Bản án số 556/2025/DS-PT ngày 28/05/2025 của TAND cấp cao tại TP.HCM về tranh chấp đòi nhà cho thuê

  • Thuộc tính
  • Nội dung
  • VB gốc
  • VB liên quan
  • Lược đồ
  • Đính chính
  • Án lệ
  • BA/QĐ cùng nội dung
  • Tải về
Tải văn bản
Báo lỗi
  • Gửi liên kết tới Email
  • Chia sẻ:
  • Chế độ xem: Sáng | Tối
  • Thay đổi cỡ chữ:
    17

Thuộc tính Bản án 556/2025/DS-PT

Tên Bản án: Bản án số 556/2025/DS-PT ngày 28/05/2025 của TAND cấp cao tại TP.HCM về tranh chấp đòi nhà cho thuê
Quan hệ pháp luật: Tranh chấp đòi nhà cho thuê
Cấp xét xử: Phúc thẩm
Tòa án xét xử: TAND cấp cao tại TP.HCM
Số hiệu: 556/2025/DS-PT
Loại văn bản: Bản án
Ngày ban hành: 28/05/2025
Lĩnh vực: Dân sự
Áp dụng án lệ:
Đã biết

Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để xem áp dụng án lệ. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!

Đính chính:
Đã biết

Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để xem đính chính. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!

Thông tin về vụ/việc: Ông Bùi Quang H kiện Bà Cao Thị G về Tranh chấp đòi quyền sử dụng đất, tuyên bố hợp đồng cầm cố vô hiệu, bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng
Tóm tắt Bản án

Nội dung tóm tắt đang được cập nhật, Quý khách vui lòng quay lại sau!

Tải văn bản

TÒA ÁN NHÂN DÂN CẤP CAO
TẠI THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH
Bản án số: 556/2025/DS-PT
Ngày 28/5/2025
V/v “Tranh chp đòi quyền sdụng đt,
yêu cầu tuyên b hợp đng cầm c vô hiệu,
bồi thường thit hại ngoài hợp đng.
CỘNG HÒA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM
Độc lập - Tự do - Hạnh phúc
NHÂN DANH
NƯỚC CỘNG HÒA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM
TÒA ÁN NHÂN DÂN CẤP CAO TẠI THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH
- Thành phần Hội đồng xét xử phúc thẩm gồm có:
Thẩm phán - Chủ tọa phiên tòa:
Ông Đặng Văn Ý
Các Thẩm phán:
Ông Vương Minh Tâm
Ông Nguyễn Văn Minh
- Thư ký phiên tòa: Nguyễn Thị Thu Phương - Thư Tòa án nhân dân
cấp cao tại Thành phố Hồ Chí Minh.
- Đại diện Viện kiểm sát nhân dân cấp cao tại Thành phố Hồ Chí Minh
tham gia phiên tòa: Ông Nguyễn Trí Dũng - Kiểm sát viên.
Trong các ngày 22 và 28 tháng 5 năm 2025, tại trụ sở Tòa án nhân dân cấp
cao tại Thành phố Hồ Chí Minh xét xử phúc thẩm công khai vụ án thụ số:
22/2025/DS-PT ngày 06 tháng 01 năm 2025, về việc: “Tranh chấp đòi quyền sử
dụng đất, tuyên bhợp đồng cầm cố hiệu, bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng”.
Do Bản án dân ssơ thẩm số: 62/2024/DS-ST ngày 08 tháng 8 năm 2024
của Tòa án nhân dân tỉnh Sóc Trăng bị kháng cáo.
Theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử phúc thẩm số: 1549/QĐ-PT, ngày 05
tháng 5 năm 2025, giữa các đương sự:
- Nguyên đơn: Ông Bùi Quang H, sinh năm 1961 (chết ngày 26/01/2025).
Người kế thừa quyền và nghĩa vụ tố tụng của ông H:
Người kế thừa quyền và nghĩa vụ tố tụng của ông H:
1. Bùi Ngọc Th, sinh năm 1979; trú tại: Ấp Đồng Đ, Ninh Th,
huyện Cầu K, tỉnh Trà Vinh; có mặt.
2. Bà Bùi Ngọc Nh, sinh năm 1984; vắng mặt.
3. Bà Bùi Ngọc m, sinh năm 1987; vắng mặt.
4. Bà Bùi Ngọc X, sinh năm 1991; vắng mặt.
5. Bà Bùi Ngọc H, sinh năm 1993; vắng mặt.
6. Ông Bùi Ngọc Đ, sinh năm 1997; vắng mặt.
2
7. Bà Bùi Ngọc T, sinh năm 1999; vắng mặt.
8. Bà Nguyễn Thị Th, sinh năm 1961; vắng mặt.
Cùng cư trú tại: Ấp Trường Th, xã An M, huyện Kế S, tỉnh Sóc Trăng.
Người đại diện hợp pháp của người kế thừa quyền nghĩa vụ tố tụng
nguyên đơn: Bùi Ngọc Th, sinh năm 1979; cư trú tại: Ấp Đồng Đ, Ninh Th,
huyện Cầu K, tỉnh Trà Vinh, người đại diện theo ủy quyền; Hợp đồng ủy quyền
ngày 15/4/2025; có mặt.
- Bị đơn:
1. Bà Cao Thị G, sinh năm 1969 (chết ngày 26/4/2024).
Người kế thừa quyền và nghĩa vụ tố tụng của bà G: Ông Phạm Thế B, sinh
năm 1998; trú tại: Ấp Trường Th, An M, huyện Kế S, tỉnh Sóc Trăng;
đơn xét xử vắng mặt.
2. Ông Phạm Văn D, sinh năm 1987; có đơnvắng mặt.
3. Bà Phạm Thị Đ, sinh năm 1954; vắng mặt.
4. Bà Phạm Thị K; vắng mặt.
Cùng cư trú tại: Ấp Trường Th, xã An M, huyện Kế S, tỉnh Sóc Trăng.
5. Phm Th G, sinh năm 1974; cư trú tại: p An Phú A, xã An Thnh
T, huyn Cù Lao D, tỉnh Sóc Trăng; vng mt.
6. Bà Phm Th O, sinh năm 1982; vng mt.
7. Bà Phm Th N, sinh năm 1966; vng mt.
Cùng trú tại: T 55, Khu ph 4, phường Trảng Đ, thành phố Biên H, tnh
Đồng Nai.
8. Bà Phm Th Th, sinh năm 1984; đa ch trước khi xut cnh: S 169, p
Thanh Đ, xã Long Đ, huyn Long P, tnh Sóc Trăng; vng mt.
- Người có quyn lợi, nghĩa vụ liên quan:
1. L Th L, sinh năm 1993; ttại: Ấp Kinh Ng, Đại H, huyn
Kế S, tỉnh Sóc Trăng; có mt.
2. Bà Nguyễn Thị Th, sinh năm 1961; cư trú tại: p Trường Th, xã An M,
huyện Kế S, tỉnh Sóc Trăng; có mặt.
3. Sở i nguyên Môi trường tỉnh Sóc Trăng; địa chỉ trụ sở: Số 18, đường
Hùng Vương, Phường 6, thành phố Sóc Trăng, tỉnh Sóc Trăng; vắng mặt.
4. Chi cục Thi hành án dân shuyện Kế Sách, tỉnh Sóc Trăng; địa chỉ trụ
sở: Ấp An Thành, thị trấn Kế Sách, huyện Kế Sách, tỉnh Sóc Trăng.
Người đại diện hợp pháp của Chi cục Thi hành án dân sự huyện Kế Sách:
Ông Nguyễn Thanh S, Phó Chi cục trưởng Chi cục Thi hành án dân sự huyện Kế
Sách; trú tại: Ấp An Th, thị trấn Kế S, huyện Kế S, tỉnh Sóc Trăng, người
đại diện theo ủy quyền; Văn bản ủy quyền ngày 31/5/2024; đơn xét xử vắng
3
mặt.
- Người kháng cáo: Ông Bùi Quang H là nguyên đơn trong vụ án.
NỘI DUNG VỤ ÁN:
- Theo Đơn khởi kiện đề ngày 13/12/2022 (BL số 01 - 02), nguyên đơn ông
Bùi Quang H trình bày:
Nguyên vào ngày 11/01/2018, ông được Chi cục Thi hành án dân sự huyện
Kế Sách, tỉnh Sóc Trăng thi hành cưỡng chế thửa đất số 429, tờ bản đồ số 07, diện
tích 4.214,6m
2
(đất 2L), tọa lạc tại ấp Trường Th, xã An M, huyện Kế S, tỉnh Sóc
Trăng của bà Cao Thị G để giao trả cho ông, vì trước đây bà G thiếu tiền hụi của
ông. Đến ngày 08/10/2018, ông được Sở Tài nguyên và Môi trường tỉnh Sóc
Trăng cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất (QSDĐ) đối với thửa đất nêu trên,
khi đến vụ lúa ông cùng gia đình ngâm giống xạ lúa thì ông Phạm Văn D ra
ngăn cản không cho ông xạ lúa và ngang nhiên chiếm đất của ông, ngày qua ngày
đến nay đã 04 năm rồi.
Đất của ông đã được cấp giấy chứng nhận QSDĐ nhưng bà G ngang nhiên
cầm cố cho ông D với giá 02 cây vàng 24k, do đó ông D không đồng ý để cho ông
canh tác nói chỉ khi nào G trả tiền đủ cho ông thì ông sẽ trả đất; trước khi
nhận cầm cố đất thì ông D đã được chính quyền địa phương (Ban nhân dân ấp)
khuyến cáo đất này của ông chủ quyền, không cầm cố được, nhưng ông D
vẫn nhận cầm cố. Qua 02 lần hòa giải, bà G làm giấy cam kết trả tiền cho các
người được thi hành án tổng số tiền 161.449.000 đồng, trả đợt 1 vào ngày
28/6/2018 s tiền 93.000.000 đồng trả đợt 2 vào ngày 28/8/2018 số tiền
68.449.000 đồng, nhưng bà G không trả đồng nào.
Nay nguyên đơn ông Bùi Quang H yêu cầu Tòa án giải quyết:
+ Buộc ông Phạm Văn D phải trả lại cho ông phần đất diện tích
4.214,6m
2
(đất trồng lúa), thuộc thửa đất số 161, tờ bản đồ số 22, tọa lạc tại ấp
Trường Th, xã An M, huyện Kế S, tỉnh Sóc Trăng.
+ Cao Thị G ông Phạm Văn D phải liên đới bồi thường thiệt hại trong
thời gian ông bị chiếm dụng đất tính từ ngày 08/10/2018 đến 08/10/2022 với số
tiền 36.000.000 đồng (Ba mươi sáu triệu đồng).
Ngày 24/5/2023, nguyên đơn ông Bùi Quang H đơn khởi kiện bổ sung
yêu cầu Tòa án giải quyết:
+ Tuyên bố hợp đồng cầm cố đất giữa Cao Thị G ông Phạm Văn D
là vô hiệu.
+ Buộc bà Cao Thị G trả tiền thuê đất cho ông H từ ngày 28/5/2018 đến
ngày 14/12/2022, với số tiền 36.000.000 đồng (12 vụ x 3.000.000 đồng).
+ Buộc ông Phạm Văn D và bà Cao Thị G phải trả lại cho ông phần đất có
diện tích 4.214,6m
2
(đất trồng lúa), thuộc thửa đất số 161, tờ bản đồ số 22, tọa lạc
tại ấp Trường Th, xã An M, huyện Kế S, tỉnh Sóc Trăng.
4
Ngày 24/8/2023, nguyên đơn ông Bùi Quang H đơn thay đổi, bổ sung
đơn khởi kiện yêu cầu Tòa án giải quyết:
+ Ông H rút lại yêu cầu buộc Cao Thị G trả tiền thuê đất cho ông H từ
ngày 28/5/2018 đến ngày 14/12/2022, với số tiền 36.000.000 đồng (12 vụ x
3.000.000 đồng).
+ Yêu cầu tuyên bố Hợp đồng cầm cố giữa vợ chồng ông Phạm Văn T (hiện
nay ông T đã chết) bà Cao Thị G với ông Phạm Văn D (hiện nay ông D đã
chết) lập ngày 20/12/2012 là vô hiệu.
+ Buộc bà Cao Thị G, bà Phạm Thị Đ, bà Phạm Thị G, bà Phạm Thị O, bà
Phạm Thị K, Phạm Thị Ng, bà Phạm Thị Th ông Phạm Văn D trả lại cho
ông thửa đất số 161, tờ bản đồ số 22, diện tích 4.214,6m
2
(đất trồng lúa), tọa
lạc tại ấp Trường Th, xã An M, huyện Kế S, tỉnh Sóc Trăng cho ông H canh tác.
Tại phiên tòa, người đại diện hợp pháp của nguyên đơn cho rằng: Nay
G đã chết và chồng của G cũng đã chết, nên xin rút lại đối với các yêu cầu
khác, chỉ còn lại 02 yêu cầu: (1) Yêu cầu buộc người kế thừa của bả G ông
Phạm Thế B và vợ, con ông D gồm bà Đ, bà G, bà O, bà K, bà Ng, bà Th và ông
D trả lại cho ông H thửa đất số 161, tờ bản đồ số 22, theo đo đạc thực tế có diện
tích 4.195,2m
2
(đất chuyên trồng lúa nước), tọa lạc tại ấp Trường Th, An M,
huyện Kế S, tỉnh Sóc Trăng. (2) Yêu cầu tuyên bố Hợp đồng cầm cố đất giữa vợ
chồng ông T và G với ông Phạm Văn D đối với phần đất tranh chấp nêu trên
lập ngày 20/12/2012 là vô hiệu. Còn việc ông D lên líp trồng cây là không đúng,
nên không đồng ý bồi thường cho ông D khi trả đất lại cho ông H.
- Tại Bản tự khai ngày 16/5/2023 (BL số 73 - 74), bị đơn bà Cao Thị G
trình bày:
Vào ngày 20/12/2012, có cố cho ông Phạm Văn D, ngụ cùng ấp 03 công
tầm cấy đất ruộng và 01 đường nước thuộc thửa đất số 429, tờ bản đồ số 07, với
giá là 02 cây vàng 24k, trong thời hạn 02 năm kể từ ngày cố đất thì chuộc lại, nếu
không thì ông D tiếp tục canh tác. Đến năm 2018, bbể hụi nhiều hụi viên
nhân lúc bà bị bệnh nặng cùng nhau không đóng hụi, nên thiếu tiền hụi của ông
H 96.000.000 đồng, nên xin Thi hành án huyện Kế S ông H cho
chuyển nhượng thửa đất trên để trả tiền cho ông H, nhưng Thi hành án huyện Kế
S ông H không đồng ý mà nhất quyết cưỡng chế đất của bà, trong khi số tiền
bà thiếu ông H chỉ có 96.000.000 đồng, nhưng Thi hành án Kế Sách lại giao toàn
bộ thửa đất trên cho ông H ông H đã được cấp giấy chứng nhận QSDĐ một
cách lý, thửa đất này bà còn đang ccho Dụng, nay ông H lại yêu cầu bà trả
tiền thuê đất 36.000.000 đồng là không đúng.
Căn cứ theo kết quả điều tra của Công an huyện Kế Sách để giải quyết thỏa
đáng cho gia đình bà, cho phép được chuyển nhượng thửa đất trên để trả nợ
cho ông H và trả vàng cố đất cho ông D.
- Tại Bản tự khai ngày 15/5/2023 (BL số 84), bị đơn ông Phạm Văn D trình
bày:
5
Vào ngày 20/12/2012, vợ chồng ông T và bà G có cố cho ông D (cha ông)
03 công tầm cấy đất ruộng 01 đường nước, với giá 02 cây vàng 24k, trong thời
hạn 02 năm kể từ ngày cthì chuộc lại, nếu không chuộc lại thì ông D tiếp tục
canh tác.
Đến ngày 05/5/2023, ông nhận được Thông báo của Tòa nhân dân huyện
Kế S về việc ông H khởi kiện yêu cầu trả lại thửa đất do cha ông nhận cầm cố và
bồi thường số tiền 36.0000.000 đồng hoàn toàn sai sự thật, việc cha ông nhận
cố đất hợp pháp, không có Ban nhân dân ấp nào ngăn cản, nên ông không đồng
ý với yêu cầu khởi kiện của ông H.
Tại phiên tòa, bị đơn ông D cho rằng: Khi ông nhận cầm cố đất của G
thì G chưa bhụi, ông quản lý, sử dụng đất từ khi nhận cầm cố cho tới nay;
gia đình bà G chưa chuộc lại đất chưa trả vàng cố đất cho ông, nên ông không
đồng ý với yêu cầu khởi kiện của ông H. Phần đất nêu trên ông đã lên líp, trồng
cây, nếu khi nào chuyển nhượng cho người khác thì phải trả chi phí giá trị cây
trồng cho ông.
- Tại Biên bản lấy lời khai ngày 16/8/2021 (BL số 166 - 167), bđơn
Phạm Thị Đ trình bày:
vợ ông Phạm Văn D mẹ ruột của ông Phạm Văn D, cách đây
khoảng 07 năm vợ chồng bà G có cố cho vợ chồng 03 công tầm cấy đất ruộng,
với giá 02 cây vàng 24k, có làm giấy viết tay, khi nào gia đình bà Gái có vàng thì
chuộc đất lại; khi cố đất thì làm ruộng, sau đó lên líp trồng cây cách đây khoảng
02 năm, hiện phần đất cố do ông D trực tiếp canh tác, khi cố đất thì không tranh
chấp; sau này tranh chấp giữa ông H với bà G thì chính quyền địa phương
mời gia đình giải quyết, nhưng đến nay chưa giải quyết xong. G vàng
thì chuộc đất lại và trả tiền bà lên líp, tiền cây trồng.
- Tại các Biên bản hòa giải tại phiên tòa, người quyền lợi, nghĩa vụ
liên quan bà Lữ Thị L trình bày:
Bà thống nhất với lời trình bày và yêu cầu của ông Phạm Văn D.
Tại Bản án dân sự thẩm số: 62/2024/DS-ST ngày 08 tháng 8 năm 2024
của Tòa án nhân dân tỉnh Sóc Trăng quyết định:
Căn cứ khoản 3, 9 Điều 26, khoản 1, khoản 4 Điều 34, khoản 3 Điều 35,
điểm c khoản 1 Điều 37, khoản 1 Điều 147, khoản 1 Điều 157, khoản 2 Điều 158,
khoản 1 Điều 165, khoản 2 Điều 166, điểm b khoản 2 Điều 227, khoản 2, 3 Điều
228, khoản 2 Điều 244, Điều 271, khoản 1 Điều 273, điểm a khoản 1 Điều 470
của Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2015; căn cứ điểm b khoản 2 Điều 193 của Luật
Tố tụng hành chính năm 2015; căn cứ Điều 99, Điều 100, khoản 5, 7 Điều 166,
Điều 202, khoản 1 Điều 203 của Luật Đất đai năm 2013; căn cứ điểm đ khoản 1
Điều 12 của Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14, ngày 30/12/2016 của Ủy ban
Thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản sử
dụng án phí và lệ phí Tòa án.
Tuyên xử:
6
1. Đình chỉ xét xử một phần yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn ông i
Quang H đã rút đối với yêu cầu: Buộc Cao Thị G ông Phạm Văn D phải liên
đới bồi thường thiệt hại trong thời gian ông bị chiếm dụng đất (tiền thuê đất) tính
từ ngày 08/10/2018 đến 08/10/2022 với số tiền 36.000.000 đồng (Ba mươi sáu
triệu đồng).
2. Không chấp nhận yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn ông Bùi Quang H
về việc:
2.1. Yêu cầu buộc người kế thừa của bà Cao Thị G là ông Phạm Thế B
vợ, con của ông Phạm Văn D gồm bà Phạm Thị Đ, bà Phạm Thị G, bà Phạm Thị
O, Phạm Thị K, Phạm Thị Ng, Phạm Thị T ông Phạm Văn D trả lại
cho ông Bùi Quang H thửa đất số 161, tờ bản đồ số 22, theo đo đạc thực tế diện
tích 4.195,2m
2
(đất chuyên trồng lúa nước), tọa lạc tại ấp Trường T, An M,
huyện Kế S, tỉnh Sóc Trăng. Có số đo tứ cận như sau:
Hướng đông giáp đất ông Huỳnh Văn Tr, ông Lý Trung T, ông Tăng Thành
T ông Nguyễn Minh T, số đo 13,50m + 30,41m + 30,35m + 10,62m. Hướng
tây giáp ông Lâm Nh, số đo 83,52m. Hướng nam giáp ông Trần Quốc B, ông
NTrung Th Nguyễn Thị D, số đo 3,59m + 42,78m + 3,91m. Hướng
bắc ông Nguyễn Văn G và ông Cao Văn H, có số đo 16,47m + 31,64m + 1,23m.
Đính kèm Sơ đồ hiện trạng thửa đất ngày 22/5/2023 (BL số 424).
2.2. Yêu cầu tuyên bố Hợp đồng cầm cố đất giữa vợ chồng ông Phạm Văn
T và bà Cao Thị G với ông Phạm Văn D đối với phần đất tranh chấp nêu trên lập
ngày 20/12/2012 là vô hiệu.
3. Hủy Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, quyền sở hữu nhà ở và tài sản
khác gắn liền với đất sCN 592123, do Sở Tài nguyên i trường tỉnh Sóc
Trăng cấp ngày 08/10/2018 cho ông Bùi Quang H đối với thửa đất số 161, tờ bản
đồ số 22, diện tích 4.214,6m
2
, tọa lạc tại ấp Trường Th, An M, huyện Kế S,
tỉnh Sóc Trăng.
Ngoài ra, bản án còn tuyên về chi phí thẩm định, án phí quyền kháng cáo
theo luật định.
Ngày 20/8/2024 ông H kháng cáo toàn bộ bản án yêu cầu chấp nhận kháng
cáo, theo đơn khởi kiện của ông H.
Ti phiên a bà Thưởng người đại diện theo ủy quyền của người kế thừa
quyền và nghĩa vụ tố tụng của ông H vẫn giữ nguyên nội dung đơn kháng cáo và
đề nghị Hi đồng xét xử chấp nhận đơn kháng cáo của ông H, sửa bản án sơ thẩm
buộc bị đơn trả lại đất cho ông H, ông H đã thanh toán đủ tiền đã cấp giấy
CNQSDĐ cho ông H; tuyên hợp đồng cầm cố đất bị vô hiệu.
Quan điểm của đại diện Viện kiểm sát nhân dân cấp cao tại Thành phố Hồ
Chí Minh: Về thủ tục tố tụng những người tiến hành tố tụng, các đương stuân
thủ đúng theo quy định. Về nội dung kháng cáo của ông H, đất ông H được Chi
cục thi hành án giao đất để thi hành án; ông H đã được cấp giấy CNQSDĐ đúng
pháp luật, nay ông H đòi lại đất là có căn cứ nhưng thửa đất loại đất lúa nay ông
7
D và ông D đã lên líp đất và trồng cây lâu năm trên đất, chưa được thẩm định và
định giá nên đề nghị hủy bản án thẩm; giao về Tòa án cấp thẩm giải quyết
toàn diện, triệt để vụ án.
NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN:
- Sau khi nghiên cứu các tài liệu, chứng cứ trong hồ sơ vụ án được xem
xét tại phiên toà và căn cứ vào kết quả tranh tụng tại phiên toà, Hội đồng xét xử
nhận thấy:
[1]. Đơn kháng cáo của ông Bùi Quang H đúng theo quy định của pháp
luật, hợp lệ nên được xem xét theo trình tự phúc thẩm.
[2]. Theo đơn khởi kiện khởi kiện bổ sung của ông H, Tòa án cấp
thẩm xác định đây quan hệ dân sự, về việc: “Tranh chấp đòi quyền sử dụng đất,
tuyên bố hợp đồng cầm cố đất hiệu, bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng
đúng quan hệ tranh chấp theo quy định tại khoản 3 khoản 9 Điều 26 của Bộ
luật Tố tụng dân sự năm 2015.
[3]. Thửa đất 429, tờ bản đồ số 07 (nay là thửa 161, tờ bản đồ số 22), diện
tích 4.214,6m
2
do Chi cục THADS huyện Kế S đã cưỡng chế bàn giao cho ông H
ngày 24/5/2018 (BL: 149) để thi hành án mà bà G người phải thi hành án; ngày
08/10/2018, ông H được Sở Tài nguyên Môi trường tỉnh Sóc Trăng cấp Giấy
CNQSDĐ đối với thửa đất trên đứng tên ông H. Do đó, ông H được công nhận
người sử dụng thửa đất trên hợp pháp.
[4]. Ông H kiện đòi bà G vợ, con của ông D người đang quản sử
dụng thửa đất trên là có sở, phù hợp với quy định tại khoản 1 Điều 166 Bộ luật
dân sự năm 2015. Tòa án không thẩm quyền giải quyết kết quả biên, thi
hành án tài sản của quan thi hành án dân sự được quy định tại Điều 26 Bộ luật
Tố tụng dân sự năm 2015. Tại phiên tòa phúc thẩm bà Thưởng người đại diện
hợp pháp cho những người kế thừa quyền và nghĩa vụ tố tụng của ông H vẫn yêu
cầu tuyên bố Hợp đồng cầm cố đất” giữa G ông D bị hiệu, nhưng lại
không đồng ý giải quyết hậu quả; hiện thửa đất ông H kiện đòi không còn đất
lúa, gia đình ông D đã thay đổi lên líp và trồng cây lâu năm trên đất. Dù, Tòa án
cấp sơ thẩm thẩm định, định giá cây trồng nhưng đến nay đã nhiều m, không
còn phù hợp; để vụ án được giải quyết triệt để, toàn diện, bảo đảm quyền lợi của
các bên thuận lợi cho công tác thi hành án dân sự, cần hướng dẫn gia đình ông
D Đơn yêu cầu độc lập giải quyết Hợp đồng cầm cố đất”, từ đó Tòa án mới
có cơ sở giải quyết hậu quả của hợp đồng.
[5]. Từ những sở trên, Hội đồng xét xử phúc thẩm thống nhất với quan
điểm của đại diện Viện kiểm sát nhân dân cấp cao tại Thành phố Hồ Chí Minh,
chấp nhận một phần đơn kháng cáo của ông H; căn cứ khoản 3 Điều 308, khoản
1 Điều 310 Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2015, hủy bản án dân sự sơ thẩm giao
hồ về cho Tòa án cấp thẩm giải quyết lại ván theo thủ tục thẩm do
khách quan. Ông H không phải chịu án phí phúc thẩm theo quy định tại khoản 2
Điều 29 của Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14, ngày 30/12/2016 của Ủy ban
Thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản sử
8
dụng án phí và lệ phí Tòa án.
Vì các lẽ trên,
QUYẾT ĐỊNH:
Căn cứ khoản 3 Điều 308 Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2015.
1. Chấp nhận một phần đơn kháng cáo của ông Bùi Quang H;
Huỷ Bản án dân sự thẩm số: 62/2024/DS-ST ngày 08 tháng 8 năm 2024
của Tòa án nhân dân tỉnh Sóc Trăng; chuyển hồ vụ án cho Toà án nhân dân
tỉnh Sóc Trăng giải quyết lại vụ án theo thủ tục sơ thẩm.
Về chi phí xem xét, thẩm định tại chỗ, định giá tài sản án phí dân sự sơ
thẩm sẽ xem xét quyết định khi giải quyết lại vụ án.
2. Về án phí dân sự phúc thẩm: Ông Bùi Quang H không phải chịu.
3. Bản án có hiệu lực pháp luật kể từ ngày tuyên án./.
Nơi nhận:
- TANDTC;
- VKSND cấp cao tại TP. HCM;
- TAND tỉnh Sóc Trăng;
- VKSND tỉnh Sóc Trăng;
- Cục THADS tỉnh Sóc Trăng;
- Đương sự;
- Lưu VP, HS, NTTP.
TM. HỘI ĐỒNG XÉT XỬ PHÚC THẨM
THẨM PHÁN - CHỦ TỌA PHIÊN TÒA
Đặng Văn Ý
THÀNH VIÊN HỘI ĐỒNG XÉT XỬ
Vương Minh Tâm - Nguyễn Văn Minh
THẨM PHÁN - CHỦ TỌA PHIÊN TÒA
Đặng Văn Ý
9
Tải về
Bản án số 556/2025/DS-PT Bản án số 556/2025/DS-PT

Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để tải file. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!

Bản án số 556/2025/DS-PT Bản án số 556/2025/DS-PT

Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để tải file. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!

Bản án/ Quyết định cùng đối tượng

Bản án cùng lĩnh vực

Bản án mới nhất