Bản án số 55/2024 ngày 18/09/2024 của TAND huyện Gò Quao, tỉnh Kiên Giang về tranh chấp hợp đồng đặt cọc
- Thuộc tính
- Nội dung
- VB gốc
- VB liên quan
- Lược đồ
- Đính chính
- Án lệ
- BA/QĐ cùng nội dung
- Tải về
Tải văn bản
-
Bản án số 55/2024
Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để tải file. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!
-
Bản án số 55/2024
Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để tải file. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!
Báo lỗi
Thuộc tính Bản án 55/2024
Tên Bản án: | Bản án số 55/2024 ngày 18/09/2024 của TAND huyện Gò Quao, tỉnh Kiên Giang về tranh chấp hợp đồng đặt cọc |
---|---|
Quan hệ pháp luật: | Tranh chấp hợp đồng đặt cọc |
Cấp xét xử: | Sơ thẩm |
Tòa án xét xử: | TAND huyện Gò Quao (TAND tỉnh Kiên Giang) |
Số hiệu: | 55/2024 |
Loại văn bản: | Bản án |
Ngày ban hành: | 18/09/2024 |
Lĩnh vực: | Dân sự |
Áp dụng án lệ: |
Đã biết
Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để xem áp dụng án lệ. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây! |
Đính chính: |
Đã biết
Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để xem đính chính. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây! |
Thông tin về vụ/việc: | bà Q yêu cầu Tòa án giải quyết buộc vợ chồng ông Th, bà Ph phải trả lại cho bà Q số tiền đặt cọc mua đất là 25.000.000đồng (Hai mươi lăm triệu đồng) |
Tóm tắt Bản án
Nội dung tóm tắt đang được cập nhật, Quý khách vui lòng quay lại sau!
Tải văn bản

TÒA ÁN NHÂN DÂN CỘNG HÒA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM
HUYỆN GÒ QUAO Độc lập – Tự do – Hạnh phúc
TỈNH KIÊN GIANG
Bản án số: 55/2024/DS-ST
Ngày: 18-9-2024
“V/v tranh chấp đặt cọc”
NHÂN DANH
NƢỚC CỘNG HÒA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM
TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN GÒ QUAO, TỈNH KIÊN GIANG
- Thành phần Hội đồng xét xử sơ thẩm gồm có:
Thẩm phán - Chủ tọa phiên tòa: Bà Danh Thị Kiều Oanh
Các Hội thẩm nhân dân:
1. Bà Nguyễn Thị Hạnh
2. Bà Lương Thị Hồng Hạnh
- Thư ký phiên tòa: Bà Nguyễn Thùy Linh - Thư ký Tòa án nhân dân huyện Gò
Quao, tỉnh Kiên Giang.
- Đại diện Viện kiểm sát nhân dân huyện Gò Quao không tham gia phiên toà.
Ngày 18 tháng 9 năm 2024 tại trụ sở Tòa án nhân dân huyện Gò Quao, tỉnh Kiên
Giang xét xử sơ thẩm công khai vụ án dân sự thụ lý số: 117/2024/TLST-DS, ngày 26
tháng 7 năm 2024 về việc “tranh chấp đặt cọc” theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số:
55/2024/QĐXXST-DS ngày 29 tháng 8 năm 2024 giữa:
Nguyên đơn: bà Dương Kim Q, sinh năm 1976 (có mặt)
Địa chỉ: khu phố P, thị trấn G, huyện G, tỉnh Kiên Giang
Bị đơn: ông Trần Ngọc Th, sinh năm 1973 (có mặt)
Bà Đặng Thị Tuyết Ph, sinh năm 1970 (có đơn xin xử vắng mặt)
Địa chỉ: ấp H, xã Đ, huyện G, tỉnh Kiên Giang.
NỘI DUNG VỤ ÁN:
* Theo đơn khởi kiện ngày 25/7/2024 và bản tự khai của nguyên đơn bà
Dƣơng Kim Q trình bày nhƣ sau: Vào ngày 27/5/2021 bà Q có thỏa thuận với vợ
chồng ông Trần Ngọc Th, bà Đặng Thị Tuyết Ph là vợ chồng ông Th chuyển nhượng
cho bà Q phần đất ngang 6m, dài 52m; địa chỉ thửa đất tại ấp H, xã Đ, huyện G, tỉnh
Kiên Giang bằng giá 200.000.000đồng (Hai trăm triệu đồng). Sau khi thỏa thuận xong,
cùng ngày 27/5/2021 bên ông Th có nhận tiền cọc của bà Q là 25.000.000đồng (Hai
mươi lăm triệu đồng), hai bên có ký biên nhận về việc giao nhận tiền cọc, ông Th có đưa
bà giấy chứng nhận quyền sử dụng đất bản photo để bà đi làm thủ tục sang tên, khi hai
2
bên thỏa thuận chuyển nhượng thì phần đất này vẫn còn ba ông Th là ông Trần Văn
Khém đứng tên, hai bên hẹn khi nào làm xong thủ tục sang tên cho bà Q thì bà Q sẽ trả
đủ số tiền còn lại là 175.000.000đồng (Một trăm bảy mươi lăm triệu đồng) cho vợ chồng
ông Th. Hai tháng sau, bà Q đi làm thủ tục sang tên thì bà được cán bộ tư pháp xã hướng
dẫn là Giấy chứng nhận Quyền sử dụng đất này do ông Trần Văn Khém còn đứng tên và
ông Khém đã chết nên phải làm phân chia di sản thừa kế xong rồi mới làm hợp đồng
chuyển nhượng cho bà Q được. Khi đó, bà Q thấy ông Th có tới 05 anh em ruột, mọi
người đều ở xa và bà có yêu cầu ông Th kêu đầy đủ anh em về xã để ký văn bản phân
chia di sản thừa kế trước nhưng ông Th không gọi các anh em về đủ được nên từ đó đến
nay hai bên vẫn chưa làm thủ tục chuyển nhượng được. Trong thời gian từ năm 2021
đến cuối năm 2023, vợ chồng ông Th thường xuyên đi làm trên Sài Gòn nên bà rất ít
gặp. Đồng thời, bà cũng biết phần đất này ông Th đã bán cho người khác từ tháng
3/2024. Sau khi bà biết ông Th đã bán đất thì bà có gặp ông Th yêu cầu trả lại số tiền
cọc nhưng vợ chồng ông Th không trả nên bà Q mới khởi kiện đến Tòa án. Bà Q không
yêu cầu Tòa án xem xét lại thỏa thuận về việc chuyển nhượng đất và thỏa thuận đặt cọc
giữa bà với vợ chồng ông Th, mà bà Q chỉ yêu cầu vợ chồng ông Th trả lại số tiền
25.000.000đồng.
Tại phiên tòa, bà Q yêu cầu Tòa án giải quyết buộc vợ chồng ông Th, bà Ph phải
trả lại cho bà Q số tiền là 25.000.000đồng (Hai mươi lăm triệu đồng) trả đủ một lần.
Ngoài ra, bà Q không yêu cầu gì thêm.
* Bị đơn ông Trần Ngọc Th trình bày nhƣ sau: Vào năm 2021 (trước khi bị
giãn cách Covid) gia đình ông có kêu bà Dương Kim Q bán phần đất ngang 6m, dài
52m; địa chỉ đất tọa lạc tại ấp H, xã Đ, huyện G, tỉnh Kiên Giang bằng giá
200.000.000đồng (Hai trăm triệu đồng). Vợ chồng ông thừa nhận có nhận tiền cọc của
bà Q 25.000.000đồng (Hai mươi lăm triệu đồng) vào ngày 27/5/2021, khi nhận tiền cọc
hai bên có làm giấy tay. Lúc thỏa thuận chuyển nhượng đất thì phần đất này vẫn còn ba
của ông là Trần Văn Khém đứng tên quyền sử dụng đất nhưng ba ông đã chết năm 2018.
Hai bên thỏa thuận bà Q sẽ là người đi liên hệ cơ quan có thẩm quyền làm thủ tục sang
tên và ông cũng có giao cho bà Q giấy chứng nhận quyền sử dụng đất bản photo. Khi
nào làm xong thì bà Q sẽ đủ số tiền còn lại 175.000.000đồng cho ông. Sau đó, bà Quyền
không làm được và cũng không nói với gia đình ông. Do đợi quá lâu và hoàn cảnh gia
đình ông rất khó khăn, đồng thời gia đình ông cần tiền điều trị bệnh cho em trai nên gia
đình ông đã bán phần đất này cho người khác từ tháng 3/2024. Do bà Q kéo dài thời
gian từ năm 2021 đến năm 2024 gia đình ông mới bán được đất với giá thấp. Vợ ông tên
Đặng Thị Tuyết Ph và vợ ông đã đi làm trên Sài Gòn nên không tham dự phiên tòa xét
3
xử được. Ông Th không yêu cầu Tòa án xem xét lại thỏa thuận chuyển nhượng và thỏa
thuận đặt cọc mà vợ chồng ông với bà Q đã giao kết.
Tại phiên tòa, ông Th thừa nhận có nhận và đồng ý trả cho bà Q số tiền
25.000.000đồng (Hai mươi lăm triệu đồng) nhưng hiện nay gia đình ông rất khó khăn về
kinh tế và đang nuôi mẹ bị bệnh tai biến nằm một chổ nên ông yêu cầu xin trà dần thành
02 đợt: Đợt 1: ngày 15/12/2025 trả 12.500.000đồng và Đợt 2: ngày 15/12/2026 trả
12.500.000đồng là hết nợ. Ngoài ra, ông không yêu cầu gì thêm.
* Tại bản tự khai của bị đơn bà Đặng Thị Tuyết Ph trình bày: Bà là vợ ông
Trần Ngọc Th, bà thừa nhận có cùng với ông Th thỏa thuận chuyển nhượng đất cho bà Q
và vợ chồng bà có nhận tiền của bà Q 25.000.000đồng (Hai mươi lăm triệu đồng), do bà
Q kéo dài thời gian làm thủ tục sang tên nên làm cho gia đình bà bán phần đất này vào
tháng 3/2024 bị mất giá. Tuy nhiên, bà Ph cũng đồng ý cùng chồng là ông Th trả lại số
tiền 25.000.000đồng (Hai mươi lăm triệu đồng) cho bà Q nhưng hiện nay do hoàn cảnh
kinh tế gia đình bà khó khăn nên không có tiền trả đủ một lần theo yêu cầu của bà Q.
NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN:
Sau khi nghiên cứu các tài liệu, chứng cứ có trong hồ sơ vụ án được thẩm tra tại
phiên tòa. Căn cứ vào kết quả tranh tụng tại phiên tòa trên cơ sở xem xét đầy đủ và toàn
diện các chứng cứ, Hội đồng xét xử nhận định như sau:
[1] Quan hệ pháp luật tranh chấp giữa bà Dương Kim Q với ông Trần Ngọc Th, bà
Đặng Thị Tuyết Ph là “Tranh chấp đặt cọc”. Bị đơn có địa chỉ tại ấp Hòa Hiếu 2, xã
Định Hòa, huyện Gò Quao, tỉnh Kiên Giang nên Tòa án nhân dân huyện Gò Quao thụ
lý, giải quyết là đúng theo quy định tại Điều 26, 35, 39 Bộ luật Tố tụng dân sự năm
2015.
Bị đơn bà Đặng Thị Tuyết Ph có đơn đề nghị xét xử vắng mặt. Hội đồng xét xử
áp dụng theo khoản 1 Điều 228 Bộ luật tố tụng dân sự năm 2015 tiến hành xét xử vắng
mặt đối với bà Ph.
[2] Về nội dung: Vào năm 2021 bà Q và vợ chồng ông Th thỏa thuận là vợ chồng
ông Th sẽ chuyển nhượng đất cho bà Q phần diện tích ngang 6m, dài 52m; địa chỉ đất ấp
H, xã Đ, huyện G, tỉnh Kiên Giang bằng giá 200.000.000đồng (Hai trăm triệu đồng).
Sau khi thỏa thuận xong, bên ông Th có nhận tiền cọc của bà Q là 25.000.000đồng (Hai
mươi lăm triệu đồng), hẹn khi nào làm xong thủ tục sang tên quyền sử dụng đất cho bà
Q thì bà Q sẽ trả đủ số tiền còn lại là 175.000.000đồng (Một trăm bảy mươi lăm triệu
đồng) cho vợ chồng ông Th. Tuy nhiên, tại thời điểm hai bên thỏa thuận chuyển nhượng
đất thì phần đất này còn ba của ông Th là ông Trần Văn Kh đứng tên quyền sử dụng đất
và ông Kh đã chết năm 2018 nên gia đình của ông Th phải làm xong thủ tục phân chai di
sản thừa kế rồi mới làm hợp đồng chuyển nhượng cho bà Q được. Nên từ tháng 5/2021
4
đến cuối năm 2023 hai bên vẫn chưa tiến hành làm thủ chuyển nhượng được. Ông Th và
bà Q cũng xác nhận là phần đất này gia đình ông Th đã chuyển nhượng cho người khác
từ tháng 3/2024 và ông Th đồng ý trả lại tiền cọc theo yêu cầu của bà Q. Trong quá trình
giải quyết vụ án cũng như tại phiên tòa, bà Q và vợ chồng ông Th đều không yêu cầu
Tòa án xem xét lại thỏa thuận chuyển nhượng quyền sử dụng đất và thỏa thuận đặt cọc
mà bà Q với vợ chồng ông Th đã giao kết nên Hội đồng xét xử không xem xét. Tại
phiên tòa, bà Q chỉ yêu cầu Tòa án giải quyết buộc vợ chồng ông Th trả số tiền
25.000.000đồng. Ông Th thừa nhận có nhận tiền của bà Q 25.000.000đồng và đồng ý trả
số tiền này cho bà Q, bà Ph cũng có bản tự khai gửi cho Tòa án thừa nhận có nhận của
bà Q 25.000.000đồng nên đây là tình tiết, sự kiện không phải chứng minh theo quy định
tại điểm a khoản 1 Điều 92 Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2015. Nên Hội đồng xét xử xét
yêu cầu khởi kiện của bà Q là có cơ sở chấp nhận.
Đối với phía bị đơn là vợ chồng ông Th, bà Ph thừa nhận có nhận tiền của bà Q
25.000.000đồng nhưng ông Th cho rằng do hoàn cảnh kinh tế gia đình của vợ chồng ông
hiện nay rất khó khăn vì ông đang trực tiếp nuôi mẹ bị bệnh tai biến nên ông không có đi
làm mà chỉ có vợ đi làm một mình, do đó vợ chồng ông không có khả năng trả tiền đủ
một lần cho bà Q mà ông Th yêu cầu trả dần thành 02 lần: lần 1: ngày 15/12/2025 trả
12.500.000đồng và lần 2: ngày 15/12/2026 trả 12.500.000đồng là hết nợ nhưng không
được bà Q đồng ý mà bà Q yêu cầu ông Th phải trả số tiền nợ đủ một lần nên Hội đồng
xét xử không có cơ sở xem xét đối với nguyện vọng trả nợ của vợ chồng ông Th.
[3] Về án phí dân sự sơ thẩm có giá ngạch: 25.000.000đồng x 5% = 1.250.000đồng
buộc ông Th, bà Ph phải có nghĩa vụ nộp.
Yêu cầu của bà Q được chấp nhận nên hoàn trả lại tiền tạm ứng phí mà bà đã nộp là
625.000 đồng theo biên lai thu tiền số 0006077 ngày 26/7/2024 của Chi cục Thi hành án
dân sự huyện Gò Quao, tỉnh Kiên Giang.
Vì các lẽ trên,
QUYẾT ĐỊNH:
Áp dụng Điều 26, 35, 39, điểm a khoản 1 Điều 92, 147, khoản 1 Điều 228, 271,
273 của Bộ luật tố tụng dân sự năm 2015; Điều 167, 168 Luật đất đai năm 2013; Điều
117, Điều 122, Điều 131, Điều 328 Bộ luật dân sự năm 2015; Điều 27 Luật Hôn nhân và
gia đình năm 2014 và khoản 2 Điều 26 nghị quyết số: 326/2016/UBTVQH14 ngày
30/12/2016 của Ủy Ban Thường Vụ Quốc Hội quy định về án phí, lệ phí Tòa án.
1. Xử: Chấp nhận toàn bộ yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn bà Dương Kim Q.
Buộc: ông Trần Ngọc Th, bà Đặng Thị Tuyết Ph có nghĩa vụ trả cho bà Dương
Kim Q số 25.000.000đồng (Hai mươi lăm triệu đồng).

5
Kể từ ngày bà Q có đơn yêu cầu thi hành án mà ông Th, bà Ph chưa trả đủ số tiền
nêu trên thì ông Th, bà Ph còn phải chịu lãi suất theo mức lãi quy định tại Điều 357 và
khoản 2 Điều 468 BLDS tương ứng với thời gian chưa thi hành án.
2. Về án phí dân sự sơ thẩm là: 1.250.000đồng (một triệu hai trăm năm mười ngàn
đồng) buộc ông Th, bà Ph phải có nghĩa vụ nộp.
Hoàn trả lại số tiền tạm ứng phí cho bà Dương Kim Q 625.000 đồng (Sáu trăm hai
mươi lăm ngàn đồng) theo biên lai thu tiền số 0006077 ngày 26/7/2024 của Chi cục Thi
hành án dân sự huyện Gò Quao, tỉnh Kiên Giang.
3. Đương sự có mặt tại phiên tòa có quyền kháng cáo trong hạn 15 ngày kể từ ngày
Tòa tuyên án ngày 18/9/2024. Đương sự vắng mặt tại phiên tòa có quyền kháng cáo
trong hạn 15 ngày kể từ ngày bản án được tống đạt hợp lệ hoặc được niêm yết theo quy
định pháp luật.
“Trường hợp bản án được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật Thi hành án dân
sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thỏa thuận
thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi
hành án theo quy định tại các Điều 6, Điều 9 Luật Thi hành án dân sự và Điều 7, Điều
7a, Điều 7b Luật Thi hành án dân sự sửa đổi bổ sung năm 2014; thời hiệu thi hành án
được thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật thi hành án dân sự”.
TM/. HỘI ĐỒNG XÉT XỬ SƠ THẨM
THẨM PHÁN-CHỦ TỌA PHIÊN TÒA
Nơi nhận:
-TAND tỉnh;
-VKS Gò Quao; (Đã ký)
-Chi cục THA;
-Các đương sự;
-Lưu hồ sơ. Danh Thị Kiều Oanh
Tải về
Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để tải file. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!
Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để tải file. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!
Bản án/ Quyết định cùng đối tượng
1
Ban hành: 25/03/2025
Cấp xét xử: Sơ thẩm
2
Ban hành: 11/03/2025
Cấp xét xử: Sơ thẩm
3
Ban hành: 10/03/2025
Cấp xét xử: Sơ thẩm
4
Ban hành: 06/03/2025
Cấp xét xử: Sơ thẩm
5
Ban hành: 27/02/2025
Cấp xét xử: Sơ thẩm
6
Ban hành: 27/02/2025
Cấp xét xử: Sơ thẩm
7
Ban hành: 25/02/2025
Cấp xét xử: Sơ thẩm
8
Ban hành: 25/02/2025
Cấp xét xử: Sơ thẩm
9
Ban hành: 24/02/2025
Cấp xét xử: Sơ thẩm
10
Ban hành: 24/02/2025
Cấp xét xử: Sơ thẩm
11
Ban hành: 21/02/2025
Cấp xét xử: Sơ thẩm
12
Ban hành: 19/02/2025
Cấp xét xử: Sơ thẩm
13
Ban hành: 18/02/2025
Cấp xét xử: Sơ thẩm
14
Ban hành: 18/02/2025
Cấp xét xử: Sơ thẩm
15
Ban hành: 18/02/2025
Cấp xét xử: Sơ thẩm
16
Ban hành: 17/02/2025
Cấp xét xử: Sơ thẩm
17
Ban hành: 11/02/2025
Cấp xét xử: Sơ thẩm
18
Ban hành: 11/02/2025
Cấp xét xử: Sơ thẩm
19
Ban hành: 11/02/2025
Cấp xét xử: Sơ thẩm
20
Ban hành: 23/01/2025
Cấp xét xử: Sơ thẩm