Bản án số 43/2023/HS-ST ngày 22/11/2023 của TAND huyện Ninh Sơn, tỉnh Ninh Thuận về tội chống người thi hành công vụ

  • Thuộc tính
  • Nội dung
  • VB gốc
  • VB liên quan
  • Lược đồ
  • Đính chính
  • Án lệ
  • BA/QĐ cùng tội danh
  • Tải về
Mục lục
Tải văn bản
Báo lỗi
  • Gửi liên kết tới Email
  • Chia sẻ:
  • Chế độ xem: Sáng | Tối
  • Thay đổi cỡ chữ:
    17

Thuộc tính Bản án 43/2023/HS-ST

Tên Bản án: Bản án số 43/2023/HS-ST ngày 22/11/2023 của TAND huyện Ninh Sơn, tỉnh Ninh Thuận về tội chống người thi hành công vụ
Tội danh: 257.Tội chống người thi hành công vụ (Bộ luật hình sự năm 1999)
Cấp xét xử: Sơ thẩm
Tòa án xét xử: TAND huyện Ninh Sơn (TAND tỉnh Ninh Thuận)
Số hiệu: 43/2023/HS-ST
Loại văn bản: Bản án
Ngày ban hành: 22/11/2023
Lĩnh vực: Hình sự
Áp dụng án lệ:
Đã biết

Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để xem áp dụng án lệ. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!

Đính chính:
Đã biết

Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để xem đính chính. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!

Thông tin về vụ án:
Tóm tắt Bản án

Nội dung tóm tắt đang được cập nhật, Quý khách vui lòng quay lại sau!

Tải văn bản

TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN N – TỈNH NINH THUẬN

BẢN ÁN 43/2023/HS-ST NGÀY 22/11/2023 VỀ TỘI CHỐNG NGƯỜI THI HÀNH CÔNG VỤ

Ngày 22 tháng 11 năm 2023, tại trụ sở Tòa án nhân dân huyện N, tỉnh Ninh Thuận xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự thụ lý số: 36/2023/TLST-HS ngày 09 tháng 10 năm 2023 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử sơ thẩm số: 45/2022/QĐXXST-HS ngày 09 tháng 11 năm 2023 đối với bị cáo:

HUỲNH VĂN L, sinh năm: 1984 tại tỉnh Ninh Thuận. Nơi đăng ký hộ khẩu thường trú: Thôn S, xã D, huyện N, tỉnh Ninh Thuận; nghề nghiệp: Làm biển; trình độ văn hóa: Không biết chữ; giới tính: Nam; dân tộc: Kinh; tôn giáo: Không; quốc tịch: Việt Nam; con ông Huỳnh Văn C (Chết) và bà Nguyễn Thị M; có vợ và 04 con; tiền án: Không; tiền sự: Không; bị cáo hiện đang tại ngoại. (Có mặt)

- Người làm chứng:

1. Anh Hà Lê Sơn H, sinh năm: 1996; nơi cư trú: Khu phố 1, phường Đ, thành phố R, tỉnh Ninh Thuận. (Có mặt)

2. Anh Phạm Tấn C, sinh năm 1973; nơi cư trú: Khu phố 6, phường T, thành phố R, tỉnh Ninh Thuận. (Vắng mặt)

3. Anh Lê Đình H, sinh năm: 1975; nơi cư trú: Khu phố 4, phường Mỹ Đông, thành phố R, tỉnh Ninh Thuận. (Có mặt)

4. Anh Phan Đ, sinh năm: 1984; nơi cư trú: Thôn S, xã D, huyện N, tỉnh Ninh Thuận. (Vắng mặt)

5. Chị Phan Thị Bích L, sinh năm: 1992; nơi cư trú: Thôn S, xã D, huyện N, tỉnh Ninh Thuận. (Có mặt)

6. Chị Phan Thị Bích L, sinh năm: 1990; nơi cư trú: Thôn S, xã D, huyện N, tỉnh Ninh Thuận. (Có mặt)

NỘI DUNG VỤ ÁN:

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Huỳnh Văn L làm nghề biển tại xã D, huyện N, thời gian nghỉ làm biển, L thường vào khu vực rừng thuộc thôn S, xã D do Ban quản lý rừng phòng hộ ven biển N quản lý đào cây rừng để bán.

Khoảng 08 giờ ngày 28/6/2023, Huỳnh Văn L cùng với anh Phan Đ, sinh năm 1984, trú tại thôn S, xã D, huyện N, tỉnh Ninh Thuận điều khiển hai xe mô tô đi từ nhà đến khu vực rừng phòng hộ ven biển thuộc tiểu khu 208, xã D đào được 01 gốc cây bằng lăng. Đến khoảng 12 giờ cùng ngày, L dùng xe mô tô nhãn hiệu Ferroli không biển số của L chở gốc cây trên, Đ điều khiển xe mô tô của Đ đi về. Lúc 12 giờ 50 phút cùng ngày cả hai về đến gần khu vực suối Ngang thuộc tiểu khu 208 gặp Tổ tuần tra của Ban quản lý rừng phòng hộ ven biển N gồm: Ông Hà Lê Sơn H – Nhân viên quản lý bảo vệ rừng thuộc Ban quản lý rừng phòng hộ ven biển N, ông Lê Đình H – Cán bộ Phòng Cảnh sát Cơ động Công an tỉnh Ninh Thuận, ông Phạm Tấn Cang - Cán bộ Đồn Biên phòng xã D đang tuần tra, kiểm soát, ngăn chặn tình trạng khai thác và vận chuyển cây có nguồn gốc từ rừng tự nhiên theo Kế hoạch số 276, ngày 07/6/2023 và lịch phân công trực chốt bảo vệ rừng lưu động của Ban quản lý rừng phòng hộ ven biển N. Tổ tuần tra yêu cầu L và Đ dừng xe để kiểm tra nhưng cả hai không chấp hành, tiếp tục điều khiển xe đi nên Tổ tuần tra điều khiển xe mô tô đuổi theo. Khi đuổi đến khu vực đường bê tông ven đầm thôn S, xã D, Tổ công tác chặn được 02 xe của L và Đ, lúc này xe L chở gốc cây bằng lăng bị ngã. Tổ tuần tra giữ xe và gốc cây Bằng Lăng để lập biên bản tạm giữ, xử lý theo quy định thì L không chấp hành và giằng co, Đ cầm 01 con dao dài khoảng 20 cm, cán màu đen định cắt dây buộc cây để lấy xe máy của L nhưng ông Lê Đình H yêu cầu Đ bỏ dao xuống, Đ chấp hành bỏ dao xuống đất. Lúc này, L nhặt, cầm dao lên rồi chửi bới, dọa đâm ông Hà Lê Sơn H, Tổ tuần yêu cầu L bỏ dao xuống nhưng L không chấp hành, tiếp tục dùng dao cắt dây, đẩy gốc cây bằng lăng ra, dựng xe dậy và điều khiển xe bỏ đi. Tổ công tác lập biên bản kiểm tra và tạm giữ gốc cây bằng lăng để làm căn cứ xử lý.

Tại bản Cáo trạng số: 39/CT-VKSTN ngày 09 tháng 10 năm 2023 của Viện kiểm sát nhân dân huyện N, tỉnh Ninh Thuận đã truy tố bị cáo Huỳnh Văn L về tội “Chống người thi hành công vụ” theo quy định tại khoản 1 Điều 330 của Bộ luật hình sự.

Tại phiên tòa, đại diện Viện kiểm sát nhân dân huyện N giữ quyền công tố luận tội: Hành vi của bị cáo có đủ yếu tố cấu thành tội “Chống người thi hành công vụ”, do đó Viện kiểm sát giữ nguyên quyết định truy tố đối với bị cáo và đề nghị Hội đồng xét xử:

Căn cứ khoản 1 Điều 330; điểm i, s khoản 1 Điều 51; Điều 65 của Bộ luật hình sự. Tuyên bố bị cáo Huỳnh Văn L phạm tội “Chống người thi hành công vụ”. Mức án từ 12 tháng tù đến 15 tháng tù cho hưởng an treo và ấn định thời gian thử thách từ 24 tháng đến 30 tháng.

Lời nói sau cùng: Tại phiên tòa, bị cáo biết hành vi của mình là vi phạm pháp luật nên mong Hội đồng xét xử xem xét giảm nhẹ hình phạt.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN:

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được thẩm tra, xét hỏi, tranh luận tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận thấy như sau:

Về hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan điều tra Công an huyện N, Điều tra viên, Viện kiểm sát nhân dân huyện N, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự. Quá trình điều tra và tại phiên tòa, bị cáo không có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó, các hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp.

Trong quá trình điều tra và tại phiên tòa, bị cáo đã thực hiện hành vi phạm tội như sau: Ngày 28/6/2023 tại thôn S, xã D, huyện N, tỉnh Ninh Thuận. Bị cáo Huỳnh Văn L bị Tổ tuần tra của Ban quản lý rừng phòng hộ ven biển T phát hiện có hành vi vận chuyển cây rừng nên yêu cầu dừng xe để xử lý, bị cáo L không những không chấp hành mà còn cầm dao chửi bới, dọa đâm anh Hà Lê Sơn H và dùng dao cắt dây đẩy gốc cây ra và điều khiển xe chạy đi, cản trở Tổ công tác lập biên bản xử lý vi phạm hành chính trong lĩnh vực lâm nghiệp.

Xét thấy hành vi nêu trên của bị cáo đã xâm phạm đến việc thực hiện nhiệm vụ của người đang thi hành công vụ nên Viện kiểm sát nhân dân huyện N truy tố bị cáo Huỳnh Văn L về tội “Chống người thi hành công vụ” theo quy định tại khoản 1 Điều 330 của Bộ luật hình sự là có căn cứ, đúng pháp luật.

Về tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự: Bị cáo phạm tội lần đầu và thuộc trường hợp ít nghiêm trọng; thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải. Đây là các tình tiết giảm nhẹ được quy định tại điểm i, s khoản 1 Điều 51 của Bộ luật hình sự.

Hội đồng xét xử không xem xét tình tiết bị cáo có hoàn cảnh khó khăn và lao động chính trong gia đình. Bởi vì, theo quy định tại khoản 2 Điều 51 của Bộ luật hình sự thì chỉ xem xét tình tiết giảm nhẹ đối với trường hợp bị cáo là người lao động duy nhất trong gia đình, là người có gia đình đang lâm vào hoàn cảnh kinh tế đặc biệt khó khăn. Thực tế gia đình bị cáo không thuộc diện hộ nghèo và cận nghèo.

Về tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự: Không có.

Về nhân thân: Bị cáo có nhân thân tốt.

Qua xem xét hành vi phạm tội, các tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự và nhân thân của bị cáo, Hội đồng xét xử xét: Bị cáo Huỳnh Văn L có 02 tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự quy định tại khoản 1 Điều 51 của Bộ luật hình sự và không có tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự quy định tại khoản 1 Điều 52 của Bộ luật hình sự; phạm tội ít nghiêm trọng và có nơi cư trú rõ ràng. Do đó, không cần thiết phải cách ly bị cáo ra khỏi xã hội mà giao cho chính quyền địa phương nơi bị cáo cư trú giám sát, giáo dục trong thời gian thử thách cũng đủ răn đe, giáo dục và phòng ngừa chung là phù hợp với quy định tại Điều 65 của Bộ luật hình sự. Việc cho bị cáo hưởng án treo không gây nguy hiểm cho xã hội; không ảnh hưởng xấu đến an ninh, trật tự, an xã hội.

Về xử lý vật chứng:

Đối với xe mô tô hiệu Ferroli, dung tích xilanh 107cm3, không có biển số và không có số khung, số máy. Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an huyện N chuyển cho Hạt kiểm lâm huyện N để xử phạt hành chính trong lĩnh vực lâm nghiệp là có cơ sở. Do đó, Hội đồng xét xử không xét đến.

Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an huyện N tổ chức truy tìm 01(Một) con dao Thái Lan dài khoảng 20cm, cán màu đen là công cụ mà bị cáo Huỳnh Văn L sử dụng để thực hiện hành vi phạm tội sau đó vứt bỏ tại khu vực hiện trường nhưng không tìm thấy. Do đó, Hội đồng xét xử không xét đến.

Đối với anh Phan Đ có hành vi đào cây rừng, khi bị Tổ công tác dừng xe có cầm dao chuẩn bị cắt dây. Tuy nhiên, khi được Tổ công tác yêu cầu dừng lại thì anh Đ chấp hành, không có hành vi cản trở Tổ công tác thực hiện nhiệm vụ, không đồng phạm với bị cáo Huỳnh Văn L nên Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an huyện N không truy cứu trách nhiệm hình sự là có căn cứ. Do đó, Hội đồng xét xử không xét đến.

Về án phí: Bị cáo phải chịu án phí sơ thẩm theo quy định pháp luật.

Vì các lẽ trên, 

QUYẾT ĐỊNH:

Căn cứ vào khoản 1 Điều 330; điểm i, s khoản 1 Điều 51; Điều 65 của Bộ luật hình sự.

Tuyên bố bị cáo bị cáo Huỳnh Văn L phạm tội “Chống người thi hành công vụ”.

Xử phạt bị cáo bị cáo Huỳnh Văn L 12 (Mười hai) tháng tù cho hưởng án treo, thời gian thử thách là 24 tháng, kể từ ngày tuyên án (Ngày 22/11/2023).

Giao bị cáo Huỳnh Văn L cho Ủy ban nhân dân xã D, huyện N, tỉnh Ninh Thuận nơi bị cáo cư trú giám sát, giáo dục trong thời gian thử thách. Trong trường hợp người hưởng án treo thay đổi nơi cư trú thì thực hiện theo quy định tại Điều 92 của Luật thi hành án hình sự. Trong thời gian thử thách, người được hưởng án treo cố ý vi phạm nghĩa vụ 02 lần trở lên thì Tòa án có thể quyết định buộc người được hưởng án treo phải chấp hành hình phạt tù của bản án đã cho hưởng án treo.

Căn cứ vào khoản 2 Điều 135 và khoản 2 Điều 136 của Bộ luật Tố tụng hình sự; Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc Hội 14 Quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án.

Buộc bị cáo Huỳnh Văn L phải chịu 200.000đ (Hai trăm nghìn đồng) án phí hình sự sơ thẩm.

Bị cáo có quyền làm đơn kháng cáo trong hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án (Ngày 22/11/2023).

(Đã giải thích chế định án treo cho bị cáo Huỳnh Văn L).

Tải về
Bản án số 43/2023/HS-ST Bản án số 43/2023/HS-ST

Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để tải file. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!

Bản án/ Quyết định cùng đối tượng

Bản án cùng lĩnh vực

Bản án mới nhất