
khai người làm chứng (Bút lục 203-208), Biên bản thu giữ vật chứng (Bút lục 79), Bản
ảnh thể hiện hành vi của đối tượng (Bút lục 98 - 101), Kết luận giám định (Bút lục 109,
300), Bản ảnh giám định (Bút lục 301-313), Biên bản xem xét dấu vết trên thân thể
(Bút lục 04) và các tài liệu, chứng cứ khác có trong hồ sơ vụ án đã được thẩm tra tại
phiên toà. Tại phiên toà phúc thẩm bị cho rằng bị cáo cáo bị ép cung, mớm cung làm
cho bị cáo bị hoảng loạn tinh thần nhưng không đưa ra được chứng cứ chứng minh.
[7] Đối với nội dung bị cáo cho rằng ông Hoàng Văn V1, ông Hoàng Quốc H và
ông Lương Văn H1 không phải là công chức, viên chức khi tham gia tổ cưỡng chế.
Căn cứ Kế hoạch số 264/KH-UBND ngày 08/9/2022 của UBND xã Đ, huyện B (BL
114) đã được UBND huyện B phê duyệt thì ông V1 được giao tham gia với tư cách là
thành viên tổ bảo vệ số 03 và chịu sự chỉ đạo trực tiếp của tổ T1 là bà Hoàng Thị Hải
Y - Phó chủ tịch UBND xã Đ, ông Hoàng Quốc H và ông Lương Văn H1 là thành viên
tổ bảo vệ số 02 và chịu sự chỉ đạo trực tiếp của tổ T1 là ông Hoàng Văn B1- Phó chủ
tịch UBND xã Đ. Như vậy có đủ cơ sở xác định ông V1, ông H1 và ông H là người
đang thực thi công vụ do Chủ tịch UBND xã Đ, huyện B giao là thực hiện đúng nhiệm
vụ theo quy định.
[8] Đối với nội dung bị cáo đề nghị xem xét lại trình tự, thủ tục trong quá trình
thu hồi đất của gia đình bị cáo, xem xét lại việc gia đình bị cáo chưa nhận được Thông
báo thu hồi đất, quyết định thu hồi đất và các giấy tờ liên quan; đề nghị tiến hành bổ
sung lời khai của cơ quan có thẩm quyền của huyện B và lời khai vợ chồng ông Lưu
Văn N2 để làm rõ trình tự, thủ tục thu hồi đất, bồi thường, hỗ trợ tài sản khi nhà nước
thu hồi đất. Xét thấy, tại Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất số AB 795519 do UBND
huyện B cấp ngày 08/8/2006 mang tên ông Phạm Văn B, bà Vũ Thị T2 thể hiện việc
công nhận quyền sử dụng đất của ông B và bà T2 đối với diện tích đất 544m
2
thuộc
thửa 492
a
tại Đội 1, thôn Đ2, xã Đ, huyện B, tỉnh Hà Giang (Ngày 26/7/2019 đã đăng
ký biến động sang tên ông N2, bà V3 theo Hợp đồng chuyển nhượng số 73 ngày
16/7/2019). Tại biên bản ghi lời khai ngày 25/9/2022 (BL 152) bị cáo V xác nhận bản
thân không có quyền lợi, nghĩa vụ đối với diện tích đất bị thu hồi. Tuy nhiên tại biên

7
bản ghi lời khai ngày 28/11/2022 và tại phiên toà phúc thẩm bị cáo cho rằng bị cáo đã
góp số tiền 100 triệu đồng cùng anh N2 mua mảnh đất của ông B, nhưng bị cáo không
cung cấp được chứng cứ chứng minh quyền sử dụng hợp pháp đối với diện tích đất nêu
trên. Do đó không có căn cứ xem xét yêu cầu này của bị cáo.
[9] Từ những phân tích, đánh giá trên đây Hội đồng xét xử xét thấy mặc dù ngay
từ khi xét xử sơ thẩm và tại phiên tòa phúc thẩm bị cáo Hoàng Văn V đều kêu oan, cho
rằng bị cáo không phạm tội. Tuy nhiên, căn cứ vào kết quả tranh tụng công khai tại
phiên tòa sơ thẩm, phiên tòa phúc thẩm và các tài liệu có trong hồ sơ vụ án, có căn cứ
để khẳng định: Thực hiện Kế hoạch số 264/KH-UBND, ngày 08/9/2022 của UBND xã
Đ, huyện B, tỉnh Hà Giang bảo vệ thi công dự án Xây dựng đường dây 220KV mạch
kép đấu nối Trạm biến áp 220KV (Trạm néo VT51-VT5) tại thôn Đ2, xã Đ, huyện B
đã được phê duyệt tại Quyết định số 6028/QĐ-UBND, ngày 14/9/2022 của UBND
huyện B. UBND xã Đ do ông Vi Hiệu T1 - Chủ tịch UBND xã Đ trực tiếp chỉ đạo,
điều hành 6 tổ bảo vệ thi công trong 12 ngày, từ 7 giờ 30 phút ngày 15/9/2022 đến ngày
26/9/2022 tại thôn Đ2, xã Đ, huyện B, tỉnh Hà Giang đã và đang được tuyên truyền
đến các cá nhân, hộ gia đình khu vực đang thi công không phận sự miễn vào, không
chống đối, gây cản trở lực lượng bảo vệ thi công làm nhiệm vụ. Khoảng 14 giờ 30 phút
ngày 20/9/2022, Hoàng Văn V tự ý vào khu vực thi công và đã có hành vi cản trở lượng
bảo vệ thi công như: Trèo và bám vào cột trụ kim loại, dùng điện thoại di động trực
tiếp quay khu vực đang thi công, lớn tiếng la hét “Cưỡng chế không có văn bản, đất
chưa được đền bù vào cưỡng chế, cướp đất, công an thuê xã hội đen, công an đánh
người” phát trực tiếp trên mạng xã hội, kêu gọi mọi người chia sẻ. Mặc dù được tổ bảo
vệ thi công yêu cầu bị cáo V ra khỏi khu vực thi công nhưng bị cáo V không chấp hành,
không xuống, tiếp tục bám chặt vào cột kim loại. Khi tổ bảo vệ gồm các ông Hoàng
Văn V1 mặc sắc phục công an viên, Lương Văn H1, Vi Văn H thực hiện chỉ đạo của
ông Vi Hiệu T1 đưa Hoàng Văn V ra khỏi khu vực thi công thì V có hành vi chống đối
bám chặt vào cột kim loại, giằng co không chịu đi ra, ngồi thấp xuống dùng hai chân
dang rộng đẩy lùi người về phía sau trong quá trình giằng co chân phải của bị cáo đã
đặt vào tư thế giữa hai chân của ông V1 làm ông V1 vấp vào chân bị cáo ngã nhào đập
đầu xuống đất với tư thế nằm nghiêng sang phải, bị cáo ngã theo vai và tay của bị cáo
đè vùng đầu ông V1 gây thương tích cho ông V1 là 1%. Vì vậy, Tòa án cấp sơ thẩm
xét xử bị cáo Hoàng Văn V về tội “Chống người thi hành công vụ” theo khoản 1 Điều
330 của Bộ luật Hình sự năm 2015 là đúng người, đúng tội, đúng pháp luật, theo đó
Hội đồng xét xử không chấp nhận kháng cáo kêu oan của bị cáo Hoàng Văn V.
[10] Căn cứ tính chất, mức độ, hậu quả, các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm
hình sự Tòa án cấp sơ thẩm xử phạt bị cáo Hoàng Văn V 01 (một) năm tù về tội “Chống
người thi hành công vụ” là phù hợp với tính chất, mức độ hành vi của bị cáo.
[11] Đối với đề nghị của Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Hà Giang phù hợp với quy
định của pháp luật nên được Hội đồng xét xử xem xét, chấp nhận. Căn cứ điểm a khoản
1, khoản 2 Điều 355, Điều 356 Bộ luật tố tụng Hình sự, không chấp nhận kháng cáo kêu
oan của bị cáo Hoàng Văn V, giữ nguyên Bản án hình sự sơ thẩm số 03/2023/HS-ST
ngày 18/01/2023 của Tòa án nhân dân huyện B, tỉnh Hà Giang.

8
[12] Về xử lý vật chứng: Đối với vật chứng là 01 (một) điện thoại di động màn hình
cảm ứng, nhãn hiệu: OPPO, mặt trước có nhiều vết nứt, mặt sau màu đen, cũ đã qua sử
dụng là phương tiện bị cáo sử dụng để thực hiện hành vi phạm tội nên Hội đồng xét xử
cấp sơ thẩm áp dụng Điều 47 BLHS tịch thu, nộp ngân sách nhà nước là có căn cứ.
[13] Về án phí: Kháng cáo của bị cáo không được chấp nhận nên bị cáo phải chịu
án phí hình sự phúc thẩm theo quy định tại Điều 136 Bộ luật Tố tụng hình sự và Nghị
quyết số 326/2016/NQ-UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội.
Vì các lẽ trên,
QUYẾT ĐỊNH:
Căn cứ điểm a khoản 1, khoản 2 Điều 355; Điều 356 Bộ luật Tố tụng hình sự; không
chấp nhận kháng cáo của bị cáo Hoàng Văn V; giữ nguyên Bản án sơ thẩm số 02/2023/HS-
ST ngày 18/01/2023 của Tòa án nhân dân huyện B, tỉnh Hà Giang.
1. Tuyên bố: Bị cáo Hoàng Văn V phạm tội “Chống người thi hành công vụ”.
2. Hình phạt: Áp dụng khoản 1 Điều 330, điểm i khoản 1 Điều 51, Điều 38, Điều
50 của Bộ luật Hình sự, xử phạt bị cáo Hoàng Văn V 01 (một) năm tù, thời hạn tù tính
từ ngày bị cáo đi thi hành án phạt tù, được khấu trừ thời gian tạm giữ từ ngày 20/9/2022
đến ngày 29/9/2022.
3. Về xử lý vật chứng: Áp dụng Điều 47 Bộ luật Hình sự và Điều 106 Bộ luật Tố
tụng Hình sự tịch thu và nộp ngân sách nhà nước 01 (một) điện thoại di động màn hình
cảm ứng, nhãn hiệu: OPPO, mặt trước có nhiều vết nứt vỡ, mặt sau màu đen, cũ đã qua
sử dụng.
Tình trạng vật chứng như biên bản giao nhận vật chứng giữa cơ quan công an
huyện B và Chi cục thi hành án dân sự huyện B ngày 19/12/2022).
4. Về án phí: Áp dụng Điều 136 Bộ luật Tố tụng hình sự; điểm b khoản 2 Điều
23 Nghị quyết số 326/2016/NQ-UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ
Quốc hội, buộc bị cáo Hoàng Văn V phải chịu 200.000đ (Hai trăm nghìn đồng) án phí
hình sự phúc thẩm.
5. Các quyết định khác tại Bản án hình sự sơ thẩm số 02/2023/HS-ST ngày
18/01/2023 của Tòa án nhân dân huyện B, tỉnh Hà Giang không có kháng cáo, không
bị kháng nghị có hiệu lực pháp luật kể từ ngày hết thời hạn kháng cáo, kháng nghị.
“Trường hợp bản án, quyết định được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật
thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân dự
có quyền thoả thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án
hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại Điều 6,7, 7a và 9 Luật thi hành án dân
sự; thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật thi hành án
dân sự”.
Bản án phúc thẩm có hiệu lực pháp luật kể từ ngày tuyên án./.
Nơi nhận:
- VKSND tỉnh Hà Giang;
TM. HỘI ĐỒNG XÉT XỬ PHÚC THẨM

9
- PV 06 Công an tỉnh;
- TAND huyện B (04 bản);
- VKSND huyện B;
- Công an huyện B (02 bản);
- Trại Tạm giam tỉnh Hà Giang;
- Chi cục THADS huyện B;
- Sở tư pháp;
- Những người tham gia tố tụng;
- Lưu HS, bộ phận.
THẨM PHÁN - CHỦ TỌA PHIÊN TÒA
Hoàng Thị Vân
10
Tải về
Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để tải file. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!
Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để tải file. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!
Bản án/ Quyết định cùng đối tượng
1
Ban hành: 07/03/2024
Cấp xét xử: Phúc thẩm
2
Ban hành: 22/11/2023
Cấp xét xử: Phúc thẩm
3
Ban hành: 31/10/2023
Cấp xét xử: Phúc thẩm
4
Ban hành: 06/09/2023
Cấp xét xử: Phúc thẩm
5
Ban hành: 05/09/2023
Cấp xét xử: Phúc thẩm
6
Ban hành: 14/07/2023
Cấp xét xử: Phúc thẩm
7
Ban hành: 04/07/2023
Cấp xét xử: Phúc thẩm
8
Ban hành: 21/06/2023
Cấp xét xử: Phúc thẩm
9
Ban hành: 19/06/2023
Cấp xét xử: Phúc thẩm
10
Ban hành: 19/06/2023
Cấp xét xử: Phúc thẩm
11
Ban hành: 05/06/2023
Cấp xét xử: Phúc thẩm
12
Ban hành: 30/05/2023
Cấp xét xử: Phúc thẩm
13
Ban hành: 09/05/2023
Cấp xét xử: Phúc thẩm
14
Bản án số 54/2023/HS-PT ngày 09-05-2023 của TAND tỉnh Long An về về tội chống người thi hành công vụ
Ban hành: 09/05/2023
Cấp xét xử: Phúc thẩm
15
Ban hành: 14/04/2023
Cấp xét xử: Phúc thẩm
16
Ban hành: 13/01/2023
Cấp xét xử: Phúc thẩm
17
Ban hành: 28/11/2022
Cấp xét xử: Phúc thẩm
18
Bản án số 71/2022/HS-PT ngày 06/10/2022 của TAND tỉnh Ninh Thuận về tội chống người thi hành công vụ
Ban hành: 06/10/2022
Cấp xét xử: Phúc thẩm
19
Ban hành: 30/09/2022
Cấp xét xử: Phúc thẩm