Bản án số 59/2025/DS-PT ngày 15/04/2025 của TAND tỉnh Vĩnh Phúc về tranh chấp hợp đồng vay tài sản

  • Thuộc tính
  • Nội dung
  • VB gốc
  • VB liên quan
  • Lược đồ
  • Đính chính
  • Án lệ
  • BA/QĐ cùng nội dung
  • Tải về
Tải văn bản
Báo lỗi
  • Gửi liên kết tới Email
  • Chia sẻ:
  • Chế độ xem: Sáng | Tối
  • Thay đổi cỡ chữ:
    17

Thuộc tính Bản án 59/2025/DS-PT

Tên Bản án: Bản án số 59/2025/DS-PT ngày 15/04/2025 của TAND tỉnh Vĩnh Phúc về tranh chấp hợp đồng vay tài sản
Quan hệ pháp luật: Tranh chấp hợp đồng vay tài sản
Cấp xét xử: Phúc thẩm
Tòa án xét xử: TAND tỉnh Vĩnh Phúc
Số hiệu: 59/2025/DS-PT
Loại văn bản: Bản án
Ngày ban hành: 15/04/2025
Lĩnh vực: Dân sự
Áp dụng án lệ:
Đã biết

Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để xem áp dụng án lệ. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!

Đính chính:
Đã biết

Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để xem đính chính. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!

Thông tin về vụ/việc: Ông P và ông C, bà L tranh chấp hợp đồng vay tiền
Tóm tắt Bản án

Nội dung tóm tắt đang được cập nhật, Quý khách vui lòng quay lại sau!

Tải văn bản

TOÀ ÁN NHÂN DÂN
TỈNH VĨNH PHÚC
Bản án số: 59/2025/DS-PT
Ngày 15 - 4 - 2025
V/v Tranh chấp hợp đồng vay tài sản
CỘNG HÒA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM
Độc lập - Tự do - Hạnh phúc
NHÂN DANH
NƯỚC CỘNG HOÀ XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM
TOÀ ÁN NHÂN DÂN TỈNH VĨNH PHÚC
- Thành phần Hội đồng xét xử phúc thẩm gồm có:
Thẩm phán - Chủ toạ phiên toà: Ông Đỗ Anh Cường.
Các Thẩm phán: Ông Nguyễn Duy Sơn.
Ông Nguyễn Vĩnh Thành.
- Thư phiên toà: Đào ThTuyền - Thư ký Toà án nhân dân tỉnh
nh Pc.
- Đại diện Viện kiểm sát nhân dân tỉnh nh Phúc: Thị Loan -
Kiểm sát viên tham gia phiên tòa.
Ngày 15 tháng 4 năm 2025, tại trụ sở Toà án nhân dân tỉnh Vĩnh Phúc xét
xử phúc thẩm công khai vụ án dân sự thụ lý số: 198/2024/TLPT-DS ngày
24/12/2024 về việc “Tranh chấp hợp đồng vayi sản”.
Do Bản án dân sự sơ thẩm số: 39/2024/DS-ST ngày 12 tháng 8 năm 2024
của Toà án nhân dân huyện V, tỉnh Vĩnh Phúc bị kháng cáo.
Theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử phúc thẩm số: 73/2025/QĐ-PT ngày
24 tháng 02 năm 2025, giữa các đương sự:
1. Nguyên đơn: Ông Trần Hồng P, sinh m 1962; địa chỉ: Thôn P1,
Q1, huyện X, tỉnh Vĩnh Phúc, có mặt.
Người đại diện theo ủy quyền của ông P: Anh Vũ Duy Tr, sinh năm 1983;
địa chỉ: Thôn Y1, T1, huyện M1, thành phố Nội (Văn bản ủy quyền ngày
27/6/2024), có mặt.
Người bảo vệ quyền lợi ích hợp pháp của ông P: Ông Bùi Quốc H -
Luật sư thuộc Công ty Luật Z, đoàn Luật sư tỉnh Vĩnh Phúc, vắng mặt;
Địa chỉ: Số 68 đường N1, phường L2, thành phố V, tỉnh Vĩnh Phúc.
2. Bị đơn: Ông Bùi Văn C, sinh năm 1970 và bà Lê Thị L, sinh năm 1974;
cùng địa chỉ: Thôn Ch, xã Th, huyện V, tỉnh Vĩnh Phúc, đều vắng mặt.
Người đại diện theo ủy quyền của bị đơn: Ông Nguyễn Minh K, sinh năm
1978; địa chỉ: phường Đ1, thành phV, tỉnh Vĩnh Phúc (Văn bản ủy quyền ngày
09/9/2024), có mặt.
2
Người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của bị đơn: Ông Nguyễn Văn Đ -
Luật sư thuộc Công ty Luật W, đoàn Luật sư thành phố Hà Nội, có mặt.
3. Người kháng cáo: Ông Bùi Văn C - Bị đơn.
NỘI DUNG VỤ ÁN:
Theo đơn khởi kiện ngày 15 tháng 01 năm 2024, những lời trình bày tiếp
theo trong quá trình giải quyết vụ án tại phiên tòa, nguyên đơn người đại
diện theo ủy quyền của nguyên đơn trình bày:
Ông Trần Hồng P vợ chồng ông Bùi Văn C, Thị L mối quan
hệ quen biết, làm ăn với nhau nhiều năm. Vợ chồng ông C làm nghề kinh doanh,
buôn bán thức ăn chăn nuôi, ông P làm nghề lái xe tải nên thường xuyên vận
chuyển hàng hóa cho vchồng ông Cảnh, Liệu. Quá trình kinh doanh, do
thiếu vốn nên vợ chồng ông bà C, L nhiều lần vay tiền của ông P; do là chỗ thân
quen nên ông P đã nhiều lần cho vay tiền, những lần vay đều xác lập bằng giấy
vay nợ, chữ của cả hai vợ chồng ông C L; các bên thỏa thuận lãi suất
vay là 1,5%/01 tháng; việc cho vay nợ không xác định thời hạn trả nợ, chỉ thỏa
thuận là khi nào ông P cần thì vợ chồng ông bà C, L sẽ trả. Cụ thể:
Ngày 30/04/2013, ông P cho vợ chồng ông C, L vay số tiền
400.000.000 đồng.
Ngày 15/06/2013, ông P cho vợ chồng ông C, L vay số tiền
100.000.000 đồng
Ngày 20/08/2013 ông P cho vợ chồng ông C, L vay số tiền
500.000.000 đồng
Ngày 20/10/2013 ông P cho vợ chồng ông C, L vay số tiền
160.000.000 đồng.
Tổng số tiền vay là 1.160.000.000 đồng.
Quá trình vay tiền, ngày 06/01/2018 vợ chồng ông C, L đã trả cho ông
P số tiền gốc của khoản vay 160.000.000 đồng. Còn lại 1.000.000.000 đồng đến
nay vẫn chưa thanh toán. Số tiền lãi của các khoản vay ông bà C, L đã trả đến
đầu năm 2014. Ngày 12/02/2014 giữa hai bên làm văn bản chốt số liệu trả tiền
lãi, và từ đó đến nay ông bà C, L không trả thêm khoản tiền lãi nào nữa. Sau đó,
ông P đã nhiều lần đôn đốc nhưng ông C, L không thanh toán thêm khoản
tiền nào nữa.
Nhận thấy, việc ông C, L không thực hiện đúng nghĩa vụ theo cam kết
nhận nợ hành vi vi phạm nghĩa vụ trả nợ của bên vay theo quy định của Bộ
luật dân sự năm 2005. vậy, ông P đề nghị Tòa án nhân dân huyện V: Buộc
ông Bùi Đức Cảnh vợ Thị L phải liên đới trả nợ cho ông P những
khoản tiền như sau:
3
- Tiền nợ gốc: 1.000.000.000 đồng.
- Tin i 1,5%/tháng, tính từ ny 12/02/2014 đến hết ngày 12/8/2024 (ngày
xét x sơ thm) là 126 tng. 1,5% x 1.000.000.000 đồng x 126 tng =
1.890.000.000 đồng.
Đi với tin i của khoản vay 160.000.000 đồng, từ ngày 12/02/2014 đến
ny 06/01/2018, ông P kng yêu cầu phải tr, không đnghị gii quyết.
Tổng cộng số tiền nợ gốc và lãi là: 2.890.000.000 đồng.
- Về án phí: Đề nghị giải quyết theo quy định.
Bị đơn Thị L vắng mặt tại phiên tòa thẩm, nhưng quá trình
giải quyết vụ án và tại biên bản lời khai ngày 23/02/2024 trình bày:
vợ của ông C. Do khó khăn về làm ăn kinh tế nên ông C đã đi làm
ăn xa, thỉnh thoảng về địa phương. Ông Trần Hồng P không mối quan hệ
gia đình, họ hàng với vợ chồng mà chỉ chỗ quen biết trong làm ăn. Đối
với việc ông C quan hệ làm ăn, vay nợ với ông P thì không biết cụ thể.
Khoảng năm 2013, chồng vay tiền của ông P chồng yêu cầu
phải vào giấy vay nợ của ông P như chồng nói cho đúng thủ tục.
đồng ý vào các giấy vay đã được chồng trước đó. Tại thời điểm
giấy chỉ 03 người vợ chồng ông P. xác định giấy nhận nợ ngày
30/4/2013, ngày 15/6/2013, ngày 20/8/2013 ngày 20/10/2013 toàn bộ chữ
ký, chữ viết của vợ chồng bà.
Về quá trình trả nợ, vào ngày 06/01/2018, ông P thuê anh Phạm Văn
Hải đến gia đình đthu nợ. Tại buổi trên, trả được cho ông P số tiền
160.000.000đ của số nợ từ ngày 02/01/2013. Bà xác nhận trong giấy vay trên chỉ
thể hiện số nợ của ba lần vay 660.000.000đ. Vợ chồng đã trả cho ông P được
160.000.000đ, còn nợ 500.000.000đ
Nay ông Trần Hồng P yêu cầu Tòa án giải quyết buộc vợ chồng phi
ln đới trả n khoản tiền gốc là 1.000.000.000 đồng và lãi suất 1,5%/01 tháng từ
ny 12/02/2014 đến nay. Bà không đồng ý với số nợ như ông P yêu cầu thực
tế theo ba giấy vay, vchồng nhận nợ của ông P số tiền 660.000.000đ, đã
trả xong 160.000.000đ, còn nợ 500.000.00. Bà xác định đến nay vợ chồng còn
nợ rất nhiều người, hoàn cảnh gia đình đặc biệt khó khăn, nên không khả
năng trả được khoản nợ của ông P.
Bị đơn ông Bùi Văn C: Vắng mặt tại phiên tòa tất cả các buổi làm
việc, mặc dù đã được tống đạt hợp lệ các văn bản tố tụng, các quyết định xét xử,
quyết định hoãn phiên tòa. Quá trình giải quyết vụ án, ông C trực tiếp gặp vợ
L được thông báo vviệc Tòa án giải quyết việc ông P đòi nợ, nhưng ông
C cũng không ý kiến trình bày. Do vậy, HĐXX căn cứ lời trình bày của
các đương sự khác trong vụ án các tài liệu chứng cứ thu thập được để giải
4
quyết vụ án theo quy định của pháp luật.
Với nội dung nêu trên, tại Bản án số 39/2024/DS-ST ngày 12/8/2024 của
Tòa án nhân dân huyện V đã quyết định:
Căn cứ vào Điều 280; Điều 288; Điều 463; Điều 466; Điều 468; Điều
469; Điều 357 Bộ luật dân sự. Điều 27; Điều 37 Luật Hôn nhân gia đình.
Điều 26 Luật thi hành án dân sự. Nghị quyết: 326/2016/UBTVQH14 quy định
về án phí, lệ phí.
Chấp nhận yêu cầu khởi kiện của ông Trần Hồng P về việc yêu cầu buộc
thực hiện nghĩa vụ trả nợ:
Buộc ông Bùi n C Thị L phải liên đới trả cho ông Trần Hồng
P: số tiền gốc là 1.000.000.000đ; số tiền lãi là 1.890.000.000 đồng. Tổng cộng là
2.890.000.000 đồng.
Kể từ ngày bản án có hiệu lực pháp luật, ông P yêu cầu thi hành án,
nếu vợ chồng ông C, L không thanh toán đủ số tiền theo quyết định nêu trên
thì hàng tháng còn phải chịu khoản tiền lãi theo quy định tại khoản 2 Điều 468
của Bộ luật dân sự năm 2015, tương ứng với số tiền thời gian chậm thanh
toán.
Ngoài ra, Tòa án cấp sơ thẩm còn quyết định về quyền thi hành án, án phí
và quyền kháng cáo của các đương sự.
Ngày 10 tháng 9 năm 2024, ông Bùi Văn C đơn kháng cáo đề nghị Tòa
án nhân dân tỉnh Vĩnh Phúc xét xử bác một phần yêu cầu khởi kiện của ông
Trần Hồng P, xác nhận vợ chồng ông còn nợ ông P số tiền 500.000.000 đồng
và không chấp nhận toàn bộ yêu cầu khởi kiện của ông P về lãi suất.
Tại phiên tòa phúc thẩm: Nguyên đơn giữ nguyên yêu cầu khởi kiện, bị
đơn giữ nguyên nội dung kháng cáo. Các đương sự không thỏa thuận được với
nhau về việc giải quyết vụ án.
Đại diện Viện kiểm t nhân dân tỉnh nh Phúc phát biểu quan điểm khẳng
định trong q trình giải quyết vụ án cũng n tại phiêna pc thẩm Thẩm phán,
T ký Tòa án Hội đồngt xử đã thực hiện đầy đủ trình tự, thủ tục tố tụng theo
quy định; các đương sự đều chấp hành đúng quy định của pháp luật.
Về đường lối giải quyết vụ án: Kiểm sát viên đề nghị Hội đồng xét xử áp
dụng khoản 2 Điều 308, Điều 309 Bộ luật Tố tụng dân sự, sửa bản án thẩm
theo hướng chấp nhận một phần yêu cầu khởi kiện của ông Trần Hồng P, buộc
ông i Văn C bà Th L phải liên đới trả cho ông P số tiền gốc
500.000.000 đồng và số tiền lãi theo quy định của pháp luật.
NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN:
Sau khi nghiên cứu các tài liệu, chứng cứ đã thu thập có trong hồ sơ vụ án
5
trên cơ sở thẩm tra, xem xét tại phiên toà. Căn cứ vào kết quả tranh luận, trên cơ
sở xem xét đầy đủ, toàn diện lời khai của các đương sự, ý kiến của đại diện Viện
kiểm sát, Hội đồng xét xử nhận thấy:
[1] Về thủ tục tố tụng:
[1.1] Đơn kháng cáo của ông Bùi Văn C làm trong thời hạn theo quy định
tại Điều 273 Bộ luật Tố tụng dân sự, được Hội đồng xét xử xem xét theo trình tự
phúc thẩm.
[1.2] Tại phiên tòa, bị đơn và người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của
nguyên đơn vắng mặt nhưng đơn đề nghị xét xử vắng mặt. Hội đồng xét xử
tiến hành xét xvắng mặt theo quy định tại khoản 2 Điều 296 của Bộ luật tố
tụng Dân sự.
[2] Về nội dung: Xét kháng cáo của ông Bùi Văn C đề nghị bác một phần
yêu cầu khởi kiện của ông Trần Hồng P, xác nhận vợ chồng ông còn nợ ông P số
tiền là 500.000.000 đồng và không chấp nhận toàn bộ yêu cầu khởi kiện của ông
P về lãi suất, Hội đồng xét xử phúc thẩm thấy rằng:
[2.1] Quá trình giải quyết vụ án, cả nguyên đơn bị đơn đều thừa nhận
mối quan hệ quen biết nguyên đơn cho bị đơn vay tiền. Các bên chỉ
không thống nhất về số lần vay tiền tổng số tiền vay. Nguyên đơn ông Trần
Hồng P cho rằng từ ngày 15/6/2013 đến ngày 20/10/2013, ông C bà L vay
tiền ông 4 lần với tổng số tiền vay 1.160.000.000 đồng với lãi suất
1,5%/tháng. Ngày 12/02/2014 giữa hai bên đã làm văn bản chốt số liệu tiền lãi,
từ đó đến nay ông C, L không trả thêm khoản tiền lãi nào cho ông P. Ngày
06/01/2018 ông C, L trả cho ông P 160.000.000 đồng tiền gốc. Hiện nay ông
C, L còn nợ ông P 1.000.000.000 đồng toàn bộ tiền lãi từ 12/02/2014
đến nay.
Phía bị đơn ông C, L xác nhận vay nợ của ông P với thỏa thuận lãi
suất là 1,5%/tháng. Tuy nhiên chỉ vay 3 lần với tổng số tiền 660.000.000
đồng, ông đã trả cho ông P 160.000.000 đồng nhiều lần tiền lãi. Hiện nay
vợ chồng ông chỉ còn nợ ông P 500.000.000 đồng.
Ông C không tham gia giải quyết vụ án tại cấp thẩm nên không lời
khai, tuy nhiên căn cứ lời khai của L đã khẳng định các chữ của vợ chồng
trong các trang giấy của cuốn sổ nhận nợ của ông P chính xác. không
ý kiến gì về chữ của vợ chồng bà. Ông P cũng khẳng định ông C, L
trực tiếp vào cuốn sổ nhận nợ. Do đó, đây hợp đồng vay tài sản được xác
lập giữa bên cho vayông P, bên vay là ông C, bà L và các bên có thoả thuận về
lãi suất trong hợp đồng. Tại thời điểm giao kết hợp đồng các bên có đầy đủ ng
lực nh vi dân sự, được kết trên sở tự nguyện, không trái đạo đức hội,
cả nội dung hình thức đều phợp với quy định của pháp luật, thỏa mãn c
6
điều kiện có hiệu lực của Hợp đồng dân sự quy định tại Điều 117 của Bộ luật Dân
sự nên hiệu lực bắt buộc thực hiện giữa các bên tham gia. Quá trình thực hiện
hợp đồng do bị đơn vi phạm về nghĩa vụ trả nợ nên nguyên đơn khởi kiện yêu cầu
bị đơn trả tiền theo Giấy nhận n.
[2.2] Xét các giấy nhận nợ tại các bút lục số 5 6 thấy: Quá trình giải
quyết vụ án tại phiên tòa phúc thẩm, ông P khẳng định chỉ 03 trang giấy
trong cuốn sổ cá nhân là ghi nội dung vay nợ của vợ chồng ông C, bà L, ngoài ra
không giấy vay tiền nào khác và trong nội dung đó đã thể hiện tổng số tiền
ông C bà L vay của ông và ông đã giao nộp đủ cho Tòa án.
Tại giấy nhận nợ đngày 30/4/2013 nội dung ông C vay của ông P
400.000.000 đồng; ngày 15/6/2013 “vay thêm anh P” 100.000.000 đồng; ngày
20/8/2013 “Tổng vay” 500.000.000 đồng.
Với nội dung thể hiện tại các giấy nhận nợ thể thấy ông C, L đã
rất nhiều lần vay tiền của ông P nhưng các bên đã chốt nợ với nhau gồm 3
khoản: ngày 30/4/2013 là 400.000.000 đồng; ngày 15/6/2013 vay thêm
100.000.000 đồng, ngày 20/8/2013 tổng vay 500.000.000 đồng. Dưới mỗi
trang giấy nhận nợ đều chữ ký của ông C, L. Đối với khoản vay
160.000.000 đồng các bên đều thừa nhận đã thanh toán cho nhau ông P cũng
không có đề nghị về khoản vay này nên Hội đồng xét xử không xem xét giải
quyết.
Ông P cho rằng giấy nhận nợ ngày 20/8/2013 không phải các bên chốt
tổng nợ của ngày 30/4/2013 ngày 15/6/2013 mà ông C, L vay thêm của
ông 500.000.000 đồng nữa ông C, L vay rất nhiều lần mới đủ số tiền
500.000.0000 đồng. Tổng ông C, L vay của ông P 1.000.000.000 đồng.
Tuy nhiên, ông C, bà L không đồng ý, chỉ xác nhận vay của ông P tổng số tiền là
500.000.000 đồng. Hội đồng xét xử xét thấy, sau khi vay của ông P 400.000.000
đồng, ngày 15/6/2013 ông C, L vay tiếp ông P 100.000.000 đồng nữa
trong giấy nhận nợ thể hiện “vay thêm”, sau đó đến ngày 20/8/2013 ghi chữ
“Tổng vay”. Vậy thể hiểu ngày 20/8/2013 việc chốt nợ của hai lần vay
ngày 30/4/2013 ngày 15/6/2013. Ngoài lời trình bày và giấy nhận nợ ông P
đã cung cấp, ông P không giao nộp thêm tài liệu, chứng cứ nào khác chứng minh
cho lời trình bày của mình. Do đó, không đủ sở cho rằng ngày 20/8/2013
ông C, L vay thêm của ông P 500.000.000 đồng. Tòa án cấp thẩm chấp
nhận toàn bộ yêu cầu khởi kiện của ông P không chính xác. Kháng cáo của
ông C về phần tiền nợ gốc là có căn cứ được chấp nhận.
[3] Về việc tính lãi của khoản vay: Qtrình thực hiện hợp đồng vay, ông
C L đã trả được một phần lãi suất cho ông P, các bên đã chốt số tiền lãi nh
đến ngày 12/2/2014. Từ ngày 12/2/2014 ông C, L không thanh toán thêm
7
khoản tiền lãi cho ông P, ông P đề nghị tính i suất từ ngày 12/02/2014 đến thời
điểm xét xử thẩm. Ông C, L không đồng ý trnợ i cho ông P. t thấy,
khi giao kết hợp đồng vay nguyên đơn bị đơn thỏa thuận về lãi suất
không ấn định thời gian trả nợ. Do đó, cần chấp nhậnu cầu khởi kiện về tính lãi
đối với khoản tiền nợ gốc mà ông C L chưa trả cho ông P, kháng cáo của ông
C về việc không chấp nhận u cầu nh lãi không sở nên không được
Hội đồng xét xử chấp nhận. Tuy nhiên, do việc xác định số tiền nợ gốc của Tòa
án cấp thẩm không chính c nên Hội đồng xét xử phúc thẩm sẽ tính lại i
suất của khoản vay, cụ thể nsau:
Lãi suất thỏa thuận của các bên 1,5%/tháng (tương đương 18%/năm).
Theo quy định tại điểm c khoản 1 Điều 2 của Nghị quyết số 01/2019/NQ-HĐTP
ngày 11/01/2019 của Hội đồng Thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao, hợp đồng
đang được thực hiện lãi, lãi suất phù hợp với quy định của Bộ luật Dân sự
năm 2015 thì việc áp dụng pháp luật để xác định lãi, lãi suất từ ngày 12/02/2014
đến trước ngày 01/01/2017 thì áp dụng Điều 476 của Bộ luật Dân sự 2005; từ
ngày 01/01/2017 đến thời điểm xét xthẩm áp dụng Điều 468 của Bộ luật
Dân sự 2015. Như vậy, việc tính khoản tiền lãi của s tiền vay 500.000.000
đồng nêu trên sẽ chia ra 02 giai đoạn:
- Giai đoạn từ ngày 12/02/2014 đến ngày 31/12/2016 lãi suất không vượt
quá 150% mức lãi suất cơ bản theo Quyết định số 2868/QĐ-NHNN ngày
29/11/2010 của Ngân hàng nhà nước Việt Nam (quy định mức lãi suất bản là
9%/năm, tương ứng với mức 150% lãi suất bản 13,5%/năm) = 13,5% *
1054 ngày* 500.000.000 đồng/365 = 194.917.808 đồng
- Giai đoạn từ ngày 01/01/2017 đến ngày 12/8/2024 áp dụng lãi suất như
các bên thỏa thuận 18%/năm = 18% * 2781 ngày *500.000.000 đồng/365=
685.726.027 đồng.
Tng stin i từ ny 12/02/2014 đến ngày 12/8/2024 880.643.935 đồng.
[3] Từ phân tích trên xét thấy cần chấp nhận một phần kháng cáo của ông
C, sửa bản án sơ thẩm theo hướng chấp nhận một phần yêu cầu khởi kiện của ông
Trần Hồng P, buộc ông Bùi n C L phải trả cho ông P tổng số tiền
1.380.643.935 đồng (trong đó tiền nợ gốc 500.000.000 đồng, tiền nợ lãi
880.643.935 đồng). Đề nghị của đại diện Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Vĩnh Phúc
có cơ sở được Hội đồng xét xét chấp nhận.
[4] Về án phí:
[4.1] Án phí dân sự thẩm: Hội đồng xét xử sửa bản án thẩm do đó
sẽ xác định lại nghĩa vụ chịu án phí sơ thẩm, ông Bùi Văn C và bà Lê Thị L phải
chịu án pdân sự thẩm. Theo quy định tại Nghị quyết s 326/2016/NQ-
UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Uỷ ban thường vụ Quốc hội quy định về thu,
8
nộp án phí, lệ phí Tòa án thì tranh chấp trị giá từ 400.000.000 đồng đến
2.000.000.000 đồng thì phải chịu 12.000.000 đồng + 2% của phần g trị
tranh chấp vượt quá 400.000.000 đồng. Ông C, L phải chịu 12.000.000 đồng
+ 2% * (1.380.643.935 400.000.000) đồng = 31.612.878 đồng tiền án phí.
[4.2] Án phí dân sự phúc thẩm: Do kháng cáo được chấp nhận một phần
nên ông Bùi Văn C không phải chịu án phí dân sự phúc thẩm.
Vì các lẽ trên,
QUYẾT ĐỊNH:
Căn cứ vào Điều 147, Điều 148, khoản 2 Điều 308, Điều 309 của Bluật
Tố tụng dân sự; Nghị quyết số 01/2019/NQ-HĐTP ngày 11/01/2019 của Hội
đồng Thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao; Nghị quyết số 326/2016/NQ-
UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Uỷ ban thường vụ Quốc hội quy định về thu,
nộp án phí, lệ phí Tòa án;
1. Chấp nhận một phần kháng cáo của ông Bùi n C, sửa bản án dân sự
thẩm số 39/2024/DS-ST ngày 12/8/2024 của Tòa án nhân dân huyện V theo
hướng chấp nhận một phần yêu cầu khởi kiện của ông Trần Hồng P. Buộc ông
Bùi Văn C và bà L phải trả cho ông P tổng số tiền là 1.380.643.935 đồng (Một tỷ
ba trăm tám mươi triệu sáu trăm bốn mươi ba nghìn chín trăm ba mươi m
đồng); (trong đó tiền nợ gốc 500.000.000 đồng, tiền nợ lãi 880.643.935
đồng).
Kể từ ngày 13/8/2024 (ngày tiếp theo của ngày xét xử thẩm) cho đến
khi thi hành án xong, ông Bùi Văn C Thị L còn phải chịu khoản tiền
lãi của stiền còn phải thi hành án theo mức lãi suất quy định tại khoản 2 Điều
468 Bộ luật Dân sự.
2. Về án phí:
- Án phí dân sự thẩm: Ông Bùi Văn C Thị L phải chịu
31.612.878 đồng (Ba mươi mốt triệu sáu trăm mười hai nghìn tám tăm bảy mươi
tám đồng) tiền án phí.
- Án phí dân sự phúc thẩm: Ông Bùi n C không phải chịu. Hoàn trlại
ông C 300.000 đồng (Ba tm nghìn đồng) tiền tạm ng án phí đã nộp theo bn lai
thu tạm ứng án phí, lệ phía án số 0005053 ny 28/8/2024 của Chi cục thinh
án n sự huyn V, tỉnh Vĩnh Phúc.
3. Trường hợp bản án được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật Thi
hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự
quyền thoả thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành
án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các Điều 6, 7 9 Luật Thi
hành án dân sự; thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30
Luật Thi hành án dân sự.
9
4. Bản án phúc thẩm có hiệu lực pháp luật kể từ ngày tuyên án./.
Nơi nhận:
- VKSND tỉnh Vĩnh Phúc;
- VKSND huyện V;
- TAND huyện Vĩnh Tường ;
- Chi cục THADS huyện Vĩnh Tường;
- Các đương sự;
- Lưu Hồ sơ, HCTP.
TM. HỘI ĐỒNG XÉT XỬ PHÚC THẨM
THẨM PHÁN - CHỦ TỌA PHIÊN TÒA
(Đã ký)
Đỗ Anh Cường
10
11
Tải về
Bản án số 59/2025/DS-PT Bản án số 59/2025/DS-PT

Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để tải file. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!

Bản án số 59/2025/DS-PT Bản án số 59/2025/DS-PT

Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để tải file. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!

Bản án/ Quyết định cùng đối tượng

Bản án cùng lĩnh vực

Bản án mới nhất