Bản án số 54/2025/DS-ST ngày 27/09/2025 của Tòa án nhân dân khu vực 10 - Phú Thọ, tỉnh Phú Thọ về tranh chấp về thừa kế tài sản

  • Thuộc tính
  • Nội dung
  • VB gốc
  • VB liên quan
  • Lược đồ
  • Đính chính
  • Án lệ
  • BA/QĐ cùng nội dung
  • Tải về
Tải văn bản
Báo lỗi
  • Gửi liên kết tới Email
  • Chia sẻ:
  • Chế độ xem: Sáng | Tối
  • Thay đổi cỡ chữ:
    17

Thuộc tính Bản án 54/2025/DS-ST

Tên Bản án: Bản án số 54/2025/DS-ST ngày 27/09/2025 của Tòa án nhân dân khu vực 10 - Phú Thọ, tỉnh Phú Thọ về tranh chấp về thừa kế tài sản
Quan hệ pháp luật: Tranh chấp về thừa kế tài sản
Cấp xét xử: Sơ thẩm
Tòa án xét xử: Tòa án nhân dân khu vực 10 - Phú Thọ, tỉnh Phú Thọ
Số hiệu: 54/2025/DS-ST
Loại văn bản: Bản án
Ngày ban hành: 27/09/2025
Lĩnh vực: Dân sự
Áp dụng án lệ:
Đã biết

Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để xem áp dụng án lệ. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!

Đính chính:
Đã biết

Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để xem đính chính. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!

Thông tin về vụ/việc: Bản án DSST Nguyễn Văn K - Nguyễn Văn T tranh chấp chia thừ kế
Tóm tắt Bản án

Nội dung tóm tắt đang được cập nhật, Quý khách vui lòng quay lại sau!

Tải văn bản

1
TOÀ ÁN NHÂN DÂN TỈNH PHÚ THỌ
TOÀ ÁN NHÂN DÂN KHU VỰC 10
Bản án số: 54/2025/DS-ST
Ngày 27 tháng 9 năm 2025
“V/v Tranh chấp quyền sử dụng đất và
yêu cầu chia di sản thừa kế quyền sử dụng
đất”
CỘNG HOÀ XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM
Độc lập - Tự do - Hạnh Phúc
NHÂN DANH
NƯỚC CỘNG HOÀ XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM
TOÀ ÁN NHÂN DÂN KHU VỰC 10 - PHÚ THỌ
- Thành phần Hội đồng xét xử sơ thẩm gồm có:
Thẩm phán - Chủ toạ phiên toà: Nguyễn Thị Hải
c Hội thẩm nhân dân: Bà Vũ Thị Phương Th
Bà Nguyễn Thị Thanh Hương
- Thư phiên tòa: Nguyễn Thị Oanh - Thẩm tra viên Tòa án nhân
dân Khu vực 10 - Phú Thọ.
- Đại diện Viện kiểm sát nhân dân Khu vực 10-Phú Thọ tham gia phiên
tòa: Ông Phạm Tiến Tuân - Kiểm sát viên.
Trong các ngày, từ ngày 25/9/2025 đến ngày 27/9/2025 tại trụ sở Tòa án
nhân dân Khu vực 10 - Phú Thọ xét xử thẩm công khai vụ án Dân sự thụ
số 123/2024/TLST- DS ngày 21 tháng 10 năm 2024 về việc “Tranh chấp Quyền
sử dụng đất chia di sản thừa kế quyền sử dụng đất” theo Quyết định đưa vụ
án ra xét xử số 72/2025/QĐXXST- DS ngày 05 tháng 5 năm 2025 giữa các
đương sự:
- Nguyên đơn: Ông Nguyễn Văn K, sinh năm 1962; Địa chỉ: Thôn P,
B, huyện V, tỉnh Vĩnh Phúc, (Nay xã V, tỉnh Phú Thọ); Hiện đang trú tại
Tổ A, phường V, thành phố Hà Nội, (Có mặt);
- Bị đơn yêu cầu phản tố: Ông Nguyễn Văn T, sinh năm 1966; Địa
chỉ: Thôn P, B, huyện V, tỉnh Vĩnh Phúc, (Nay V, tỉnh Phú Thọ), (Có
mặt);
- Người quyền lợi nghĩa vụ liên quan: Nguyễn Thị Q sinh năm
1969; Nguyễn Thị Y sinh năm 1972; Nguyễn Thị M sinh năm 1975;
Cùng địa chỉ: Thôn P, B, huyện V, tỉnh Vĩnh Phúc, (Nay xã V, tỉnh Phú
Thọ), (Đều vắng mặt có đơn xin xử vắng mặt);
2
Chị Nguyễn Thị A, chị Nguyễn Thị Á, anh Nguyễn Văn S chị Nguyễn
Thị N; Cùng địa chỉ: Thôn P, xã B, huyện V, tỉnh Vĩnh Phúc, (Nay xã V, tỉnh
Phú Thọ), (Đều vắng mặt);
NỘI DUNG VỤ ÁN:
Trong đơn khởi kiện đề ngày 18 tháng 10 năm 2024 những lời khai
tiếp theo tại phiên tòa nguyên đơn ông Nguyễn Văn K trình bày:
Bố mẹ ông cụ Nguyễn Ngọc N1 (đã chết năm 2001) cụ Nghiêm Thị
L (sinh năm 1938 - chết năm 2014) sinh được 06 người con là: ông Nguyễn Văn
T1 sinh năm 1961 (đã chết năm 2002), ông Nguyễn Văn K sinh năm 1962,
ông Nguyễn Văn T sinh năm 1966, bà Nguyễn Thị Q sinh năm 1969, bà Nguyễn
Thị Y sinh năm 1972 Nguyễn Thị M sinh năm 1975. Ông T1 v
Nguyễn Thị C (đã chết cách đây 4 năm) 04 người con Nguyễn Thị A,
Nguyễn Thị Á, Nguyễn Văn S Nguyễn Thị N, hiện nay các con của ông T1
đều đi làm ăn xa, không có mặt ở địa phương nơi trú. Ông thửa đất thổ
số 389, tờ bản đsố 10a diện tích khoảng 600 m
2
của ông đã sử dụng từ năm
1987 đến nay nhưng vẫn chưa được cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất.
Năm 2023 ông làm thủ tục để xin cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất,
UBND L (nay V) đã làm các thủ tục niêm yết thông báo công khai,
trong quá trinh thực hiện công khai hồ xin cấp giấy chứng nhận thì em trai
ông Nguyễn Văn T đã đơn đến UBND đề nghị tạm dừng việc cấp giấy
chứng nhận quyền sử dụng đất của ông do em trai ông cho rằng đất của
bố mẹ để lại. Tuy nhiên ông khẳng định thửa đất trên của riêng ông, không
liên quan đến bố mẹ gia đình ông. Ông K đơn khởi kiện ông Nguyễn
Văn T đề nghị Tòa án nhân dân huyện Vĩnh Tường (Nay Toà án nhân dân
Khu vực 10 - Phú Thọ) giải quyết: Xác nhận thửa đất thổ cư số 389, tờ bản đồ số
10a diện tích khoảng 600 m
2
của ông để ông làm thủ tục xin cấp giấy chứng
nhận quyền sử dụng đất.
Tại phiên toà ông K tự nguyện xin rút toàn bộ yêu cầu khởi kiện do
ông T đơn yêu cầu phản tố nên ông để Toà án giải quyết yêu cầu của ông T
trước, sau đó ông sẽ yêu cầu giải quyết sau. Việc ông xin rút yêu cầu khởi
kiện là hoàn toàn tự nguyện.
- Bị đơn yêu cầu phản tông Nguyễn Văn T trình bày: Ông em trai
ruột của ông Nguyễn Văn K, về quan hệ gia đình bố mẹ ông sinh được 6 anh em
như ông K đã trình trên đúng. Khi bố mẹ ông còn sống, gia đình ông
thửa đất ao số thửa 389, tờ bản đồ số 10a diện tích khoảng 600m
2
là bố mẹ ông
3
đã sử dụng từ khi các ông còn chưa sinh ra, khi còn nhỏ lớn lên ông được
chứng kiến bố mẹ ông đã sử dụng đất ao đó đất tăng gia của gia đình
hiện nay đất chưa được cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất. Năm 2023 ông
K có làm thủ tục để xin cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất đứng tên ông K
nhưng ông không đồng ý do đó đất của bố mẹ để lại nên phải chia đều
cho các anh chem trong gia đình. Khi ông K đi bộ đội từ năm 1978 khoảng 03
năm sau thì ông K về trên nhà đất của bố mẹ, sau đó ông K lấy vợ gia đình
đông con nên vchồng ông K ra riêng trên đất ao thời gian khoảng 3 -4 năm,
sau đó vì ao ngập lụt nên vợ chồng ông K lại về ở trên đất thổ cư của bố mẹ. Khi
mẹ ông còn sống, gia đình ông đã phân chia đất cho ba anh em trai đều nhau,
ông sdụng 02 phần bao gồm phần của ông và phần của ông T1, còn lại phần
đất của ông K hiện nay ông K đã xây nhà thtrên đất. Còn lại diện tích đất ao
chưa được cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, hàng năm ông ông K đã
lấp ao thành đất cư, ông đang sử dụng một phần để làm chuồng lợn chăn nuôi,
phần còn lại để không chưa có ai sử dụng. Nay ông K yêu cầu xác nhận thửa đất
thổ cư số 389, tờ bản đồ số 10a diện tích khoảng 600 m
2
là của ông K để làm thủ
tục xin cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất Quan điểm ông không nhất trí.
Tại phiên toà ông K xin rút đơn khởi kiện thì ông không có ý kiến gì mà ông vẫn
giữ nguyên yêu cầu phản tố về việc yêu cầu chia thừa kế đối với di sản là quyền
sử dụng đất ao của bố mẹ ông đlại làm 6 phần cho 6 anh chị em đó đất
của bố mẹ để lại, phần của ông được hưởng thì ông xin được sử dụng bằng đất.
Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan bà Nguyễn Thị Q, Nguyễn Thị
Y Nguyễn Thị M đều trình bày: Các bà là em gái ruột của ông Nguyễn
Văn K ông Nguyễn Văn T. Về quan hệ gia đình như ông K đã trình bày
trên. Ông Nguyễn Văn K thửa đất ao số thửa 389, tờ bản đồ số 10a diện tích
khoảng 600m
2
. Nguồn gốc đất của ông K sử dụng từ năm 1987, do ông K đi
bộ đội về địa phương, khi đó gia đình các bà thuộc diện đông nhân khẩu nên ông
K xin cấp đất được UBND B (cũ) giao cho thửa đất đó để ở, vợ chồng
ông K đã làm nhà tranh vách đất ăn trên đất từ năm 1987, cho đến năm 2003
ông K ly hôn vợ Nghiêm Thị N2 sau đó lại kết hôn với vợ hai B, ông K
tuy không sống tại địa phương nhưng hàng năm giỗ tết ông K vẫn về nhà
quản tài sản thửa đất nói trên. Do ông đi làm ăn xa nên ông T em trai
sử dụng nhờ phần diện tích đất của vợ chồng ông K để chăn nuôi. Bản chất thì
đó là đất của ông K được giao sử dụng từ trước đó, không phải là đất của ông T.
Thửa đất vẫn chưa được cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất. Năm 2023 ông
4
K làm thủ tục để xin cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, UBND đã
làm các thủ tục niêm yết thông báo công khai, trong quá trinh thực hiện công
khai hồ xin cấp giấy chứng nhận thì ông Nguyễn Văn T em trai đã đơn
đến UBND cản trở việc xin cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất của ông
K do vậy hiện nay ông K vẫn chưa làm được giấy chứng nhận quyền sử dụng
đất. Về đất thổ của bố mẹ các đã được phân chia thừa kế xong nên không
liên quan đến phần diện tích đất của ông K đang khởi kiện. Nay ông K
đơn khởi kiện ông Nguyễn Văn T đề nghị Tòa án nhân dân giải quyết việc xác
nhận thửa đất thổ cư số 389, tờ bản đồ số 10a diện tích khoảng 600m
2
là của ông
K để ông K làm thủ tục xin cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất. Quan điểm
của chị em bà đều đồng ý thừa nhận thửa đất đó của ông K, không liên
quan đến bố mẹ chị em các bà. Đối với yêu cầu phản tố của ông T về việc
chia di sản thừa kế quyền sử dụng đất đối với thửa đất ao số thửa 389, tờ bản đồ
số 10a diện tích khoảng 600m
2
theo quy định pháp luật, cụ thể chia đất làm 6
phần cho 6 anh chị em thì quan điểm của các đều cho rằng đó đất của ông
K không phải đất của bố mẹ nên các không nhất trí chia thừa kế. Nếu Toà
án giải quyết phân chia thừa kế đối với thửa đất nêu trên thì toàn bộ phần thừa
kế chị em các được hưởng đều cho ông K toàn quyền sử dụng, các
không yêu cầu đề nghị vì đó công sức của ông K, không phải tài sản
của gia đình. Do điều kiện công việc nên chị em các bà đều có đơn xin được giải
quyết vắng mặt.
Đối với người quyền lợi, nghĩa vụ liên quan chị Nguyễn Thị A, chị
Nguyễn Thị Á, anh Nguyễn Văn S chị Nguyễn Thị N đều là các con của ông
Nguyễn Văn T1 đã được Toà án triệu tập nhưng không mặt tại địa phương
nơi trú, ông K ông T đều cho biết các anh chị đã đi làm Trung Quốc
không địa chỉ nên Toà án không lấy được lời khai quan điểm của các anh
chị.
Xác minh tại UBND xã L (nay là xã V) ngày 25/02/2025 cho biết: Căn cứ
phiếu xác nhận diện tích đất đai xã B quyển số 01 - thôn P thể hiện: Chủ sử dụng
đất Nguyễn Văn K sinh năm 1962, địa chỉ thôn P, B tổng số thửa đất s
dụng theo hiện trạng 02 thửa với tổng diện tích 807.2 m
2
gồm thửa số 88 tờ
bản đồ 22 diện tích 540.8 m
2
thửa số 584 tờ bản đồ 24 diện tích 266.4 m
2
.
Ông Nguyễn Văn T, sinh năm 1966, địa chỉ tại thôn P, B tổng số thửa đất
sử dụng theo hiện trạng 07 thửa với tổng diện tích 2642.1 m
2
(trong đó
5
thửa đất số 54, tờ bản đồ số 22, diện tích 406.5 m
2
). Căn cứ biên bản xác nhận
ranh giới, mốc giới thửa đất ở thôn P xã B quyển số 01 thể hiện: Ngày
30/8/2010 đã tiến hành khảo sát, xác định ranh giới thửa đất thực địa của hộ ông
Nguyễn Văn K - Nguyễn Thị B đang sử dụng tại thôn P B thửa đất tiếp giáp
08 hộ (biên bản xác nhận ranh giới, mốc giới kèm theo). Ông Nguyễn Văn T
- Thị T2 đang sử dụng thửa đất các chiều tiếp giáp với các hộ (biên
bản xác nhận ranh giới, mốc giới kèm theo), (Biên bản xác nhận ranh giới, mốc
giới thửa đất chữ của ông Văn K1 - Chu tịch UBND xã, Ông Nguyễn
Kiều H - Tổ trưởng tổ đo đạc, ông Trần Văn N3 - Cán bộ địa chính); Sổ mục
sổ địa chính: Không thông tin thửa đất; Bản đồ 299 (lập năm 1997) thể
hiện: Tờ bản đồ số 10a, thửa đất số 389, diện tích 485m
2
loại đất ao; Bản đồ VN
2000 thể hiện: Thửa số 88 tờ bản đồ số 22, diện tích 540.8m
2
, thửa đất này chưa
được cấp giấy chứng nhận QSD đất. Tại biên bản hòa giải ngày 06/05/2024 của
UBND xã B về việc hòa giải tranh chấp giữa ông Nguyễn Văn K và ông Nguyễn
Văn T tại phần nội dung buổi hòa giải cán bộ địa chính xã đã cung cấp thông tin
thửa đất theo bản đồ đo vẽ hệ tọa độ VN2000 như sau: Thửa đất số 88 tờ bản đồ
22 diện tích 644.9 m
2
(Diện tích cung cấp theo số liệu tại mảnh trích đo địa
chính số 41 - 2023 ngày 09/11/2023 do gia đình ông K tự thuê đo đạc thể hiện
thửa đất diện tích 644.9 m
2
xác nhận của văn phòng Đ chi nhánh V,
các hgiáp ranh liền kề đã xác nhận). Theo Bản đồ htọa độ VN2000 đo
năm 2010 thửa số 88 diện tích 540.8 m
2
, chủ sử dụng hộ ông Nguyễn Văn
K. Như vậy sổ mục kê không thể hiện thông tin thửa đất số 389 tờ bản đồ số 10a
diện tích 485m
2
đứng tên ai là chủ sử dụng đất. Nay ông K có đơn khởi kiện ông
T yêu cầu xác nhận thửa đất nói trên là của ông K, ông T có đơn yêu cầu phản tố
đề nghị chia thừa kế quyền sử dụng đất đối với thửa đất nói trên. Quan điểm của
UBND xã đề nghị tòa án giải quyết theo quy định của pháp luật.
Tại phiên tòa, Đại diện Viện kiểm sát nhân dân khu vực 10 - Phú Thọ
phát biểu quan điểm vviệc giải quyết vụ án: Đề nghị Hội đồng xét xcăn cứ
các Điều 192, Điều 217, Điều 218, Điều 243, Điều 244, Điều 245 Bộ Luật Tố
tụng dân sự; khoản 33 Điều 3, Điều 136, Điều 137, Điều 236 Luật đất đai năm
2024; Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Uỷ ban
thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản sử
dụng án phí lệ phí Tòa án, Xử: Đình chỉ giải quyết yêu cầu khởi kiện của ông K
6
về việc yêu cầu xác nhận thửa đất thổ số 389, tờ bản đồ số 10a diện tích
khoảng 600m² là của ông K.
Đình chỉ giải quyết yêu cầu phản tố của ông Nguyễn Văn T về việc chia
thừa kế theo pháp luật di sản của các cụ Nguyễn Văn N4, Nghiêm Thị L (bố mẹ
ông K, ông T) đối với thửa đất thổ số 389, tờ bản đồ số 10a diện tích khoảng
600 m
2
, địa chỉ thôn P, xã L, huyện V (nay là thôn P, xã V, tỉnh Phú Thọ).
Về án phí: Hoàn trả lại tiền tạm ứng án phí cho ông Nguyễn Văn T.
NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN:
Sau khi nghiên cứu các tài liệu trong hvụ án được thẩm tra tại phiên
tòa, Hội đồng xét xử nhận định:
[1]. Về thủ tục tố tụng: Nguyên đơn ông Nguyễn Văn K đơn khởi kiện yêu
cầu xác nhận quyền sử dụng đất đối với thửa đất số 389, tờ bản đồ số 10a diện
tích khoảng 600m². Quá trình giải quyết, tại phiên tòa ông K tự nguyện rút toàn
bộ yêu cầu khởi kiện. Việc rút yêu cầu khởi kiện hoàn toàn tự nguyện, phù
hợp với quy định tại khoản 2 Điều 244 Bộ luật Tố tụng dân sự nên Hội đồng xét
xử đình chỉ đối với yêu cầu khởi kiện của ông K. Bị đơn ông Nguyễn Văn T
yêu cầu phản tvề việc chia thừa kế quyền sử dụng đất đối với thửa đất nêu
trên, yêu cầu phản tố hợp lệ, thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa án nên được
xác định quan hệ tranh chấp về chia di sản thừa kế theo đơn yêu cầu của bị đơn
đối với nguyên đơn theo quy định tại khoản 5 Điều 26 của Bộ luật tố tụng dân
sự. Bị đơn hộ khẩu thường trú tại L, huyện V, tỉnh Vĩnh Phúc (Nay
V, tỉnh Phú Thọ), tài sản đang tranh chấp tại L, huyện V (N V, tỉnh
Phú Thọ). Do vậy, theo quy định tại khoản 1 Điều 35, khoản 1 Điều 39 của Bộ
luật tố tụng dân sự, vụ án thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa án nhân dân Khu
vực 10 - Phú Thọ. Căn cứ vào quy định tại điểm b khoản 2 Điều 217 Hội đồng
xét xử thay đổi tư cách đương sự bị đơn trở thành nguyên đơn và nguyên đơn trở
thành bị đơn.
Về sự vắng mặt của các đương sự những người quyền lợi, nghĩa v
liên quan nhưng đã được Toà án triệu tập hợp lệ đến lần thứ hai vẫn vắng
mặt, các đương sự đều đã đơn xin xử vắng mặt. vậy căn cứ vào Điều 227
Điều 228 của Bộ luật tố tụng dân sự, Tòa án tiến hành xét xử vắng mặt đối
với những người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan là đúng quy định pháp luật.
[2]. Xét yêu cầu phản tố của bị đơn:
[2.1]. Về hàng thừa kế: Cụ Nguyễn Ngọc N1 (đã chết năm 2001) cụ
7
Nghiêm Thị L (chết năm 2014). Cụ N1 cụ L sinh được 06 người con là: ông
Nguyễn Văn T1 (đã chết năm 2002), ông là Nguyễn Văn K, ông Nguyễn Văn T,
Nguyễn Thị Q, Nguyễn Thị Y Nguyễn Thị M. Do vậy hàng thừa kế
thứ nhất của cụ N1 cụ L ông là Nguyễn Văn K, ông Nguyễn Văn T,
Nguyễn Thị Q, Nguyễn Thị Y Nguyễn Thị M. Do ông T1 chết năm
2002 (trước thời điểm cụ L chết) nên các con của ông T1 chị Nguyễn Thị A,
chị Nguyễn Thị Á, anh Nguyễn Văn S chị Nguyễn Thị N được xác định
hàng thứa kế thế vị.
[2.2]. Về di sản thừa kế: Đối với diện tích đất đang có tranh chấp theo ông
K cho rằng đất được UBND B (cũ) giao cho ông sử dụng từ năm 1987, ông
đã làm nhà, sinh sống ổn định, không phải đất của bố mẹ để lại. Tuy nhiên
ông T cho rằng thửa đất của bố mẹ để lại, chưa chia thừa kế nên ông T yêu
cầu được chia đều cho các anh chị em. Ba người em gái (bà Q, Y, M) đều
xác nhận đất là của ông K được giao từ năm 1987, không phải tài sản của bố mẹ.
Xác minh tại UBND xã L cho biết: Căn cứ phiếu xác nhận diện tích đất đai xã B
quyển số 01 - thôn P thể hiện: Chủ sử dụng đất Nguyễn Văn K sinh năm 1962,
địa chỉ thôn P, B tổng số thửa đất sử dụng theo hiện trạng 02 thửa với
tổng diện tích 807.2 m
2
gồm thửa số 88 tờ bản đồ 22 diện tích 540.8 m
2
thửa
số 584 tờ bản đồ 24 diện tích 266.4 m
2
. Như vậy, theo hồ đo đạc 2010, thửa
đất số 88, diện tích 540,8m
2
đứng tên hộ ông K, do ông K quản , sử dụng
xây nhà ở cho đến hiện nay, các hộ giáp ranh đều xác nhận. Bản đồ 299 thể hiện
thửa 389 là đất ao, diện tích 485m
2
.
Xét lời khai của các bên đương sự cũng như người làm chứng (là các hộ
dân sử dụng đất liền kề), các tài liệu, chứng cứ: cơ sở xác định thửa đất tranh
chấp do ông Nguyễn Văn K trực tiếp quản lý, sử dụng ổn định từ năm 1987 đến
nay; đã xây dựng nhà ở, nhà thờ. Quá trình sử dụng đất không có bất cứ văn bản,
tài liệu thể hiện đất của bố mẹ ông K ông T để lại. Việc ông T cho rằng
đất của bố mẹ để lại nhưng không cung cấp được tài liệu, chứng cứ chứng
minh. Do đó, không có căn cứ xác định đây là di sản thừa kế của cụ N1 cụ L
để lại. Do không phải di sản thừa kế nên yêu cầu phản tố của ông Nguyễn Văn T
về việc chia thừa kế quyền sử dụng đất thửa số 389, tờ bản đồ số 10a không
sở chấp nhận. Quan điểm của Viện kiểm sát tại phiên toà về việc đình ch
yêu cầu khởi kiện của ông K căn cứ, phù hợp pháp luật nên được chấp
nhận, tuy nhiên đối với đề nghị đình chỉ yêu cầu phản tố của bđơn Hội đồng
xét xử nhận thấy chưa phù hợp nên không được chấp nhận cần bác yêu cầu
8
phản tố của bị đơn.
[3] Về án phí: Ông Nguyễn Văn K người cao tuổi nên được miễn nộp
tiền án phí dân sự thẩm. Ông Nguyễn Văn T phải chịu án pđối với phần
yêu cầu phản tố không được chấp nhận.
Vì các lẽ trên,
QUYẾT ĐỊNH:
Căn cứ vào các Điều 609, Điều 610, Điều 611, Điều 612 Điều 650 Bộ
luật Dân sự năm 2015; khoản 33 Điều 3, Điều 236 Luật đất đai năm 2024; Điều
26, Điều 35, Điều 39, Điều 147, Điều 217, Điều 244, Điều 227 và Điều 228 của
Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2015; Căn cứ Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14
ngày 30 tháng 12 năm 2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội quy định về mức
thu, miễn, giảm, nộp, quản lý và sử dụng án phí, lệ phí Tòa án:
1. Đình chỉ giải quyết đối với yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn ông
Nguyễn Văn K về việc: “Xác nhận quyền sử dụng thửa đất số 389, tờ bản đồ số
10a, diện tích khoảng 600m
2
tại thôn P, B (nay V), huyện V, tỉnh Vĩnh
Phúc (nay là tỉnh Phú Thọ) thuộc quyền sử dụng của ông K”.
2. Không chấp nhận toàn bộ yêu cầu phản tố của bị đơn ông Nguyễn Văn
T vviệc yêu cầu chia di sản thừa kế quyền sử dụng đất đối với thửa đất nêu
trên.
3. Về án phí dân sthẩm: Ông Nguyễn Văn T phải chịu 300.000đ (Ba trăm
nghìn đồng) án phí dân sự sơ thẩm được trừ vào số tiền tạm ứng án phí đã nộp là
300.000 đồng (Ba trăm nghìn đồng) theo biên lai thu số 0005363 ngày
16/01/2025 của Cơ quan Thi hành án dân sự huyện Vĩnh Tường, tỉnh Vĩnh Phúc
(Nay Phòng Thi hành án dân skhu vực 10 - Phú Thọ). Ông Nguyễn Văn K
là người cao tuổi nên được miễn nộp tiền án phí dân sự sơ thẩm.
4. Về quyền kháng cáo: Các đương sự có mặt có quyền kháng cáo Bản án
trong hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án. Đương sự vắng mặt có quyền kháng cáo
bản án trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được bản án hoặc bản án được
niêm yết theo quy định của pháp luật.
Nơi nhận:
- VKSND Khu vực 10;
- Phòng THADS Khu vực 10;
- Các đương sự;
- Lưu hồ sơ vụ án.
TM. HỘI ĐỒNG XÉT XỬ SƠ THẨM
THẨM PHÁN - CHỦ TỌA PHIÊN TOÀ
(Đã ký)
Nguyễn Thị Hải
9
Tải về
Bản án số 54/2025/DS-ST Bản án số 54/2025/DS-ST

Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để tải file. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!

Bản án số 54/2025/DS-ST Bản án số 54/2025/DS-ST

Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để tải file. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!

Bản án/ Quyết định cùng đối tượng

Bản án cùng lĩnh vực

Bản án mới nhất