Bản án số 41/2023/HS-ST ngày 05/06/2023 của TAND TP. Sông Công, tỉnh Thái Nguyên về tội chống người thi hành công vụ
- Thuộc tính
- Nội dung
- VB gốc
- VB liên quan
- Lược đồ
- Đính chính
- Án lệ
- BA/QĐ cùng tội danh
- Tải về
-
Bản án số 41/2023/HS-ST
Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để tải file. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!
Thuộc tính Bản án 41/2023/HS-ST
Tên Bản án: | Bản án số 41/2023/HS-ST ngày 05/06/2023 của TAND TP. Sông Công, tỉnh Thái Nguyên về tội chống người thi hành công vụ |
---|---|
Tội danh: | 257.Tội chống người thi hành công vụ (Bộ luật hình sự năm 1999) |
Cấp xét xử: | Sơ thẩm |
Tòa án xét xử: | TAND TP. Sông Công (TAND tỉnh Thái Nguyên) |
Số hiệu: | 41/2023/HS-ST |
Loại văn bản: | Bản án |
Ngày ban hành: | 05/06/2023 |
Lĩnh vực: | Hình sự |
Áp dụng án lệ: |
Đã biết
Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để xem áp dụng án lệ. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây! |
Đính chính: |
Đã biết
Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để xem đính chính. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây! |
Thông tin về vụ án: |
Nội dung tóm tắt đang được cập nhật, Quý khách vui lòng quay lại sau!
Tải văn bản
TÒA ÁN NHÂN DÂN THÀNH PHỐ SÔNG CÔNG, TỈNH THÁI NGUYÊN
BẢN ÁN 41/2023/HS-ST NGÀY 05/06/2023 VỀ TỘI CHỐNG NGƯỜI THI HÀNH CÔNG VỤ
Ngày 05 tháng 6 năm 2023 tại trụ sở Tòa án nhân dân thành phố Sông Công, tỉnh Thái Nguyên xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự sơ thẩm thụ lý số 41/2023/TLST-HS ngày 28 tháng 4 năm 2023 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 46/2023/QĐXXST-HS ngày 22 tháng 5 năm 2023 đối với bị cáo:
Họ và tên: Nguyễn Đức Q; Tên gọi khác: Không; sinh ngày 12/11/2002; Nơi thường trú: Xóm 6, xã P, thành phố Phổ Yên, tỉnh Thái Nguyên; Nghề nghiệp: Công nhân; Trình độ văn hoá: 12/12; Dân tộc: Kinh; Tôn giáo: Không; Quốc tịch: Việt Nam; Con ông Nguyễn Văn B và bà Nguyễn Thị Thúy V; có vợ: Nguyễn Thị Lan A; chưa có con; Tiền án, tiền sự: Không; bị cáo bị giữ, bắt người bị giữ từ ngày 02/3/2023 đến ngày 05/3/2023, hiện bị áp dụng biện pháp ngăn chặn cấm đi khỏi nơi cư trú; có mặt.
- Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan:
+ Anh Ngô Quốc Ph, sinh năm 1988; Trú tại: Tổ 2, phường C, thành phố Th, tỉnh Thái Nguyên; có đơn xin xét xử vắng mặt.
+ Ông Nguyễn Văn B, sinh năm 1977 (bố đẻ bị cáo); Trú tại: Xóm 6, xã Ph, thành phố Ph, tỉnh Thái Nguyên; có mặt.
- Người làm chứng:
+ Anh Nguyễn Văn D, sinh năm 1985; Trú tại: Xóm Đ, xã Đ, huyện Phú Bình, tỉnh Thái Nguyên; vắng mặt.
+ Anh Lại Trung D, sinh năm 1990; Trú tại: Tổ 5, phường M, thành phố Sông Công, tỉnh Thái Nguyên; vắng mặt.
+ Anh Diệp Thanh T, sinh năm 2004; Trú tại: TDP C, phường B thành phố Sông Công, tỉnh Thái Nguyên; vắng mặt.
+ Anh Phạm Đăng D, sinh năm 2004; Trú tại: TDP C, phường B, thành phố Sông Công, tỉnh Thái Nguyên; vắng mặt.
NỘI DUNG VỤ ÁN:
Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:
Thực hiện kế hoạch số 393/KH-CASC(CSGT) về việc tuần tra, kiểm soát, xử lý vi phạm về trật tự an toàn giao thông thường xuyên tháng 3 năm 2023 và Kế hoạch công tác tuần (từ ngày 01/3/2023 đến ngày 06/3/2023)của Đội Cảnh sát giao thông- Trật tự (CSGT-TT) Công an thành phố Sông Công. Ngày 02/3/2023, Đội CSGT-TT phân công Đại úy Ngô Quốc P - Tổ trưởng có nhiệm vụ dừng P tiện, Đại úy Lại Trung D và Thượng úy Nguyễn Văn D - Tổ viên có nhiệm vụ kiểm tra giấy tờ P tiện, lập biên bản vi phạm hành chính tiến hành tuần tra, kiểm soát, xử lý vi phạm về trật tự an toàn giao thông trên tuyến đường Cách Mạng Tháng Mười (CMT10) đoạn thuộc địa phận Tổ dân phố Dọc Dài, phường Bách Q, thành phố Sông Công, tỉnh Thái Nguyên thời gian thực hiện từ 06 giờ 30 phút đến 09 giờ 30 phút cùng ngày.Khoảng 07 giờ 05 phút ngày 02/3/2023 Nguyễn Đức Q điều khiển xe mô tô nhãn hiệu nhãn hiệu Yamaha Exciter, sơn màu xanh, biển kiểm soát (BKS):20H1-408.14 (Q có giấy phép lái xe hạng A1 theo quy định, xe mô tô trên của ông Nguyễn Văn Báu bố ruột Q), không có gương chiếu hậu hai bên đi trên chiều đường bên phải đường CMT10 hướng đi từ đường tròn thành phố Sông Công đi ngã tư Khu công nghiệp Sông Công. Lúc này, anhNgô Quốc P đang thực hiện nhiệm vụ thì phát hiện vi phạm của Q nên đã dùng gậy chỉ huy giao thông giơ lên ra hiệu lệnh và thổi còi báo hiệu yêu cầu Q dừng xe để kiểm tra nhưng Q không chấp hành hiệu lệnh,không giảm tốc độ mà điều khiển xe tăngga bỏ chạy nhằm mục đích cản trở việc lực lượng CSGT- TT tiến hành kiểm tra, xử lý vi phạm dẫn đến việc đâm va vào thân người bên trái của anh P làm anh P ngã ra đường, xe mô tô do Q điều khiển đổ trượt trên mặt đường cách vị trí va chạm khoảng 13m. Sau khi va chạm anh P bị thương chảy máu ở vùng mặt và được đưa đến Bệnh viện C Thái Nguyên cáp cứu, điều trị.
Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an thành phố Sông Công tiến hành khám nghiệm hiện trường xác định như sau:Nơi xảy ra vụ án là tại đoạn đường CMT10 đoạn thuộc tổ dân phố Dọc Dài, phường Bách Q, thành phố Sông Công, tỉnh Thái Nguyên. Mặt đường bằng phẳng, được trải nhựa, rộng 10,20m. Tâm đường có vạch kẻ đứt quãng màu vàng, chia đường thành hai làn đường xe chạy. Hai hành lang đường trồng cây xanh. Tại hiện trường lấy mép đường bên phải hướng đường tròn thành phố Sông Công - ngã tư khu công nghiệp Sông Công và cột điện số 474-F63 nằm trên hành lang đường bên phải, hướng đường tròn thành phố Sông Công - ngã tư khu công nghiệp Sông Công làm mốc đo đến vị trí dấu vết, P tiện, cụ thể như sau:
- Vị trí số 1 là xe mô tô BKS: 20H1-408.14 đổ nghiêng bên trái trên mặt đường, đầu xe quay hướng đường tròn thành phố Sông Công, đuôi xe hướng ngã tư khu công nghiệp, tâm trục bánh xe phía trước cách mép đường bên phải 2,80m, đầu trục bánh xe phía sau cách mép đường 2,85m.
- Vị trí số 2 là vết cà đứt quãng trên mặt đường dài 11,6m, rộng 1,5cm, chiều hướng từ đường tròn thành phố Sông Công - ngã tư khu công nghiệp Sông Công, điểm cuối vết cà kết thúc tại bàn để chân phía trước, bên phải xe mô tô BKS: 20H1-408.14 điểm đầu cách mép đường bên phải 4,4m.
- Vị trí số 3, theo mô tả của người làm chứng Phạm Đăng Dương và Diệp Thanh Thiện xác định vị trí cán bộ CSGT là anh Ngô Quốc P bị ngã trên mặt đường, vị trí cách mép đường bên phải 3,0m, cách vuông góc vị trí số 2 về hướng ngã tư thành phố Sông Công là 1,20m.
- Vị trí số 4 là vị trí đồng chí P đứng làm nhiệm vụ và bị người điều khiển xe mô tô BKS: 20H1-408.14 là anh Nguyễn Đức Q điều khiển đi hướng đảo tròn thành phố Sông Công - ngã tư khu công nghiệp Sông Công và đâm vào người anh P, vị trí cách mép đừng chuẩn 4,67m, cách đầu vị trí số 2 về hướng đảo tròn thành phố Sông Công là 3,75m.
- Vị trí số 5 là 03 cọc tiêu hình chóp nón báo hiệu người tham gia giao thông biết lực lượng CSGT đang làm nhiệm vụ, xử lý vi phạm trật tự an toàn giao thông tại đường CMT10, thành phố Sông Công, cọc tiêu màu đỏ, chân để rộng 37cm, cao 70cm, xếp dọc bên phải chiều đường từ đảo tròn thành phố Sông Công - ngã tư khu công nghiệp Sông Công. Cọc tiêu cách nhau lần lượt 2,30m, cách mép đường bên phải 2,4m. cọc gần nhất cách điểm đầu vết cà (vị trí số 2) là 11,8m - Vị trí số 6 là người làm chứng anh Phạm Đăng Dương và Diệp Thanh Thiện đứng, xác định khi Nguyễn Đức Q khi phát hiện lực lượng CSGT đang làm nhiệm vụ nên đã điều khiển xe mô tô ra giữa làn đường CMT10, vị trí cách mép đường bên phải 4,0m, cách điểm đầu vết cà (vị tri số 2) là 33,60m - Vị trí số 7 Nguyễn Đức Q xác định khi đang điều khiển xe mô tô hướng đảo tròn thành phố Sông Công - ngã tư khu công nghiệp Sông Công thì Q phát hiện lực lượng CSGT đang làm nhiệm vụ, vị trí cách mép đường bên phải 1,90m, cách vị trí số 6 hướng đi đảo tròn thành phố Sông Công 43m - Vị trí số 8 là xe ô tô BKS: 20B-1081 của lực lượng CSGT đỗ trên chiều đường bên phải, đầu xe hướng ngã tư khu công nghiệp Sông Công, đuôi xe hướng đảo tròn thành phố Sông Công, đầu trục bên phải cách hành lang đường 10cm.
Quá trình khám nghiệm đã thu giữ: 01 xe mô tô nhãn hiệu Yamaha Exciter, sơn màu xanh, BKS: 20H1-408.14 Kết quả khám nghiệm P tiện xe mô tô nhãn hiệu Yamaha Exciter, sơn màu xanh, BKS: 20H1-408.14: Xe không có gương chiếu hậu hai bên; Đầu núm nhựa tay lái bên trái có vết mài trượt, kích thước (KT): (2x2,5)cm, chiều hướng từ sau về trước; Đầu tay côn bên trái có vết mài trượt kim loại, KT: (2x1,5)cm, chiều hướng từ sau về trước, bị cong lệch từ trên xuống dưới; Cánh yếm phía trước bên trái bị bật vấu nhựa rời khỏi vị trí ban đầu; Ốp nhựa bên trái phía trước đầu xe có vết mài trượt, KT: (5x13)cm, xước sơn, chiều hướng từ sau về trước; Chắn bùn phía trước bị vỡ nhựa, cánh yếm phía trước bên phải bị vỡ, hư hỏng hoàn toàn; Ốp nhựa sườn xe bên trái phía sau có vết mài trượt, KT: (17x3)cm, chiều hướng từ sau về trước; Để chân bên trái xe bị cong vênh từ trên xuống dưới, đầu để chân có vết mài trượt kim loại, KT: (2,5x2,5)cm, chiều hướng từ sau về trước; Gầm để chân phía trước bên trái có vết mài trượt kim loại, KT: (12x2)cm, chiều hướng từ sau về trước; Đầu trục bánh sau bên trái có vết mài trượt kim loại, KT: (1,3x1,3)cm, chiều hướng từ sau về trước Kiểm tra nồng độ cồn qua hơi thở đối với Nguyễn Đức Q, kết quả: Không có nồng độ cồn (0.000mg/L) Tại kết luận giám định tổn thương cơ thể trên người sống số 198/KLTTCT-GĐTH ngày 10/3/2023 của Trung tâm pháp y Sở y tế Thái Nguyên đối với Ngô Quốc P, kết luận:
1. Các kết quả chính: Hiện tại có 01 sẹo vết thương phần mềm vùng mặt KT nhỏ và 05 sẹo vết thương phần mềm KT nhỏ.
2. Kết luận: Căn cứ Thông tư số 22/TT-BYT ngày 28/8/2019 của Bộ y tế quy định tỷ lệ phần trăm tổn thương cơ thể sử dụng trong giám định pháp y, xác định tỷ lệ phần trăm tổn thương cơ thể của Ngô Quốc P tại thời điểm giám định là: 8% (Tám phần trăm). Cơ chế hình thành thương tích: Do tác động của vật tày.
3. Kết luận khác: Hiện tại bệnh nhân đang nằm điều trị tại bệnh viện, có thể có các tổn thương khác chưa thể đánh giá, xác định tỷ lệ được ngay, nên sau khi bệnh nhân ra viện, Cơ quan CSĐT có thể trưng cầu giám định bổ sung.
Tại kết luận giám định bổ sung tổn thương cơ thể trên người sống số 248/KLTTCT-GĐTH ngày 31/3/2023 của Trung tâm pháp y Sở y tế Thái Nguyên đối với Ngô Quốc P, kết luận:
1. Các kết quả chính: Hiện tại có 01 sẹo vết thương phần mềm vùng mặt KT nhỏ và 05 sẹo vết thương phần mềm KT nhỏ.
2. Kết luận: Căn cứ Thông tư số 22/TT-BYT ngày 28/8/2019 của Bộ y tế quy định tỷ lệ phần trăm tổn thương cơ thể sử dụng trong giám định pháp y, xác định tỷ lệ phần trăm tổn thương cơ thể của Ngô Quốc P tại thời điểm giám định là: 8%.
Quá trình điều tra bị can Nguyễn Đức Q đã khai nhận toàn bộ hành vi phạm tội của mình. Lời khai nhận tội của Q phù hợp với người làm chứng, biên bản khám nghiệm hiện trường, khám nghiệm P tiện; kết luận giám định và các tài liệu khác có trong hồ sơ vụ án.
Vật chứng vụ án: 01 xe mô tô nhãn hiệu Yamaha Exciter, sơn màu xanh, BKS: 20H1-408.14 (đã qua sử dụng), quá trình điều tra xác định là tài sản của ông Nguyễn Văn Báu (Sinh năm: 1977, trú tại xóm 6, xã Phúc Thuận, thành phố Phổ Yên, tỉnh Thái Nguyên), ông Báu cho Q mượn đi làm, không biết Q sử dụng vào việc phạm tội nên Cơ quan điều tra đã trả lại cho chủ sở hữu quản lý, sử dụng.
Về trách nhiệm dân sự: Bị cáo Nguyễn Đức Q, ông Nguyễn Văn Báu đã thỏa thuận bồi thường thiệt hại về sức khỏe cho anh Ngô Quốc P với tổng số tiền là 15.000.000đồng, anh P không có đề nghị gì thêm và có Đơn xin giảm nhẹ trách nhiệm hình sự cho bị cáo Q. Ông Báu không có yêu cầu đề nghị gì về trách nhiệm dân sự.
Tại bản cáo trạng số 43/ CT-VKS ngày 28/4/2023 của Viện kiểm sát nhân dân thành phố Sông Công, tỉnh Thái Nguyên đã truy tố bị cáo Nguyễn Đức Q về tội “Chống người thi hành công vụ” theo Khoản 1 Điều 330 Bộ luật Hình sự.
Tại phiên tòa bị cáo thừa nhận hành vi phạm tội như nội dung bản cáo trạng truy tố.
Đại diện Viện kiểm sát luận tội, giữ nguyên quyết định truy tố đối với các bị cáo về tội danh và điều luật áp dụng. Đề nghị Hội đồng xét xử: Tuyên bố bị cáo Nguyễn Đức Q phạm tội “Chống người thi hành công vụ”; áp dụng khoản 1 Điều 330; điểm b,i, s khoản 1, khoản 2 Điều 51; Điều 65; xử phạt bị cáo từ 09 đến 12 tháng tù nhưng cho hưởng án treo, ấn định thời gian thử thách. Về trách nhiệm dân sự: đã giải quyết xong. Buộc bị cáo chịu 200.000 đồng án phí hình sự sơ thẩm nộp Ngân sách Nhà nước.
Bị cáo không tranh luận, thừa nhận việc truy tố và xét xử bị cáo về tội “Chống người thi hành công vụ” là không oan, đúng người, đúng tội.
Bị cáo nói lời sau cùng, bị cáo đã nhận thức được hành vi của mình và vô cùng ăn năn hối cải, xin được hưởng mức án thấp nhất.
NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN:
Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:
[1] Về hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan cảnh sát điều tra Công an thành phố Sông Công, Điều tra viên, Viện kiểm sát nhân dân thành phố Sông Công, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự thủ tục quy định của Bộ luật tố tụng hình sự. Quá trình điều tra và tại phiên tòa, những người tham gia tố tụng đều không có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó, các hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp.
[2] Tại giai đoạn điều tra và phiên tòa, bị cáo đã khai nhận toàn bộ hành vi, diễn biến nội dung sự việc đúng như nội dung kết luận điều tra và cáo trạng đã truy tố. Lời khai của bị cáo phù hợp với lời khai của người có quyền lợi và nghĩa vụ liên quan, người làm chứng và các tài liệu chứng cứ khác Cơ quan điều tra đã thu thập được có trong hồ sơ vụ án. Như vậy, có đủ cơ sở xác định: Khoảng 07 giờ 05 phút ngày 02/3/2023, tại đường Cách mạng tháng mười thuộc TDP Dọc Dài, phường Bách Q, thành phố Sông Công, Nguyễn Đức Q không chấp hành hiệu lệnh dừng xe của Tổ công tác Công an giao thông thành phố Sông Công đối với mình, đồng thời Q đã sử dụng xe mô tô BKS 20H1- 408.14lách sang trái đường bỏ chạy dẫn đến đâm va vào người anh Ngô Quốc P (Tổ trưởng tổ tuần tra kiểm soát) đang làm nhiệm vụ, gây thương tích cho anh P với tỷ lệ tổn thương cơ thể do thương tích gây nên là: 8% (Tám phần trăm).
Hành vi nêu trên của bị cáo đã đủ yếu tố cấu thành tội "Chống người thi hành công vụ”. Tội phạm và hình phạt được quy định tại Khoản 1 Điều 330 Bộ luật Hình sự năm 2015 (sửa đổi bổ sung năm 2017). Nội dung điều luật như sau:
“Điều 330. Tội chống người thi hành công vụ 1. Người nào dùng vũ lực, đe dọa dùng vũ lực hoặc dùng thủ đoạn khác cản trở người thi hành công vụ thực hiện công vụ của họ hoặc ép buộc họ thực hiện hành vi trái pháp luật thì bị phạt cải tạo không giam giữ đến 3 năm hoặc phạt tù từ 6 tháng đến 03 năm”… Viện kiểm sát nhân dân thành phố Sông Công truy tố bị cáo về tội danh và điều luật nêu trên là có căn cứ.
[3] Xét tính chất hành vi phạm tội: Hành vi phạm tội của bị cáo thuộc trường hợp ít nghiêm trọng, xâm phạm đến hoạt động bình thường của Cơ quan Nhà nước về quản lý hành chính được pháp luật bảo vệ, gây ảnh hưởng xấu đến tình hình trật tự ở địa P .
[4] Xét nhân thân, các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự:
Về các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự: Trong quá trình điều tra, truy tố, xét xử bị cáo thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải, phạm tội lần đầu và thuộc trường hợp ít nghiêm trọng; vì vậy bị cáo được hưởng các tình tiết giảm nhẹ quy định tại điểm i, s khoản 1 Điều 51 Bộ luật hình sự. Ngoài ra bị cáo đã tác động gia đình tự nguyện bồi thường khắc phục hậu quả; được người có quyền lợi và nghĩa vụ liên quan xin giảm nhẹ trách nhiệm hình sự; đây là những tình tiết được Hội đồng xét xử xem xét để quyết định hình phạt đối với bị cáo. Bị cáo không phải chịu tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự nào quy định tại Điều 52 Bộ luật hình sự.
[5] Về hình phạt: Trên cơ sở đánh giá tính chất, mức độ của hành vi phạm tội, các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự, nhân thân của bị cáo, Hội đồng xét xử xét bị cáo là người có đủ năng lực trách nhiệm hình sự, nhận thức được hành vi của mình là nguy hiểm cho xã hội, gây thiệt hại cho sức khỏe của người khác nhưng vẫn cố tình thực hiện. Tuy nhiên bị cáo có nhiều tình tiết giảm nhẹ, nhân thân tốt, có nơi cư trú rõ ràng. Xét thấy bị cáo có đủ điều kiện để miễn chấp hành hình phạt tù, tạo điều kiện để bị cáo cải tạo dưới sự giám sát của chính quyền địa P cũng đủ để răn đe, giáo dục bị cáo. Mức hình phạt đại diện Viện kiểm sát đề nghị đối với bị cáo tại phiên tòa là phù hợp.
[6] Về trách nhiệm dân sự: đã giải quyết xong.
[7] Về án phí, quyền kháng cáo: bị cáo phải chịu án phí hình sự sơ thẩm theo quy định. Bị cáo, người có quyền lợi và nghĩa vụ liên quan có quyền kháng cáo theo quy định của pháp luật.
[8] Đối với chiếc xe mô tô nhãn hiệu Yamaha Exciter, sơn màu xanh, BKS: 20H1-408.14 (đã qua sử dụng), quá trình điều tra xác định là tài sản của ông Nguyễn Văn Báu, Cơ quan điều tra đã trả lại cho chủ sở hữu quản lý, sử dụng là có căn cứ.
Đối với việc vi phạm của Q trong việc điều khiển xe mô tô không có gương chiếu hậu. Cơ quan điều tra đã chuyển hồ sơ tài liệu liên quan đến Đội cảnh sát giao thông Công an thành phố Sông Công xử phạt vi phạm hành chính theo quy định pháp luật.
Vì các lẽ trên,
QUYẾT ĐỊNH:
Căn cứ vào khoản 1 Điều 330 Bộ luật hình sự; điểm i, s khoản 1 Điều 51; Điều 65 Bộ luật hình sự; Điều 299, 331, 333 Bộ luật tố tụng hình sự. Tuyên bố bị cáo Nguyễn Đức Q phạm tội “Chống người thi hành công vụ”.
1. Xử phạt: Nguyễn Đức Q 09 (chín) tháng tù nhưng cho hưởng án treo, thời gian thử thách 18 (mười tám) tháng tính từ ngày tuyên án sơ thẩm.
Giao bị cáo cho UBND xã Phúc Thuận, thành phố Phổ Yên, Thái Nguyên nơi bị cáo cư trú giám sát, giáo dục bị cáo trong thời gian thử thách của án treo. Gia đình bị cáo có trách nhiệm giám sát, giáo dục bị cáo trong thời gian thử thách của án treo.
Trong trường hợp bị cáo được hưởng án treo thay đổi nơi cư trú thì thực hiện theo quy định tại Điều 92 Luật thi hành án hình sự.
Trong thời gian thử thách, nếu người được hưởng án treo cố ý vi phạm nghĩa vụ theo quy định của Luật thi hành án hình sự 02 lần trở lên, thì Tòa án có thể quyết định buộc người đó phải chấp hành hình phạt tù của bản án đã cho hưởng án treo.
2. Về trách nhiệm dân sự: đã giải quyết xong.
3. Về án phí: Áp dụng Điều 136 Bộ luật tố tụng hình sự; Nghị quyết số 326/ 2016/ NQ – UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án. Buộc bị cáo chịu 200.000 đồng án phí hình sự sơ thẩm nộp ngân sách nhà nước.
Án xét xử sơ thẩm công khai. Báo cho bị cáo, người có quyền lợi và nghĩa vụ liên quan có mặt biết có quyền kháng cáo trong hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án. Người có quyền lợi và nghĩa vụ liên quan vắng mặt tại phiên tòa có quyền kháng cáo trong hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được bản sao bản án hoặc bản án được niêm yết.
Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để tải file. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!