Bản án số 59/2025/DS-PT ngày 15/04/2025 của TAND tỉnh Vĩnh Phúc về tranh chấp hợp đồng vay tài sản
- Thuộc tính
- Nội dung
- VB gốc
- VB liên quan
- Lược đồ
- Đính chính
- Án lệ
- BA/QĐ cùng nội dung
- Tải về
Tải văn bản
-
Bản án số 59/2025/DS-PT
Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để tải file. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!
-
Bản án số 59/2025/DS-PT
Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để tải file. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!
Báo lỗi
Thuộc tính Bản án 59/2025/DS-PT
Tên Bản án: | Bản án số 59/2025/DS-PT ngày 15/04/2025 của TAND tỉnh Vĩnh Phúc về tranh chấp hợp đồng vay tài sản |
---|---|
Quan hệ pháp luật: | Tranh chấp hợp đồng vay tài sản |
Cấp xét xử: | Phúc thẩm |
Tòa án xét xử: | TAND tỉnh Vĩnh Phúc |
Số hiệu: | 59/2025/DS-PT |
Loại văn bản: | Bản án |
Ngày ban hành: | 15/04/2025 |
Lĩnh vực: | Dân sự |
Áp dụng án lệ: |
Đã biết
Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để xem áp dụng án lệ. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây! |
Đính chính: |
Đã biết
Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để xem đính chính. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây! |
Thông tin về vụ/việc: | Ông P và ông C, bà L tranh chấp hợp đồng vay tiền |
Tóm tắt Bản án
Nội dung tóm tắt đang được cập nhật, Quý khách vui lòng quay lại sau!
Tải văn bản

TOÀ ÁN NHÂN DÂN
TỈNH VĨNH PHÚC
Bản án số: 59/2025/DS-PT
Ngày 15 - 4 - 2025
“V/v Tranh chấp hợp đồng vay tài sản”
CỘNG HÒA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM
Độc lập - Tự do - Hạnh phúc
NHÂN DANH
NƯỚC CỘNG HOÀ XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM
TOÀ ÁN NHÂN DÂN TỈNH VĨNH PHÚC
- Thành phần Hội đồng xét xử phúc thẩm gồm có:
Thẩm phán - Chủ toạ phiên toà: Ông Đỗ Anh Cường.
Các Thẩm phán: Ông Nguyễn Duy Sơn.
Ông Nguyễn Vĩnh Thành.
- Thư ký phiên toà: Bà Đào Thị Tuyền - Thư ký Toà án nhân dân tỉnh
Vĩnh Phúc.
- Đại diện Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Vĩnh Phúc: Bà Hà Thị Loan -
Kiểm sát viên tham gia phiên tòa.
Ngày 15 tháng 4 năm 2025, tại trụ sở Toà án nhân dân tỉnh Vĩnh Phúc xét
xử phúc thẩm công khai vụ án dân sự thụ lý số: 198/2024/TLPT-DS ngày
24/12/2024 về việc “Tranh chấp hợp đồng vay tài sản”.
Do Bản án dân sự sơ thẩm số: 39/2024/DS-ST ngày 12 tháng 8 năm 2024
của Toà án nhân dân huyện V, tỉnh Vĩnh Phúc bị kháng cáo.
Theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử phúc thẩm số: 73/2025/QĐ-PT ngày
24 tháng 02 năm 2025, giữa các đương sự:
1. Nguyên đơn: Ông Trần Hồng P, sinh năm 1962; địa chỉ: Thôn P1, xã
Q1, huyện X, tỉnh Vĩnh Phúc, có mặt.
Người đại diện theo ủy quyền của ông P: Anh Vũ Duy Tr, sinh năm 1983;
địa chỉ: Thôn Y1, xã T1, huyện M1, thành phố Hà Nội (Văn bản ủy quyền ngày
27/6/2024), có mặt.
Người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của ông P: Ông Bùi Quốc H -
Luật sư thuộc Công ty Luật Z, đoàn Luật sư tỉnh Vĩnh Phúc, vắng mặt;
Địa chỉ: Số 68 đường N1, phường L2, thành phố V, tỉnh Vĩnh Phúc.
2. Bị đơn: Ông Bùi Văn C, sinh năm 1970 và bà Lê Thị L, sinh năm 1974;
cùng địa chỉ: Thôn Ch, xã Th, huyện V, tỉnh Vĩnh Phúc, đều vắng mặt.
Người đại diện theo ủy quyền của bị đơn: Ông Nguyễn Minh K, sinh năm
1978; địa chỉ: phường Đ1, thành phố V, tỉnh Vĩnh Phúc (Văn bản ủy quyền ngày
09/9/2024), có mặt.
2
Người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của bị đơn: Ông Nguyễn Văn Đ -
Luật sư thuộc Công ty Luật W, đoàn Luật sư thành phố Hà Nội, có mặt.
3. Người kháng cáo: Ông Bùi Văn C - Bị đơn.
NỘI DUNG VỤ ÁN:
Theo đơn khởi kiện ngày 15 tháng 01 năm 2024, những lời trình bày tiếp
theo trong quá trình giải quyết vụ án và tại phiên tòa, nguyên đơn và người đại
diện theo ủy quyền của nguyên đơn trình bày:
Ông Trần Hồng P và vợ chồng ông Bùi Văn C, bà Lê Thị L có mối quan
hệ quen biết, làm ăn với nhau nhiều năm. Vợ chồng ông C làm nghề kinh doanh,
buôn bán thức ăn chăn nuôi, ông P làm nghề lái xe tải nên thường xuyên vận
chuyển hàng hóa cho vợ chồng ông bà Cảnh, Liệu. Quá trình kinh doanh, do
thiếu vốn nên vợ chồng ông bà C, L nhiều lần vay tiền của ông P; do là chỗ thân
quen nên ông P đã nhiều lần cho vay tiền, những lần vay đều xác lập bằng giấy
vay nợ, có chữ ký của cả hai vợ chồng ông C bà L; các bên thỏa thuận lãi suất
vay là 1,5%/01 tháng; việc cho vay nợ không xác định thời hạn trả nợ, chỉ thỏa
thuận là khi nào ông P cần thì vợ chồng ông bà C, L sẽ trả. Cụ thể:
Ngày 30/04/2013, ông P cho vợ chồng ông C, bà L vay số tiền
400.000.000 đồng.
Ngày 15/06/2013, ông P cho vợ chồng ông C, bà L vay số tiền
100.000.000 đồng
Ngày 20/08/2013 ông P cho vợ chồng ông C, bà L vay số tiền
500.000.000 đồng
Ngày 20/10/2013 ông P cho vợ chồng ông C, bà L vay số tiền
160.000.000 đồng.
Tổng số tiền vay là 1.160.000.000 đồng.
Quá trình vay tiền, ngày 06/01/2018 vợ chồng ông bà C, L đã trả cho ông
P số tiền gốc của khoản vay 160.000.000 đồng. Còn lại 1.000.000.000 đồng đến
nay vẫn chưa thanh toán. Số tiền lãi của các khoản vay ông bà C, L đã trả đến
đầu năm 2014. Ngày 12/02/2014 giữa hai bên làm văn bản chốt số liệu trả tiền
lãi, và từ đó đến nay ông bà C, L không trả thêm khoản tiền lãi nào nữa. Sau đó,
ông P đã nhiều lần đôn đốc nhưng ông bà C, L không thanh toán thêm khoản
tiền nào nữa.
Nhận thấy, việc ông C, bà L không thực hiện đúng nghĩa vụ theo cam kết
nhận nợ là hành vi vi phạm nghĩa vụ trả nợ của bên vay theo quy định của Bộ
luật dân sự năm 2005. Vì vậy, ông P đề nghị Tòa án nhân dân huyện V: Buộc
ông Bùi Đức Cảnh và vợ là bà Lê Thị L phải liên đới trả nợ cho ông P những
khoản tiền như sau:
3
- Tiền nợ gốc: 1.000.000.000 đồng.
- Tiền lãi 1,5%/tháng, tính từ ngày 12/02/2014 đến hết ngày 12/8/2024 (ngày
xét xử sơ thẩm) là 126 tháng. 1,5% x 1.000.000.000 đồng x 126 tháng =
1.890.000.000 đồng.
Đối với tiền lãi của khoản vay 160.000.000 đồng, từ ngày 12/02/2014 đến
ngày 06/01/2018, ông P không yêu cầu phải trả, không đề nghị giải quyết.
Tổng cộng số tiền nợ gốc và lãi là: 2.890.000.000 đồng.
- Về án phí: Đề nghị giải quyết theo quy định.
Bị đơn là bà Lê Thị L vắng mặt tại phiên tòa sơ thẩm, nhưng quá trình
giải quyết vụ án và tại biên bản lời khai ngày 23/02/2024 trình bày:
Bà là vợ của ông C. Do khó khăn về làm ăn kinh tế nên ông C đã đi làm
ăn xa, thỉnh thoảng có về địa phương. Ông Trần Hồng P không có mối quan hệ
gia đình, họ hàng gì với vợ chồng bà mà chỉ là chỗ quen biết trong làm ăn. Đối
với việc ông C có quan hệ làm ăn, vay nợ gì với ông P thì bà không biết cụ thể.
Khoảng năm 2013, chồng bà có vay tiền của ông P và chồng bà có yêu cầu bà
phải ký vào giấy vay nợ của ông P như chồng bà nói là cho đúng thủ tục. Bà
đồng ý ký vào các giấy vay đã được chồng bà ký trước đó. Tại thời điểm bà ký
giấy chỉ có 03 người là vợ chồng bà và ông P. Bà xác định giấy nhận nợ ngày
30/4/2013, ngày 15/6/2013, ngày 20/8/2013 và ngày 20/10/2013 là toàn bộ chữ
ký, chữ viết của vợ chồng bà.
Về quá trình trả nợ, vào ngày 06/01/2018, ông P có thuê anh Phạm Văn
Hải đến gia đình bà để thu nợ. Tại buổi trên, bà trả được cho ông P số tiền là
160.000.000đ của số nợ từ ngày 02/01/2013. Bà xác nhận trong giấy vay trên chỉ
thể hiện số nợ của ba lần vay là 660.000.000đ. Vợ chồng đã trả cho ông P được
160.000.000đ, còn nợ 500.000.000đ
Nay ông Trần Hồng P yêu cầu Tòa án giải quyết buộc vợ chồng bà phải
liên đới trả nợ khoản tiền gốc là 1.000.000.000 đồng và lãi suất 1,5%/01 tháng từ
ngày 12/02/2014 đến nay. Bà không đồng ý với số nợ như ông P yêu cầu vì thực
tế theo ba giấy vay, vợ chồng có nhận nợ của ông P số tiền là 660.000.000đ, đã
trả xong 160.000.000đ, còn nợ 500.000.000đ. Bà xác định đến nay vợ chồng còn
nợ rất nhiều người, hoàn cảnh gia đình đặc biệt khó khăn, nên không có khả
năng trả được khoản nợ của ông P.
Bị đơn là ông Bùi Văn C: Vắng mặt tại phiên tòa và tất cả các buổi làm
việc, mặc dù đã được tống đạt hợp lệ các văn bản tố tụng, các quyết định xét xử,
quyết định hoãn phiên tòa. Quá trình giải quyết vụ án, ông C trực tiếp gặp vợ là
bà L và được thông báo về việc Tòa án giải quyết việc ông P đòi nợ, nhưng ông
C cũng không có ý kiến gì trình bày. Do vậy, HĐXX căn cứ lời trình bày của
các đương sự khác trong vụ án và các tài liệu chứng cứ thu thập được để giải
4
quyết vụ án theo quy định của pháp luật.
Với nội dung nêu trên, tại Bản án số 39/2024/DS-ST ngày 12/8/2024 của
Tòa án nhân dân huyện V đã quyết định:
Căn cứ vào Điều 280; Điều 288; Điều 463; Điều 466; Điều 468; Điều
469; Điều 357 Bộ luật dân sự. Điều 27; Điều 37 Luật Hôn nhân và gia đình.
Điều 26 Luật thi hành án dân sự. Nghị quyết: 326/2016/UBTVQH14 quy định
về án phí, lệ phí.
Chấp nhận yêu cầu khởi kiện của ông Trần Hồng P về việc yêu cầu buộc
thực hiện nghĩa vụ trả nợ:
Buộc ông Bùi Văn C và bà Lê Thị L phải liên đới trả cho ông Trần Hồng
P: số tiền gốc là 1.000.000.000đ; số tiền lãi là 1.890.000.000 đồng. Tổng cộng là
2.890.000.000 đồng.
Kể từ ngày bản án có hiệu lực pháp luật, và ông P có yêu cầu thi hành án,
nếu vợ chồng ông C, bà L không thanh toán đủ số tiền theo quyết định nêu trên
thì hàng tháng còn phải chịu khoản tiền lãi theo quy định tại khoản 2 Điều 468
của Bộ luật dân sự năm 2015, tương ứng với số tiền và thời gian chậm thanh
toán.
Ngoài ra, Tòa án cấp sơ thẩm còn quyết định về quyền thi hành án, án phí
và quyền kháng cáo của các đương sự.
Ngày 10 tháng 9 năm 2024, ông Bùi Văn C có đơn kháng cáo đề nghị Tòa
án nhân dân tỉnh Vĩnh Phúc xét xử bác một phần yêu cầu khởi kiện của ông
Trần Hồng P, xác nhận vợ chồng ông còn nợ ông P số tiền là 500.000.000 đồng
và không chấp nhận toàn bộ yêu cầu khởi kiện của ông P về lãi suất.
Tại phiên tòa phúc thẩm: Nguyên đơn giữ nguyên yêu cầu khởi kiện, bị
đơn giữ nguyên nội dung kháng cáo. Các đương sự không thỏa thuận được với
nhau về việc giải quyết vụ án.
Đại diện Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Vĩnh Phúc phát biểu quan điểm khẳng
định trong quá trình giải quyết vụ án cũng như tại phiên tòa phúc thẩm Thẩm phán,
Thư ký Tòa án và Hội đồng xét xử đã thực hiện đầy đủ trình tự, thủ tục tố tụng theo
quy định; các đương sự đều chấp hành đúng quy định của pháp luật.
Về đường lối giải quyết vụ án: Kiểm sát viên đề nghị Hội đồng xét xử áp
dụng khoản 2 Điều 308, Điều 309 Bộ luật Tố tụng dân sự, sửa bản án sơ thẩm
theo hướng chấp nhận một phần yêu cầu khởi kiện của ông Trần Hồng P, buộc
ông Bùi Văn C và bà Lê Thị L phải liên đới trả cho ông P số tiền gốc là
500.000.000 đồng và số tiền lãi theo quy định của pháp luật.
NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN:
Sau khi nghiên cứu các tài liệu, chứng cứ đã thu thập có trong hồ sơ vụ án

5
trên cơ sở thẩm tra, xem xét tại phiên toà. Căn cứ vào kết quả tranh luận, trên cơ
sở xem xét đầy đủ, toàn diện lời khai của các đương sự, ý kiến của đại diện Viện
kiểm sát, Hội đồng xét xử nhận thấy:
[1] Về thủ tục tố tụng:
[1.1] Đơn kháng cáo của ông Bùi Văn C làm trong thời hạn theo quy định
tại Điều 273 Bộ luật Tố tụng dân sự, được Hội đồng xét xử xem xét theo trình tự
phúc thẩm.
[1.2] Tại phiên tòa, bị đơn và người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của
nguyên đơn vắng mặt nhưng có đơn đề nghị xét xử vắng mặt. Hội đồng xét xử
tiến hành xét xử vắng mặt theo quy định tại khoản 2 Điều 296 của Bộ luật tố
tụng Dân sự.
[2] Về nội dung: Xét kháng cáo của ông Bùi Văn C đề nghị bác một phần
yêu cầu khởi kiện của ông Trần Hồng P, xác nhận vợ chồng ông còn nợ ông P số
tiền là 500.000.000 đồng và không chấp nhận toàn bộ yêu cầu khởi kiện của ông
P về lãi suất, Hội đồng xét xử phúc thẩm thấy rằng:
[2.1] Quá trình giải quyết vụ án, cả nguyên đơn và bị đơn đều thừa nhận
có mối quan hệ quen biết và nguyên đơn có cho bị đơn vay tiền. Các bên chỉ
không thống nhất về số lần vay tiền và tổng số tiền vay. Nguyên đơn ông Trần
Hồng P cho rằng từ ngày 15/6/2013 đến ngày 20/10/2013, ông C và bà L có vay
tiền ông 4 lần với tổng số tiền vay là 1.160.000.000 đồng với lãi suất
1,5%/tháng. Ngày 12/02/2014 giữa hai bên đã làm văn bản chốt số liệu tiền lãi,
từ đó đến nay ông C, bà L không trả thêm khoản tiền lãi nào cho ông P. Ngày
06/01/2018 ông C, bà L trả cho ông P 160.000.000 đồng tiền gốc. Hiện nay ông
C, bà L còn nợ ông P là 1.000.000.000 đồng và toàn bộ tiền lãi từ 12/02/2014
đến nay.
Phía bị đơn ông C, bà L xác nhận có vay nợ của ông P với thỏa thuận lãi
suất là 1,5%/tháng. Tuy nhiên chỉ vay 3 lần với tổng số tiền là 660.000.000
đồng, ông bà đã trả cho ông P 160.000.000 đồng và nhiều lần tiền lãi. Hiện nay
vợ chồng ông chỉ còn nợ ông P 500.000.000 đồng.
Ông C không tham gia giải quyết vụ án tại cấp sơ thẩm nên không có lời
khai, tuy nhiên căn cứ lời khai của bà L đã khẳng định các chữ ký của vợ chồng
bà trong các trang giấy của cuốn sổ nhận nợ của ông P là chính xác. Bà không
có ý kiến gì về chữ ký của vợ chồng bà. Ông P cũng khẳng định ông C, bà L
trực tiếp ký vào cuốn sổ nhận nợ. Do đó, đây là hợp đồng vay tài sản được xác
lập giữa bên cho vay là ông P, bên vay là ông C, bà L và các bên có thoả thuận về
lãi suất trong hợp đồng. Tại thời điểm giao kết hợp đồng các bên có đầy đủ năng
lực hành vi dân sự, được ký kết trên cơ sở tự nguyện, không trái đạo đức xã hội,
cả nội dung và hình thức đều phù hợp với quy định của pháp luật, thỏa mãn các

6
điều kiện có hiệu lực của Hợp đồng dân sự quy định tại Điều 117 của Bộ luật Dân
sự nên có hiệu lực bắt buộc thực hiện giữa các bên tham gia. Quá trình thực hiện
hợp đồng do bị đơn vi phạm về nghĩa vụ trả nợ nên nguyên đơn khởi kiện yêu cầu
bị đơn trả tiền theo Giấy nhận nợ.
[2.2] Xét các giấy nhận nợ tại các bút lục số 5 và 6 thấy: Quá trình giải
quyết vụ án và tại phiên tòa phúc thẩm, ông P khẳng định chỉ có 03 trang giấy
trong cuốn sổ cá nhân là ghi nội dung vay nợ của vợ chồng ông C, bà L, ngoài ra
không có giấy vay tiền nào khác và trong nội dung đó đã thể hiện tổng số tiền
ông C bà L vay của ông và ông đã giao nộp đủ cho Tòa án.
Tại giấy nhận nợ đề ngày 30/4/2013 có nội dung ông C vay của ông P
400.000.000 đồng; ngày 15/6/2013 “vay thêm anh P” 100.000.000 đồng; ngày
20/8/2013 “Tổng vay” 500.000.000 đồng.
Với nội dung thể hiện tại các giấy nhận nợ có thể thấy ông C, bà L đã có
rất nhiều lần vay tiền của ông P nhưng các bên đã chốt nợ với nhau là gồm 3
khoản: ngày 30/4/2013 là 400.000.000 đồng; ngày 15/6/2013 vay thêm
100.000.000 đồng, ngày 20/8/2013 tổng vay là 500.000.000 đồng. Dưới mỗi
trang giấy nhận nợ đều có chữ ký của ông C, bà L. Đối với khoản vay
160.000.000 đồng các bên đều thừa nhận đã thanh toán cho nhau và ông P cũng
không có đề nghị gì về khoản vay này nên Hội đồng xét xử không xem xét giải
quyết.
Ông P cho rằng giấy nhận nợ ngày 20/8/2013 không phải các bên chốt
tổng nợ của ngày 30/4/2013 và ngày 15/6/2013 mà là ông C, bà L vay thêm của
ông 500.000.000 đồng nữa vì ông C, bà L vay rất nhiều lần mới đủ số tiền
500.000.0000 đồng. Tổng ông C, bà L vay của ông P là 1.000.000.000 đồng.
Tuy nhiên, ông C, bà L không đồng ý, chỉ xác nhận vay của ông P tổng số tiền là
500.000.000 đồng. Hội đồng xét xử xét thấy, sau khi vay của ông P 400.000.000
đồng, ngày 15/6/2013 ông C, bà L vay tiếp ông P 100.000.000 đồng nữa và
trong giấy nhận nợ thể hiện “vay thêm”, sau đó đến ngày 20/8/2013 ghi chữ
“Tổng vay”. Vậy có thể hiểu ngày 20/8/2013 là việc chốt nợ của hai lần vay
ngày 30/4/2013 và ngày 15/6/2013. Ngoài lời trình bày và giấy nhận nợ ông P
đã cung cấp, ông P không giao nộp thêm tài liệu, chứng cứ nào khác chứng minh
cho lời trình bày của mình. Do đó, không có đủ cơ sở cho rằng ngày 20/8/2013
ông C, bà L vay thêm của ông P 500.000.000 đồng. Tòa án cấp sơ thẩm chấp
nhận toàn bộ yêu cầu khởi kiện của ông P là không chính xác. Kháng cáo của
ông C về phần tiền nợ gốc là có căn cứ được chấp nhận.
[3] Về việc tính lãi của khoản vay: Quá trình thực hiện hợp đồng vay, ông
C bà L đã trả được một phần lãi suất cho ông P, các bên đã chốt số tiền lãi tính
đến ngày 12/2/2014. Từ ngày 12/2/2014 ông C, bà L không thanh toán thêm

7
khoản tiền lãi cho ông P, ông P đề nghị tính lãi suất từ ngày 12/02/2014 đến thời
điểm xét xử sơ thẩm. Ông C, bà L không đồng ý trả nợ lãi cho ông P. Xét thấy,
khi giao kết hợp đồng vay nguyên đơn và bị đơn có thỏa thuận về lãi suất và
không ấn định thời gian trả nợ. Do đó, cần chấp nhận yêu cầu khởi kiện về tính lãi
đối với khoản tiền nợ gốc mà ông C bà L chưa trả cho ông P, kháng cáo của ông
C về việc không chấp nhận yêu cầu tính lãi là không có cơ sở nên không được
Hội đồng xét xử chấp nhận. Tuy nhiên, do việc xác định số tiền nợ gốc của Tòa
án cấp sơ thẩm không chính xác nên Hội đồng xét xử phúc thẩm sẽ tính lại lãi
suất của khoản vay, cụ thể như sau:
Lãi suất thỏa thuận của các bên là 1,5%/tháng (tương đương 18%/năm).
Theo quy định tại điểm c khoản 1 Điều 2 của Nghị quyết số 01/2019/NQ-HĐTP
ngày 11/01/2019 của Hội đồng Thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao, hợp đồng
đang được thực hiện mà lãi, lãi suất phù hợp với quy định của Bộ luật Dân sự
năm 2015 thì việc áp dụng pháp luật để xác định lãi, lãi suất từ ngày 12/02/2014
đến trước ngày 01/01/2017 thì áp dụng Điều 476 của Bộ luật Dân sự 2005; từ
ngày 01/01/2017 đến thời điểm xét xử sơ thẩm áp dụng Điều 468 của Bộ luật
Dân sự 2015. Như vậy, việc tính khoản tiền lãi của số tiền vay 500.000.000
đồng nêu trên sẽ chia ra 02 giai đoạn:
- Giai đoạn từ ngày 12/02/2014 đến ngày 31/12/2016 lãi suất không vượt
quá 150% mức lãi suất cơ bản theo Quyết định số 2868/QĐ-NHNN ngày
29/11/2010 của Ngân hàng nhà nước Việt Nam (quy định mức lãi suất cơ bản là
9%/năm, tương ứng với mức 150% lãi suất cơ bản là 13,5%/năm) = 13,5% *
1054 ngày* 500.000.000 đồng/365 = 194.917.808 đồng
- Giai đoạn từ ngày 01/01/2017 đến ngày 12/8/2024 áp dụng lãi suất như
các bên thỏa thuận là 18%/năm = 18% * 2781 ngày *500.000.000 đồng/365=
685.726.027 đồng.
Tổng số tiền lãi từ ngày 12/02/2014 đến ngày 12/8/2024 là 880.643.935 đồng.
[3] Từ phân tích trên xét thấy cần chấp nhận một phần kháng cáo của ông
C, sửa bản án sơ thẩm theo hướng chấp nhận một phần yêu cầu khởi kiện của ông
Trần Hồng P, buộc ông Bùi Văn C và bà L phải trả cho ông P tổng số tiền là
1.380.643.935 đồng (trong đó tiền nợ gốc là 500.000.000 đồng, tiền nợ lãi là
880.643.935 đồng). Đề nghị của đại diện Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Vĩnh Phúc
có cơ sở được Hội đồng xét xét chấp nhận.
[4] Về án phí:
[4.1] Án phí dân sự sơ thẩm: Hội đồng xét xử sửa bản án sơ thẩm do đó
sẽ xác định lại nghĩa vụ chịu án phí sơ thẩm, ông Bùi Văn C và bà Lê Thị L phải
chịu án phí dân sự sơ thẩm. Theo quy định tại Nghị quyết số 326/2016/NQ-
UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Uỷ ban thường vụ Quốc hội quy định về thu,

8
nộp án phí, lệ phí Tòa án thì tranh chấp trị giá từ 400.000.000 đồng đến
2.000.000.000 đồng thì phải chịu 12.000.000 đồng + 2% của phần giá trị có
tranh chấp vượt quá 400.000.000 đồng. Ông C, bà L phải chịu 12.000.000 đồng
+ 2% * (1.380.643.935 – 400.000.000) đồng = 31.612.878 đồng tiền án phí.
[4.2] Án phí dân sự phúc thẩm: Do kháng cáo được chấp nhận một phần
nên ông Bùi Văn C không phải chịu án phí dân sự phúc thẩm.
Vì các lẽ trên,
QUYẾT ĐỊNH:
Căn cứ vào Điều 147, Điều 148, khoản 2 Điều 308, Điều 309 của Bộ luật
Tố tụng dân sự; Nghị quyết số 01/2019/NQ-HĐTP ngày 11/01/2019 của Hội
đồng Thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao; Nghị quyết số 326/2016/NQ-
UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Uỷ ban thường vụ Quốc hội quy định về thu,
nộp án phí, lệ phí Tòa án;
1. Chấp nhận một phần kháng cáo của ông Bùi Văn C, sửa bản án dân sự
sơ thẩm số 39/2024/DS-ST ngày 12/8/2024 của Tòa án nhân dân huyện V theo
hướng chấp nhận một phần yêu cầu khởi kiện của ông Trần Hồng P. Buộc ông
Bùi Văn C và bà L phải trả cho ông P tổng số tiền là 1.380.643.935 đồng (Một tỷ
ba trăm tám mươi triệu sáu trăm bốn mươi ba nghìn chín trăm ba mươi lăm
đồng); (trong đó tiền nợ gốc là 500.000.000 đồng, tiền nợ lãi là 880.643.935
đồng).
Kể từ ngày 13/8/2024 (ngày tiếp theo của ngày xét xử sơ thẩm) cho đến
khi thi hành án xong, ông Bùi Văn C và bà Lê Thị L còn phải chịu khoản tiền
lãi của số tiền còn phải thi hành án theo mức lãi suất quy định tại khoản 2 Điều
468 Bộ luật Dân sự.
2. Về án phí:
- Án phí dân sự sơ thẩm: Ông Bùi Văn C và bà Lê Thị L phải chịu
31.612.878 đồng (Ba mươi mốt triệu sáu trăm mười hai nghìn tám tăm bảy mươi
tám đồng) tiền án phí.
- Án phí dân sự phúc thẩm: Ông Bùi Văn C không phải chịu. Hoàn trả lại
ông C 300.000 đồng (Ba trăm nghìn đồng) tiền tạm ứng án phí đã nộp theo biên lai
thu tạm ứng án phí, lệ phí Tòa án số 0005053 ngày 28/8/2024 của Chi cục thi hành
án dân sự huyện V, tỉnh Vĩnh Phúc.
3. Trường hợp bản án được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật Thi
hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự
có quyền thoả thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành
án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các Điều 6, 7 và 9 Luật Thi
hành án dân sự; thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30
Luật Thi hành án dân sự.
9
4. Bản án phúc thẩm có hiệu lực pháp luật kể từ ngày tuyên án./.
Nơi nhận:
- VKSND tỉnh Vĩnh Phúc;
- VKSND huyện V;
- TAND huyện Vĩnh Tường ;
- Chi cục THADS huyện Vĩnh Tường;
- Các đương sự;
- Lưu Hồ sơ, HCTP.
TM. HỘI ĐỒNG XÉT XỬ PHÚC THẨM
THẨM PHÁN - CHỦ TỌA PHIÊN TÒA
(Đã ký)
Đỗ Anh Cường
10
11
Tải về
Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để tải file. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!
Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để tải file. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!
Bản án/ Quyết định cùng đối tượng
1
Ban hành: 21/05/2025
Cấp xét xử: Phúc thẩm
2
Ban hành: 13/05/2025
Cấp xét xử: Phúc thẩm
3
Ban hành: 08/05/2025
Cấp xét xử: Phúc thẩm
4
Ban hành: 05/05/2025
Cấp xét xử: Phúc thẩm
5
Ban hành: 29/04/2025
Cấp xét xử: Phúc thẩm
6
Ban hành: 28/04/2025
Cấp xét xử: Phúc thẩm
7
Ban hành: 28/04/2025
Cấp xét xử: Phúc thẩm
8
Ban hành: 25/04/2025
Cấp xét xử: Phúc thẩm
9
Ban hành: 25/04/2025
Cấp xét xử: Phúc thẩm
10
Bản án số 116/2025/DS-PT ngày 25/04/2025 của TAND tỉnh Bình Dương về tranh chấp hợp đồng vay tài sản
Ban hành: 25/04/2025
Cấp xét xử: Phúc thẩm
11
Ban hành: 25/04/2025
Cấp xét xử: Phúc thẩm
12
Ban hành: 25/04/2025
Cấp xét xử: Phúc thẩm
13
Ban hành: 25/04/2025
Cấp xét xử: Phúc thẩm
14
Ban hành: 24/04/2025
Cấp xét xử: Phúc thẩm
15
Ban hành: 24/04/2025
Cấp xét xử: Phúc thẩm
16
Ban hành: 24/04/2025
Cấp xét xử: Phúc thẩm
17
Ban hành: 24/04/2025
Cấp xét xử: Phúc thẩm
18
Ban hành: 23/04/2025
Cấp xét xử: Phúc thẩm
19
Ban hành: 23/04/2025
Cấp xét xử: Phúc thẩm
20
Ban hành: 22/04/2025
Cấp xét xử: Phúc thẩm